Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

VĂN học SO SÁNH “CHÍ PHÈO” và “AQ CHÍNH TRUYỆN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.01 KB, 7 trang )

SO SÁNH VỀ MẶT NỘI DUNG
GIỮA “CHÍ PHÈO” VÀ “AQ CHÍNH TRUYỆN”

Khi học văn học So sánh, tiếp xúc với nhà văn Lỗ Tấn, tôi thấy được sự đồng điệu
giữa Lỗ Tấn của Trung Quốc với nhà văn hiện thực Việt Nam Nam Cao. Hai nhà văn của
hai đất nước, hai thế kỷ, khác nhau cả về lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ… nhưng lại cùng
nhìn nhận về xã hội đương thời, về hình tượng người nơng dân quen thuộc với những nỗi
bi kịch cùng cực gần giống nhau, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Đại diện cho hình tượng người nơng dân ấy là hai nhân vật điển hình AQ (AQ
chính truyện của Lỗ Tấn) và Chí Phèo (Chí Phèo của Nam Cao).

Bước ra từ hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và Trung Quốc đang là nước thuộc
địa nửa phong kiến.
Chí Phèo và AQ chính truyện đều tố cáo bọn địa chủ phong kiến áp bức bóc lột
người nơng dân về vật chất lẫn tinh thần.

AQ chính truyện

Chí Phèo

Địa chủ

Cố Triệu, Cố Tiền…

Bá Kiến, Đội Tảo…

Nông dân

AQ, Cu Dê, Vương
Râu, Xồm…


Binh Chức, Chí
Phèo, Năm Thọ…

Qua ngịi bút của Nam Cao và Lỗ Tấn, “tấm màn sân khấu” của bọn địa chủ (Cố
Triệu, Cố Tiền, Bá Kiến, Đội Tảo…) bị tháo xuống; những mánh khóe, tiểu xảo của kẻ


bóc lột bị vạch trần. Cịn trơ lại là những con người khốn khổ sống dưới đáy xã hội (Binh
Chức, Chí Phèo, Năm Thọ, AQ, Cu Dê…).
AQ chính truyện phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời. Đó là thứ cách mạng
không đúng chất “cách mạng”, cách mạng đến mà kẻ sợ, người hoang mang, duy chỉ có
AQ là phấn khởi. AQ cho rằng cách mạng là cướp của nhà giàu làm lợi cho mình, là “làm
giặc”. Chính vì hiểu sai hai từ “cách mạng” mà người nông dân này đã nhận một kết quả
bi thảm. Đây là bóng dáng của cách mạng Tân Hợi 1911 – Cuộc cách mạng không triệt
để. Lỗ Tấn phê phán cách mạng nửa vời minh chứng cho một tư tưởng cách mạng dân
chủ mới, Lỗ Tấn muốn thức tỉnh người nông dân về tư tưởng cách mạng thật sự.
Chí Phèo tuy ra đời sau AQ chính truyện 20 năm nhưng vẫn chưa thấy rõ chất đấu
tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Có lẽ, Nam Cao chỉ là trí thức u nước,
chuộng dân, chứ tư tưởng cách mạng chưa hoàn toàn xuất hiện.
Do đó, dẫn đến những điểm tương đồng, cũng khơng ít nét riêng biệt cho hai nhân
vật AQ và Chí Phèo.

1. Chí Phèo và AQ chính truyện đều lên án bọn phong kiến địa chủ và đồng
cảm với thân phận người nông dân
Cả hai tác phẩm đều lên án sự áp bức bóc lột về mặt vật chất, thân xác cùng sự đầu
độc đè nén về mặt tinh thần của bọn địa chủ phong kiến đối với người nông dân. Những
bộ “mặt người dạ thú” như Bá Kiến, Đội Tảo, như Cố Triệu, Cố Tiền… đã bị lật tẩy khi
chúng giở hết mọi mánh khoé, tiểu xảo của những kẻ lọc lõi, già đời ra để cai trị, bóc lột
những con người khốn khổ sống ở tầng lớp dưới đáy của xã hội. Nam Cao và Lỗ Tấn đều
bộc lộ tấm lịng đau đớn của mình trước những số phận của người nơng dân. Cuộc đời

