Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

VĂN học PHÂN TÍCH tác PHẨM NGUYỆT (TRẦN NHÂN TÔNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.39 KB, 22 trang )

Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN NHĨM 3
1. Nguyễn Hồi Phương
2. Nguyễn Thị Mỹ Hằng
3. Phạm Hồng Phi
4. Nguyễn Thị Nga
5. Nguyễn Thị Duyên
6. Vũ Thị Kim Dung
7. Lê Thị Thiên
8. Vũ Thị Ngọc Mai
9. Vũ Thị Oanh
10. Đặng Ngọc Ngận
11. Nguyễn Phương Hồng Đức
12. Hà Thị Ngân
13. Từ Thị Mỹ Hạnh

Page 1


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3

MỤC LỤC
A.Lời dẫn nhập
B.Nội dung
I.Tìm hiểu chung
1. Vài nét về tác giả - Trần Nhân Tông
2.Vài nét về Thiền
2.1 Thiền là gì?
2.2 Thiền trong thơ Trần Nhân Tơng
II.Tìm hiểu về bài thơ “Nguyệt”
1. Hai câu đầu


“ Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Lộ trích thu đình dạ khí hư”
2. Hai câu cuối
“ Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”
III. Nghệ thuật
IV. Tổng kết
V.Tài liệu tham khảo

A.DẪN NHẬP
Page 2


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Giữa thiên nhiên và con người bao giờ
cũng có mối quan hệ tương giao. Đăc biệt với cảm thức thời trung đại con người đã
xem mình là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, một phần tử của vũ trụ thiên nhiên.
Cùng với đề tài về con người, đề tài về thiên nhiên đã góp phần tạo nên cảm hứng
nhân văn trong văn chương.
Thiên nhiên trong văn học Phật giáo Lí - Trần là đối tượng lớn, khách quan cho
người sáng tác chiêm nghiệm và phản ánh truyền tải tư tưởng thiền đạo. Bàn về
những vấn đề này trước đây đã có khá nhiều cơng trình vĩ đại của các nhà nghiên
cứu như Bùi Văn Nguyên, Đoàn Thị Thu Vân, Đinh Gia Khánh, Thích Mãn Giác,
Lê Trí Viễn,… với lượng trí thức hạn hẹp, chắc chắn rằng người viết sẽ khơng đủ
khả năng để trình bày thấu đáo những vấn đề mà các bậc tiền nhân đã bàn. Song,
nói về tấm lịng thì người đi sau ln mong muốn tìm hiểu về tư tưởng Phật giáo,
đặc biệt là về Thiền đạo với cả tấm lòng ngưỡng vọng và trân trọng . Chỉ e rằng
không đủ tài và tâm để hân thưởng hết những châu ngọc của các vị tiên sinh.
Quả thực, những hình ảnh thiên nhiên trong văn học Phật giáo mà các vị tiền bối
sử dụng để chỉ cái trí tuệ bát nhã, siêu việt, thơng tỏ ví với chân tâm của bậc giác

ngộ chân lí, thường được sử dụng nhiều đó là vầng trăng sáng và đóa hoa sen trong
lò lửa. Ở đây, tại thời điểm này chúng tơi vẫn cịn lặn ngụp trong vốn tri thức đầy
mơng muội nghèo nàn chỉ dám tìm hiểu và khám phá một cách khơng dám cho là
tồn mĩ về ánh trăng trong tư tưởng Thiền đạo của người xưa. Mà cụ thể chúng tơi
chỉ dám nghiêng mình hân thưởng một khía cạnh rất nhỏ qua tác phẩm NGUYỆT
của đức Phật Hồng Trần Nhân Tơng để lại. Mặc dù rất cố gắng trong quá trình tìm
hiểu nhưng với những hiểu biết cịn khá là hạn hẹp, chắc chắn rằng chúng tơi sẽ
khơng tránh khỏi có những sơ xuất bất cập cũng như không phản ánh được những
vấn đề trên một cách tồn bích và vơ lượng. Kính mong có được những sự chia sẻ
quý báu từ quý vị.

B.NỘI DUNG
I. Tìm hiểu chung
Page 3


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
1. Vài nét về tác giả - Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông ( 陳陳陳) (1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳陳). Ông là con
trai trưởng của vua Trần Thánh Tơng với NgunThánh Thiên Cảm hồng thái hậu
Trần Thị Thiều. Ông sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ , niên hiệu Thiệu Long
năm thứ I (1258).
Trần Nhân Tông là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và
trước vua Trần Anh Tông)trong lịch sử Việt Nam. Ơng trị vì 14 năm (1279 – 1293)
và làm Thái thượng hồng 13 năm. Ơng là người đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hồng Giáp Điếu Ngự. Ơng được sử sách ca
ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung
Vũ Lâm ( Ninh Bình), sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh)tu hành lập Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Ông lấy đạo hiệu là Điệu Ngự Giác Hồng ( hay Trúc Lâm Đầu

Đà). Ơng là tổ thứ nhất của dòng thiền Việt Nam này, về sau ơng được gọi cung
kính là “Phật Hồng” cũng vì lí do này.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch 1308 được an táng ở lăng Quy Đức, phủ
Long Hương; xá lị cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy
là Pháp Thiên Sùng Đạo Ưng Thế Hóa Dân Long Từ Hiếu Hiệu Thánh Văn Thần
Võ Nguyên Minh Diệu Hiếu Hoàng Đế. Tên thụy ngắn là Hiếu Hồng Đế Miếu
Hiệu Nhân Tơng.
2.Vài nét về Thiền:
2.1 Thiền là gì?

Page 4


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Thiền là âm tiếng Phạn nói cho đủ là Thiền Na, Trung Hoa dịch là tĩnh lự hay tư
duy tu. Đức tùng lâm hay trạng thái định tuệ quân bình.(Tĩnh lự :tĩnh là lặng , lự là
suy tư. Tư duy tu : tư duy tức là soi xét hay quán chiếu , tu là cách hành trì . lối tu
bằng cách soi xét quán chiếu gọi là quán).
Trong nhà Thiền chia ra hai lối tu Chỉ và Quán. Chỉ là định , Quán là tuệ. Chỉ,
Quán tức là định tuệ riêng từng phần. Thiền là gom cả Định Tuệ đồng tu nên gọi là
Thiền Na. Tức quân bình Định và Tuệ .Gọi là công đức tùng lâm, tu Thiền là pháp
tu chủ yếu của đạo Phật, nên ai ứng dụng tu như thế gọi là công đức tùng lâm.
Sau này các chư tổ không định nghĩa thiền như thế mà các ngài nói đây là pháp tu
“phản quan tự kỉ”. Phản quan là soi trở lại. tự kỉ là chính mình. Phản quan tự kỉ
là soi sáng lại chính mình.
Trong nhà Phật có chia ra năm loại Thiền:
1.Thiền phàm phu
2.Thiền ngoại đạo
3.Thiền tiểu thừa
4.Thiền đại thừa

5.Thiền tối thượng thừa.
Như vậy thiền là một , nhưng ứng dụng tu thì có riêng từng loại khác nhau.( hoa
vơ ưu_tr80. tập 7_Ht.Thích Thanh Từ. Nxb Tôn giáo).
Thiền tông truyền qua Việt Nam, từ tổ tì-ni-đa-lưu-chi lần lần tới thiền sư Vơ
Ngơn Thơng, truyền mãi cho đến đờiTrần. Như vậy Thiền tông truyền sang Việt
Nam có căn bản, có hệ thống hẳn hoi chớ không phải là chuyện vô căn cứ. Các
Thiền sư theo hệ tổ tì-ni-đa-lưu-chi như Thiền Sư Vạn Hạnh v.v..ngồi ra cịn có
các vị theo hệ ngài Vơ Ngơn Thơng cũng khá nhiều. Hai hệ này truyền tới gần cả
20 đời Vua. Đến khi thái tử Trần Khâm tức vua Trần Nhân Tông sau này.