những Binh Chức, Chí Phèo, Năm Thọ, những AQ, Cu D, Vương Râu Xồm… mà hai
ơng miêu tả khiến mọi người khơng khỏi chạnh lịng.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử xã hội của hai nước Việt Nam và Trung Quốc trong
giai đoạn này rơi vào tình trạng vừa thuộc điạ vừa phong kiến, nơng dân bị bần cùng, còn
giai cấp thống trị lại ra sức càn qt, bóc lột. Hơn nữa ở đây cịn thể hiện sự gặp gỡ ngẫu
nhiên giữa hai tâm hồn, nhân cách lớn - Nam Cao và Lỗ Tấn, hai nhà văn hiện thực và
nhân đạo chủ nghĩa đã khiến cho nội dung hai tác phẩm có sự tương đồng.
2. Riêng AQ chính truyện cịn phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời:
Sự kiện “cách mạng” mà Lỗ Tấn miêu tả trong tác phẩm đã làm người dân Làng
Mùi không khỏi ngỡ ngàng. Cách mạng đến không ai biết, thực chất cuộc cách mạng này
là gì khơng ai hay, cách mạng đến người sợ kẻ hoang mang, riêng chú AQ rất hồ hởi,


phấn khởi muốn đi làm “cách mạng”, vì chú cho rằng làm “cách mạng” tức là “làm giặc”,
mà làm giặc tức là được đi cướp của cải của nhà giàu về cho mình. Sự xuất hiện của cách
mạng nửa vời và sự thiếu hiểu biết về cách mạng của người nông dân đã mang lại một kết
quả thảm hại.
Đây là bóng dáng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), một cuộc cách mạng tư sản
nửa vời chưa từng có ở Việt Nam, cho nên cũng khơng thể nào có được sự phản ánh trong
“Chí Phèo” nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Ở đây còn phải xét đến nguyên nhân ở
chủ quan nhà văn. Đầu những năm 20 của thế kỷ này, tuy chưa là người Mác Xít theo
đường lối cách mạng, nhưng Lỗ Tấn đã là người có tư tưởng cách mạng dân chủ mới.
Bản thân việc ông phê phán tính chất nửa vời của cuộc cách mạng Tân Hợi, chứng tỏ ơng
có tư tưởng cách mạng triệt để, ông phê phán cái lối hiểu dớ dẩn của AQ về cách mạng,
chứng tỏ ông mong muốn giác ngộ người nơng dân có tư tưởng cách mạng thật sự. Trái
lại, Nam Cao chỉ là một trí thức văn nghệ sĩ u nước, u dân, chứ hồn tồn chưa có tư
tưởng cách mạng. Phải nêu ra điều này mới có thể giải thích rằng ở Việt Nam tuy khơng
có cuộc cách mạng tư sản nhưng sau khởi nghĩa Yên Bái, lại có cao trào Xơ Viết Nghệ
Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ v.v… Ra đời sau “AQ chính
truyện” 20 năm, “Chí Phèo” vẫn khơng có chút bóng dáng nào về cuộc đấu tranh cách

mạng của quần chúng nhân dân.