2.2 Thiền trong thơ Trần Nhân Tông:

Page 5


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Trần Nhân Tông sau khi từ bỏ ngôi vị của mình lên núi Yên Tử vào rừng trúc ở
Ngọa Vân Am chuyên tu, 5 năm tu đạo khổ hạnh ở rừng trúc. Ngài hoàn toàn ngộ
đạo. Ngài sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với “chân như” , với
những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục. Thiền gia cảm nhận thiên
nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi Ngài cho rằng bản thể của vũ trụ là trống
không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa
nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật. Thiên nhiên qua cái nhìn của thiền gia dù bình
dị nhưng vẫn thấm đẫm hơi hướng mỹ cảm Thiền.
Thơ của ông mang ý vị Thiền để bày tỏ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên, con
người, cuộc sống, bày tỏ trạng thái tâm tư đã giác ngộ chân lí, miêu tả cái đẹp kì
diệu của thế giới bên trong con người.
Ngôn ngữ thơ ông mang nhưng nét chung của ngơn ngữ nghệ thuật trung đại
Phương Đơng; mang tính hàm xúc, nét đặc trưng cơ bản là biểu đạt “ngôn vô
ngôn” (cái không lời).

Thiền tông trong thơ ông đề cao một “con người tự do” với tinh thần phá chấp triệt
để, khơng vướng mắc vào giáo lí kinh điển; một “con người vơ ngã” vượt lên sự
ràng buộc khó phá vỡ nhất đó chính là sự ràng buộc của bản thân để đạt tới cái
tâm bình thản và cái nhìn độ lượng đối với vạn vật; một “con người vô ý” với tinh
thần “ưng vô sở trụ nhi sinh là tâm” tùy duyên mà hành động; một “con người vô
ngôn” lặng yên mà dạt dào phong phú, thế nhập cùng vạn vật vũ trụ bởi ngôn ngữ

là hữu hạn, không thể diễn đạt được cái chân lí vơ cùng. Nói chung đây là xu
hướng con người - vũ trụ.

II. Tìm hiểu về bài thơ “Nguyệt”
Page 6


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Trong thế giới tồn tại xung quanh con người thì có những cảnh vật thiên nhiên xuất
hiện rất đẹp và hữu tình như: phong-hoa-tuyết-nguyệt... Trong đó thì “ Nguyệt”
được xuất hiện với tần suất rất nhiều trong thơ ca. Không phải ngẫu nhiên như vậy,
vì ta thấy rằng Trăng rất đẹp_và ngắm trăng là 1 thú vui tao nhã, là nơi để thi sĩ gửi
gắm… những tâm tư, tình cảm của mình. Ta thấy trăng trong “Vọng Nguyệt”_Hồ
Chí Minh:
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tịng song khích khán thi gia.”
Hay thú vui chơi cầm-kì-thi-họa, uống rượu, thưởng thức trăng hoa với Nguyễn Du
“Khi chén rượu, lúc cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.
Không biết bao lần ánh trăng đã dát vàng trên những vần thơ. Khơng biết đã
có biết bao nhiêu thi sĩ đã “uống” vầng trăng vào mình mà “xuất khẩu” thành thơ.

Những trang thơ chứa đầy ánh trăng, vừa là ánh trăng soi sáng của thiên nhiên, vừa
là ánh trăng hiểu thấu lòng người và ánh trăng sáng huyền diệu làm bừng lên sự
giác ngộ của con người thấm đẫm tính chất Thiền trong bài “Nguyệt” của Trần
Nhân Tông. “ Nguyệt” là bài thơ nổi tiếng và độc đáo của ông mang cảm hứng
Thiền. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài thơ này để thấy rõ được hồn thơ Trần Nhân
Tông và “Nguyệt” :
“Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Page 7


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Lộ trích thu đình dạ khí hư
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”
Trần Nhân Tơng
Dịch thơ:
Đèn thu chếch bóng sách đầy giường
Đêm vắng sân thu lác đác sương
Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết
Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương.
( Đào Phương Bình dịch )

1. Hai câu đầu:
Hiện lên giữa bài thơ là không gian trong trẻo, lặng lẽ và khoáng đạt _đây
cũng là cái đặc trưng cho cái “không” của thể loại thơ Thiền. Thời gian được
miêu tả ở đây là thời gian lúc nửa đêm khuya mùa thu .Có thể nói, theo
Thiền thì khơng gian và thời gian như trên là thời điểm rất thuận lợi cho sự
bừng ngộ trí tuệ. Với cái “khơng” này thì cái tâm con người đã được lằng
đọng tinh khiết, dường như gạt khỏi lớp bụi bặm che phủ hằng ngày. Lúc
Page 8



Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
này đây thi nhân đang cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên.
Mà các thiền sư cho rằng bản thể của vũ trụ là sự trống không khi tâm con
người đạt tới sự tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt thì mới có thể hịa nhập vào
bản thể của vũ trụ. Đó là cái “khơng” của Thiền.
"Bán song đăng ảnh mãn sàng thư”
Mở đầu câu thơ là khung cảnh tĩnh lặng - nửa khung cửa sổ bên ánh đèn le
lói, sách để đầy giường. Câu thơ này làm người đọc liên tưởng đến, đây là
góc đèn sách của một anh thư sinh nghèo, trong đêm đang miệt mài bên ánh
đèn đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Câu thơ khơng đề cập chính xác cho
người đọc biết là canh mấy chỉ biết cái thời khắc ấy mang một khơng khí
tĩnh mịch, n ắng. Và dường như trong cái không gian đặc biệt ấy, những
vật tưởng chừng như vô tri vô giác lúc này đây lại trở nên có hồn một cách
lạ lùng..
Câu đầu thì thời gian khơng chính xác nhưng sang câu thứ hai thì dường như
bức màn đã được vén thật cao lên dẫn người đọc bước vào không gian đêm
thu thực sự mang hơi hướng của sự thanh vắng, thanh tịnh đang len lỏi dần
vào tâm hồn người đọc ...
“Lộ trích thu đình dạ khí hư“
Mùa thu, mùa của thi sĩ, mùa của những cảm xúc dạt dào bất tận. “Lộ trích
thu đình” đã làm nổi bật lên hai hình ảnh sân thu rộng lớn bao la - một hạt
móc nhỏ nhoi rơi trên sân đình. Hai cặp hình ảnh đối ngược ấy khiến cho
người đọc vừa có cảm giác gần gũi, mờ mờ ảo ảo, vừa thực vừa hư. Hình
ảnh ấy làm điểm nhấn mạnh thêm không gian lúc này rất yên tĩnh, đến mức
độ người đọc có thể nghe được âm thanh rất khẽ: tiếng hạt móc rơi trên sân
Page 9



Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
thu. Chứng tỏ không gian yên ắng vô cùng, không hề pha tạp một thứ âm
thanh nào. Hình ảnh ‘lộ trích” là hình ảnh quen thuộc trong thơ Thiền . Hình
ảnh hạt móc ở đây là hình ảnh hơi nước đêm bám trên bề mặt lá cây cỏ. Và
đó khơng chỉ đơn thuần là hạt móc rơi trên sân thu. Mà ẩn đằng sau đó là cả
một tâm niệm, một ý nghĩ mà Trần Nhân Tơng muốn gửi gắm: đó là lẽ đời,
đó là những thăng trầm của dịng đời... hợp rồi tan cũng như hạt móc vậy,
lúc là thể lỏng, nhưng lúc lại là thể khí bốc hơi theo làn khói.
Hạt móc chỉ là hơi nước mong manh nhỏ bé đọng lại trên cây lá rồi khi rơi
xuống đất thì cũng vỡ ra. Số phận con người cũng giống như hạt móc. Cũng
được sinh ra rồi một ngày nào đó sẽ trở về với đất mẹ, hịa mình vào cát bụi.
Sinh lão bệnh tử là chuyện bình thường của qui lật con người vì vậy mà
đừng quá lo sợ, hãy sống sao cho tốt. Cịn cuộc sống đó chứa đựng trong nó
bao thăng trầm nhưng rồi cũng sẽ qua đi cũng như lẽ đời “hợp rồi tan, tan rồi
hợp”. Quan trọng là chúng ta nhận ra được gì qua những thăng trầm ấy: lẽ
sống, tình đời, tình người… Và hình ảnh hạt móc ấy cũng được Vạn Hạnh
thiền sư mang vào trong vần thơ như một biểu tượng cho sự thịnh suy trong
bài “Thị đệ tử”:
“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

“Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phơ.”

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.”