SO SÁNH GIỮA HAI ĐIỂN HÌNH CHÍ PHÈO VÀ AQ
1. Chí Phèo và AQ đều có cuộc sống bần cùng, tính cách mâu thuẫn và tha hố
a) Cuộc sống bần cùng
Cả AQ và Chí Phèo đều có chung một thân phận khổ cực. Cả hai đều chịu nhiều
đau khổ về cuộc sống vật chất và tinh thần. Chí Phèo thì bị bỏ rơi ở bên một cái lị gạch
bỏ hoang, khơng cha, khơng mẹ, khơng họ hàng nhà cửa… AQ lớn lên “hành trạng”
trước kia cũng không rõ, thân phận cũng chẳng cịn ai, khơng có gì ngoài bản thân. Cả hai
đều phải sống bằng nghề đi làm thuê, chịu nhiều tủi cực. Với thân phận nghèo hèn muốn
yên phận để làm mướn kiếm ăn, nhưng số phận cả hai cũng khơng n ổn. Chí Phèo gặp
Thị Nở cuộc đời hoá ra càng trở nên bi kịch và sống vật vã trong cơn đau bị cự tuyệt
quyền làm người. AQ hy vọng một sự đổi đời, khi cách mạng đến, nhưng thực tế đã đi
ngược lại với mong muốn của y.
b) Tính cách mâu thuẫn, tha hố
Cuộc sống của Chí Phèo và AQ ln bị động vì hồn cảnh đưa đẩy. Chính vì thế
tính cách AQ và Chí Phèo hồn tồn khơng bình thường, nó mâu thuẫn và tha hoá. Một
Chí Phèo lương thiện là vậy, nay trở thành “con quỷ dữ” côn đồ, lưu manh. Một Chí


Phèo, một thời ý thức về nhân phẩm rõ ràng. Nay bỗng trở nên hồn tồn vơ thức trong
mọi hoạt động của mình. Một Chí Phèo dương dương tự đắc, bỗng chốc lại trở nên lo
lắng sợ sệt trước con cáo già Bá Kiến v.v… Một AQ dở dở ương ương, lúc thế này lúc
thế kia, lúc khôn lúc dại. Lúc vênh vênh đi bắt nạt kẻ yếu lúc lại rụt cổ trước kẻ mạnh.
Lúc tự cao, nhưng có lúc lại tự ti, lúc lại tỏ ra mình có những suy nghĩ rất phong kiến
nhưng có lúc lại thả mình sống theo bản năng v.v…
Xã hội phong kiến, thuộc địa khơng những áp bức bóc lột về mặt vật chất, thân
xác mà còn đầu độc và đè nén về mặt tinh thần đối với người nông dân cùng khổ, làm
cho tính cách của họ trở nên méo mó. Đây là sự gặp gỡ giữa Nam Cao và Lỗ Tấn trong
việc xây dựng về những điển hình về người nơng dân.

2. Phép “thắng lợi tinh thần” - Ý nghĩa khái quát riêng có ở điển hình AQ
Tuy có một cuộc sống bần cùng, luôn thua thiệt nhưng AQ đã tạo cho mình một ảo
giác thắng lợi, mà trong bất cứ một thực tế nào y cũng là người chiến thắng. Y sung
sướng vì ln cho mình hơn tất cả mọi người về tất cả mọi mặt trong cuộc sống, nào là
gia thế hơn, con cái hơn, hiểu biết cũng nhiều hơn. Thật ra, cuộc sống của y rất bi đát, y
tồn tại và luôn hớn hở nhờ phép “thắng lợi tinh thần”.
Phê phán cái “thắng lợi” ở điển hình AQ, nhà văn Lỗ Tấn đã khái quát từ quá khứ
đau thương trong lịch sử Trung Quốc. Từ xã hội tư hữu phong kiến, từ chế độ đẳng cấp
tôn pháp đến sự thất bại nhưng khơng cam chịu của triều đình Mãn Thanh - Một căn bệnh
lan tràn đến quy mơ tồn dân vì “tư tưởng thống trị thời đại là tư tưởng của giai cấp thống
trị”, như ý Mác nói.
Tóm lại, Chí Phèo và AQ đều là điển hình cho người nông dân lạc hậu tha hoá.
Nhưng bộc lộ “phép thắng lợi tinh thần”, AQ cịn mang tính chất điển hình cho mặt trái
của dân tộc Trung Hoa, nhất là trong thời kỳ thuộc địa.
SO SÁNH MỘT SỐ BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT GIỮA HAI TÁC PHẨM
Nếu sự tương đồng và khác biệt về nội dung và nhân vật điển hình trong “Chí
Phèo” và “AQ chính truyện” là gắn bó chặt chẽ với nhau, thì sự giống nhau và khác nhau
về mặt nghệ thuật giữa hai tác phẩm tuy cũng có liên quan với những mặt nói trên, nhưng
cũng mang tính chất tương đối độc lập của nó.
1. Những mặt tương đồng
a) Giọng điệu khách quan lạnh lùng