Vạn Hạnh thiền sư

Ngô Tất Tố dịch


Qua hai câu thơ Vạn Hạnh thiền sư cũng muốn nói đến số phận, thân
phận của con người ở đời đều xoay vòng trong sự “thịnh suy”. Nhưng
cũng như “lộ thảo đầu phơi”. Những việc thịnh suy, thăng trầm ấy như

Page 10


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
hạt sương đọng trên đầu cỏ. Nó hiện diện đây đó rồi cũng tan biến chứ
khơng tồn tại mãi bên con người.
Trở lại câu “Lộ trích thu đình dạ khí hư”. Với vế sau của câu “dạ khí hư” đã
mang lại cho ta cảm giác trống trải, hư ảo, không có thật với từ “hư”. Hơi
đêm thì “trống khơng” làm tăng thêm cái mênh mông, bát ngát của ban đêm.
Từ “hư” đã gợi lên một ấn tượng mạnh đối với người đọc một cách khéo léo
và tinh túy, nó là tính từ biểu thị được cả chiều dài lẫn chiều sâu của khơng
gian lúc này. Có một điều thắc mắc là tại sao Phật Hồng Trần Nhân Tơng
lại miêu tả hơi đêm lúc này là sự “trống không” mà không thay vào đó là sự
“lạnh lẽo”, “mát mẻ” hay “trong trẽo”. Bởi vì chúng ta đã nói ở trên từ “hư”
là tính từ biểu thị cho chiều dài và chiều sâu của khơng gian, nhưng ở đây
chính cái hư này đã gợi lên được sự trong trẻo và tĩnh lặng của đất trời nơi
đây. Cảm giác từ “hư” – “trống khơng” này chính là đặc trưng của Thiền
Tâm: trống khơng, bình đạm, trong trẻo và lặng lẽ. Chính cái hư không này
đã làm không gian bài thơ lắng lại như mọi vật ngừng chuyển động khiến
cho tâm tư con người thêm tĩnh đạm sáng suốt, vứt bỏ đi những cái phàm tục
để tiến gần đến sự giác ngộ. Con người đã hịa quyện được tâm của mình với
sự bao la của vũ trụ.
Nói về sự “hư” này thì một lần nữa chất Thiền Tơng lại thống xuất hiện
giữa những từ ngữ trong câu để nhắc nhở mọi người về cuộc sống, về sự
thịnh suy trong đời người. Trần Nhân Tông đã khéo léo nhắc nhở ta rằng
những điều mà con người hằng mơ ước đạt được như danh vọng, của cải…

chỉ là điều hư ảo, phù du; nay có mai mất chứ không thể theo ta mãi được.
Danh vọng, của cải như một chiếc áo khốc lên người mặc nó sự cao quí
sang trọng nhất thời, rồi sẽ đến lúc nó tan biến như khơng khí lúc ẩn lúc hiện
Page 11


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
để cuối cùng tan vào hư vô. Nhà sư muốn ta thức tĩnh để đi tìm điều đích
thực, hiện hữu mà ta cần, để rồi có thể thấy lịng ta bình lặng thoải mái.

2.Hai câu cuối:
“Thụy khởi châm thanh vơ mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”
Quả thật, danh vọng, của cải không tồn tại được mãi mãi với con người. Ấy
vậy mà con người cứ mãi mê mẫn trong vịng xốy danh lợi khơng có thật
đó. Điều mà ta cần là cái đích thực hiện hữu, mãi trường tồn đền làm cho
lòng ta thanh tịnh, thoải mái khi con người đã thức tỉnh được những gì mà
thiền sư đã nói. Chữ “thụy” ở đây chỉ trạng thái lúc ngủ mệt mỏi, nó như lúc
mỏi mắt gục xuống cho tinh thần được yên lặng. Bằng cách dùng chữ
“Thụy”, Trần Nhân Tơng đã chỉ ra hình ảnh con người lúc mà gục xuống
ngủ khi đã quá sức những giá trị vơ thức chứ khơng có giá trị mãi mãi. Và
khi cứ luẩn quẩn trong vòng ham muốn ấy cũng giống như hình ảnh “thụy”
khơng gắn gượng gì được nữa. Nhưng bằng một chữ “thanh” thì Trần Nhân
Tơng đã làm bừng tỉnh lên một tâm hồn con người bị u mê. Chính tiếng chài
văng vẳng nơi xa, nơi vơ định đã khơi dậy một tâm hồn con người. Chinh
chữ “thanh” đã làm sáng lên, làm bật lên chất thiền tông của bài thơ. Nó như
tiếng chng thức tỉnh, soi sáng tâm hồn u tối của con người.
Nói đúng hơn nó là thực tại nhưng bị khơng gian “nuốt chửng”. Vì thế khi
câu thơ có sự xuất hiện của tiếng chày thì cứ tưởng chừng như có âm thanh
thì khơng gian nơi đây được khuấy động xé toạc đi sự tĩnh lặng trái lại nó

cịn làm khơng gian vốn dĩ đã trống không trở nên vô cùng, vô tận trong cái
đêm tối tĩnh mịch ấy. Sự tỉnh giấc lúc nửa đêm này nhầm ngụ ý khi con
Page 12


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
người đã được thức tỉnh, nhận thức được những điều phải khiến con người ta
đi đến lối sống đúng đắn. Khuyên con người ta tìm đến và coi trọng thực tại
trước mắt, trân trọng những gì mình đang có. Âm thanh ấy đã làm bừng tỉnh
tâm hồn của tác giả và hướng tâm hồn đến những gì vĩnh cửu, chứ khơng
phải những phù phiếm chốc lát rồi tan biến. Chính cái giây phút này đây đã
làm cho những cái vô thường như: ánh đèn bên song cửa, hay đầu giường để
đầy những sách… ở hai câu trên lùi dần và nhường chỗ cho một chân lí, một
sự giác ngộ mới. Đến đây dường như không sự hiện hữu của một ánh đèn le
lói nữa mà đã nhường chỗ cho sự xuất hiện của vầng trăng:
“Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ."
Và một lần nữa hình ảnh “Nguyệt” lại xuất hiện trên vần thơ của Trần Nhân
Tông, không phải là một ánh trăng sáng chan hòa, nhẹ nhàng như “Minh
nguyệt mãn khung hâm” của Đặng Báo Sơn, hay ánh trăng sáng như ban
ngày trong bài Nhị thập nhất nhật dạ của.... Ánh trăng ở đây là ánh trăng
đang nhô lên trên đóa hoa mộc tê, dường như người đọc đang cảm nhận sự e
ấp lẩn khuất đâu đó nơi vầng sáng dìu dịu bàng bạc ấy. Khơng phải ngẫu
nhiên mà Trần Nhân Tơng chọn hình ảnh trăng trong nhiều b thơ Thiền của
mình. Mà bởi vì ánh trăng trong Phật pháp chính là sự tượng trưng cho Phật
_sự khai sáng, giác ngộ về cõi Niết bàn. Hình ảnh ánh trăng nhẹ nhàng đến
làm cho đoá mộc tê hé mở gợi lên cảm hứng Thiền và làm cho không gian
trở nên lung linh huyền diệu cách lạ thường. Hình ảnh vừa mang tính tả thực
vừa mang bút pháp ẩn dụ độc đáo cho sự bừng sáng về trí tuệ giữ khơng gian
bao la. Chính lúc này đây Tâm của con người được giác ngộ và khai mở một
cách trọn vẹn. Ánh sáng vầng trăng khơng cịn là ánh sáng bình thường như