Xun suốt tồn bộ tác phẩm “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”, một cảm nhận
bao trùm về lối trần thuật trong mỗi tác phẩm là: giọng điệu khách quan lạnh lùng nhưng
chan chứa tình cảm chủ quan của tác giả.
Nam Cao kể về cuộc sống chân thực, trần trụi như nó vốn có: chuyện một thằng
say rượu, chuyện kình nhau giữa các phe cánh, chuyện yêu đương của những kẻ gàn
dở… Nhưng đọc và ngẫm lại những chuyện đó, ta thấy nhà văn kể không phải chỉ để kể,
mà qua những câu chuyện tưởng như vặt vãnh đời thường lại là chuyện về một chế độ xã

hội mà ở đó nhân quyền khơng được tơn trọng, nó bị giẫm đạp, xúc phạm như đối xử với
con vật. Lời trần thuật của người kể chuyện như một “ống kính” quay hình ảnh về những
hành vi của “con quỷ dữ” làng Vũ Đại: rạch mặt, ăn vạ, cướp của, đốt quán, làm tay sai
cho địa chủ làm những việc bất lương… Lời trần thuật khách quan khiến người đọc có
cảm giác ghê sợ, nhưng đó là cảm giác do ý đồ sáng tạo của nhà văn mang lại.
Cũng phong cách đó, ta bắt gặp ở nhà văn Lỗ Tấn trong “AQ chính truyện” kể về
cuộc đời chú AQ sống vô nghĩa bằng những hành động và suy nghĩ ngớ ngẩn của mình.
Người kể chuyện dường như khơng có ý định bênh vực một chút gì cho con người của y:
tên y, bộ dạng y, con người y, thân phận y, tính cách y v.v… tất cả đều bộc lộ sự thảm hại.
Nhưng đấy khơng phải là mục đích của ơng. Với lối trần thuật khách quan, ông muốn
phơi bày nhược điểm của con người và xã hội Trung Quốc. Ý đồ nghệ thuật đã giúp ông
thành công khi sử dụng lối trần thuật khách quan lạnh lùng như ẩn chứa những yêu
thương và căm giận bên trong.
b) Ngơn ngữ cá tính hoá
Nam Cao và Lỗ Tấn đã sử dụng ngôn ngữ cá tính hoá của nhân vật rất đặc sắc. Lời
đối thoại của nhân vật cho ta thấy tính cách nhân vật nổi lên rất rõ.
Chí Phèo lúc cịn hầu hạ nhà chủ, hầu như tác giả không miêu tả một lời nói của
nhân vật, điều đó đã phản ánh sự nhẫn nại, cam chịu của kiếp người nông dân nô lệ.
Nhưng sự thay đổi tính cách của Chí sau khi ra tù đã bộc lộ rõ khi hắn cất tiếng ăn vạ,
kêu làng, đốt nhà, cướp của… phẩm chất hiền lành biến mất, thay vào đó là lời lẽ của kẻ
lưu manh, côn đồ. Nhưng trước Bá Kiến, hắn vẫn bộc lộ bản chất nô lệ khi xưng hô rất tử
tế.
Trong “AQ chính truyện”, Lỗ Tấn cũng đặc biệt chú ý đến từng lời nói nhân vật,
qua đó làm nổi lên tính cách của chú. AQ lúc bị thua trước đối thủ mạnh, ln giở giọng
cầu hồ. Nhưng trước kẻ yếu đuối, hay với người cùng thân phận y lại lên giọng chửi bới
rất khinh thị. Vú Ngị chỉ nói có hai câu, nhưng chính Vú đã làm bộc lộ tính “ngồi lê đơi
mách” của mình v.v…