Page 13


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
ta thấy hằng ngày nữa mà nó bây giờ trở thành thứ ánh sáng huyền diệu của
trong tâm thức của một con người đang giác ngộ.
Nhìn lại câu ba và bốn người đọc cảm nhận được sự gắn bó, kế thừa và phát
triển. Hình ảnh trăng mới lên giống nhưng tâm hồn thanh khiết của con
người vừa thức giấc giữa đêm thu thanh mát. Khi lớp bụi trần khơng cịn che
lấp giác quan “châm thanh vơ mịch xứ” thì trăng lên hoa mộc mới toả sáng.
Cũng như khi lòng con người thật sự thanh tịnh và trong sạch thì mới có thể
giác ngộ được chân lí .
Khi chiêm nghiệm đến đây người đọc phần nào hiều rõ tại sao Trần Nhân
Tông đặt bút đề tựa bài thơ là “Nguyệt”_Chỉ một từ thơi, mà nó đã là điểm
nhấn cho cả tồn bài thơ. Hình ảnh trăng trong bài thơ: “Nguyệt” của Trần
Nhân Tông đã cho ta một cảm nhận về trăng hết sức mới mẻ . Qua việc cảm
nhận này, tác giả muốn truyền dạy đạo lí Thiền ở lẽ đời . “Nguyệt lai sơ” _có
nghĩa là lại như trước cho ta thấy cho dù trăng có mọc rồi lặn thì nó cũng là
vầng trăng chan hồ, hiền dịu, trịn vạnh như lúc trước chứ khơng hề thay
đổi. Dẫu vịng quay thời gian, qui luật tự nhiên thì trăng trịn hay
khuyết_trăng non hay già thì trăng vẫn là sự hiện hữu, biểu trưng cho sự
viên mãn, huyền dịu, thánh thiện, tinh khôi… Và cuộc đời mỗi con người
cũng vậy, cứ xoay vần xoay vần trong cái Được_Mất, cái Hợp_Tan của thế
gian… cho đến khi con người nhận ra được chân lí của cuộc đời mình. Cuộc
đời con người là một vịng lập lại tuần hồn khắc nghiệt khơng thể nào
cưỡng lại được : Sinh_lão_bệnh_tử… Chính vì lẽ đó mà nhà thơ đã thật
khéo léo và tinh tế khi đem vào trong thơ qui luật đời người được ẩn dụ dưới
qui luật mọc_lặn của vầng trăng, nhằm đánh động và làm thức tỉnh sự manh
múng,tham vọng của con người nơi trần gian với bao phù phiếm lợi danh.

Page 14


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
Trần Nhân Tông một lần nữa thành công trong việc dung hình ảnh của thiên
nhiên để làm rõ phạm trù của Phật giáo: sinh_tử, vơ_hữu, hợp_tan… để qua
đó đánh động lòng người nhận thức được đâu là vĩnh cửu, đâu là mong
manh nhất thời thoáng qua…
Như ta đã biết, Trần Nhân Tông _con người thi sĩ ấy, nhà anh hùng ấy đã
chấp nhận từ bỏ cái ngôi vua, từ bỏ cái ngôi cao bổng lộc ấy để bước vào
cuộc sống tu hành, cuộc sống Thiền như bao thiền sư khác. Một nơi hoàn
toàn đối lập với chốn vinh hoa phú q, nhung gấm lụa là. Tuy nhiên, ơng
bước vào thế giới tịnh tâm hướng đến cõi Phật với phong thái khơng hề mảy
may trước sự đời, hay thốt ly với thế gian cầu an nhàn cho thân tâm, mà là
nhà vua đi tìm chân lí.

III.Nghệ thuật
Khác với các triết gia phương Tây họ đi tìm chân lí qua thế giới hiện tượng
tức là tìm cái động. Cịn Trần Nhân Tơng thì đi ngược lại, ơng đi tìm chân lí
trong cái tĩnh, tìm trong chính bản thân mình. Nhưng trong cái “tĩnh” thì có
kết hợp với cái “động”. Và bài thơ “Nguyệt” cũng không đi khỏi cái khuôn
khổ ấy. Đây là một nghệ thuật đặc sắc trong thơ thiền_Dường như ở đây có
một sự quan hệ đối lập biện chứng : Đêm càng trống vắng yên tĩnh, thì càng
nghe rõ tiếng động rất khẽ của hạt sương rơi trên sân. Và nhờ nghe được
tiếng động mong manh này mới biết rằng đêm cực tĩnh. Cái “động” nhờ
“tĩnh” mà phát sinh. Cái “tĩnh” nhờ “động” mà hiện hữu. Cũng vậy, khi nửa
đêm chợt mình thức giấc mới hay tiếng chày đã lặng. Có nghĩa trước đó đã
từng có âm thanh tiếng chày. Nó hiện hữu từ lâu nhưng vì nó q đều đặn
nên người ta khơng nhận ra nó. Từ đó ta thấy, cái “động” nhờ cái “tĩnh” mà
Page 15



Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
được phát hiện. Cuối cùng thì hình ảnh ánh trăng xuất hiện rọi trên đóa mộc
tê. Đó là cái khoảnh khắc ánh sáng kì diệu, bừng chiếu, rọi vào giữa tâm linh
vừa tĩnh lặng vô bờ mà cũng vừa chấn động cả vũ trụ...
Hơn thế nữa, cái đẹp của thiên nhiên tĩnh lặng có thể nghe được tiếng sương
khẽ rơi trên sân thu, không gian mơ hồ “trống không” giữa thực và hư, giữa
động và tĩnh của đêm thu, đủ làm cho tâm hồn thi nhân trở nên xao xuyến.
Thi nhân tuy xao xuyến nhưng vẫn giữ được sự điềm tĩnh để cảm nhận cảnh
sắc thiên nhiên lung linh, huyền ảo, mơ hồ chứ không trực tiếp giãi bày
thành lời. Cái nghệ thuật ở bài thơ này là nghệ thuật “vơ ngơn” hay nói rõ
hơn là biểu diễn cái khơng lời của thơ Thiền. Bởi vì lời nói hữu hạn không
thể nào diễn tả hết được cái lung linh, cái đẹp nơi đây được hơn nữa. Trong
quy luật tâm lí, cái khơng lời, vơ ngơn thì hàm xúc hơn, nó dễ tác động đến
chiều sâu tâm thức hơn là cái được phơ bày bằng lời nói. Chẳng hạn Trần
Nhân Tơng đã từng trải nghiệm với giây phút vô ngôn trước cảnh sắc tươi
đẹp của đất trời tiết xuân.
"Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì

"Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày

Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi

Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế


Cộng ỷ lan can khán thuý vi."

Cùng tựa lan can nhìn núi mây."

Trần Nhân Tơng

Nguyễn Huệ Chi dịch

Khách và chủ là những con người vô ngôn, họ khơng cùng trị chuyện
nhưng thực chất họ đã nói chuyện với nhau rất nhiều thể hiện qua
“Cộng ỷ lan can khan thúy vi”. Đồng thời câu thơ trên còn thể hiện sự
Page 16


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
hòa nhập giữa hai tâm hồn với thiên nhiên tươi đẹp. Khách và chủ tuy
khơng nói với nhau nhưng cùng bình tâm; khi tâm đã tĩnh thì họ đã tìm
ra lẽ đời từ việc chiêm nghiệm thiên nhiên vạn vật.

IV. Tổng kết
Bài thơ chỉ với 28 câu chữ ngắn gọn, mộc mặc, gần gũi, giản dị, quen thuộc
mà qua lăng kính quan sát độc đáo, sắc sảo của Trần Nhân Tông đã tạo nên
một bức tranh thơ tứ tuyệt hàm xúc và mang đầy cảm hứng Thiền.
Bài thơ tiêu biểu cho nghệ thuật thơ thiền bởi giọng miêu tả rất bình đạm. Tả
thực khơng bình luận,khơng triết lí, khơng bày tỏ cảm xúc. Qua ảnh thiên
nhiên hết sức bình dị và lay động lòng người kia giúp ta hiểu thêm về con
người Trần Nhân Tơng. Để có được những vần thơ ấy chứng tỏ Trần Nhân
Tông đã sống rất gần gũi chan hòa với thiên nhiên. Trong thơ thiên nhiên
mang cảm hứng Thiền của ơng có cái gì đó mang hơi hướng của sự mộc
mạc,phảng phất cái hồn quê. Và đó chính là những điều là rung động bao

trái tim say mê thơ Thiền.

Page 17


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3

V.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tồn tập Trần Nhân Tơng _ Lê Mạnh Phát
2. Văn học trung đại Việt Nam _ Đoàn Thị Thu Vân _ NXB.Giáo dục
3. Nghệ thuật thơ Thiền Lí – Trần _ Đồn Thị Thu Vân
4. Hoa vơ ưu _ Tập 4, 6, 7, 8 _ Hịa thượng Thích Thanh Từ (NXB. Tơn
giáo)
5. Thiền là gì?_ Ohsho _ NXB. Tôn giáo

Page 18


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3
6.Những cơng trình nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam _ Đoàn Thị
Thu Vân
7. Một số trang web

Page 19


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3

2


Page 20


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3

Page 21


Tiểu luận: Phân tích tác phẩm “Nguyệt” (Trần Nhân Tơng)_Nhóm 3

Page 22



×