2. Những điểm khác biệt

a) Trần thuật tuyến tính và phi tuyến tính
Tác phẩm “AQ chính truyện” được trần thuật theo một trình tự nhất định, nhân vật
xuất hiện và sau đó là những hành động, sự kiện diễn ra nói chung theo trình tự trước sau.
Với “Chí Phèo” cách trần thuật của Nam Cao có khác. Hình ảnh đầu tiên khơng
phải là hình ảnh bắt đầu, mà cốt truyện hiện ra trong sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại
của nhân vật.
Mỗi nhà văn chọn cho mình một lối trần thuật riêng. Lỗ Tấn trần thuật theo trình
tự thời gian, cịn Nam Cao ơng khơng tn theo lối trần thuật truyền thống. Nhưng cả hai
cách trình bày đều làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm.
b) “Vẽ rồng điểm mắt” và khắc hoạ tỉ mỉ
Nếu như Nam Cao không hề bỏ qua một chi tiết nhỏ nào khi khắc hoạ ngoại hình
nhân vật: Như bộ dạng Chí sau khi ra tù, gương mặt xấu xí đến kinh hồn của Thị Nở, thì
Lỗ Tấn với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” chỉ miêu tả vài nét sơ lược giàu tính biểu trưng,
như miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ miêu tả chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo.
Miêu tả ngoại hình Vương Râu Xồm, nhà văn chú ý đến mớ râu xồm có ý nghĩa tượng
trưng nhất đối với y v.v… Nhưng tất cả sự miêu tả những chi tiết chọn lọc, điển hình đó
đều toát lên tính cách nhân vật.
c) Mơ tả tâm lý và mơ tả hành động
Ngịi bút Nam Cao ln hướng vào khai thác, soi sáng thế giới bên trong trong con
người nhân vật, mọi tâm trạng, suy nghĩ của Chí ln được nhà văn thể hiện dưới dạng
nội tâm, con người và tính cách của hắn chủ yếu bộc lộ qua tâm lý. Nhưng với nhân vật
của Lỗ Tấn, chúng thường bộc lộ qua hành động. AQ bộc lộ tính cách của mình qua
những hành động của y: đánh nhau, chửi rủa, lườm nguýt…
Tóm lại: Với những đặc điểm như trần thuật theo thời gian tuyến tính, “vẽ rồng
điểm mắt”, mơ tả hành động, “AQ chính truyện” gần giống với lối văn xuôi tự sự cổ điển
Trung Quốc. Trái lại, với lối trần thuật phi tuyến tính, khắc hoạ tỉ mỉ, mơ tả tâm lý, “Chí
Phèo” gần với lối văn xuôi thế giới thế kỷ XX hơn. Trên một ý nghĩa nhất định, cách viết
của Nam Cao hiện đại hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Một điều không phải là
khơng có ý nghĩa gì, nếu chúng ta nhớ rằng, cách nhau 34 tuổi, Lỗ Tấn đã bước vào tuổi
trưởng thành ngay từ cuối thế kỷ XIX, còn Nam Cao sống trọn trong nửa đầu thế kỷ XX.

“Chí Phèo” được Nam Cao viết sau “AQ chính truyện” sau 20 năm, có điều kiện nhiều
hơn khi tiếp cận với lối viết hiện đại. Mặt khác Trung Quốc với di sản văn hoá, văn học
hết sức đồ sộ với những thành tựu vô cùng rực rỡ đã trở thành niềm tự hào của dân tộc


Trung Hoa. Bởi vậy những mẫu mực trong văn hoá cổ điển đã trở thành áp lực rất lớn đối
với nhiều nhà văn Trung Quốc nói chung, nhà văn Lỗ Tấn nói riêng, cho nên sự ảnh
hưởng của nghệ thuật văn xuôi tự sự truyền thống đối với sáng tác của Lỗ Tấn là điều dễ
hiểu. Trái lại, thành tựu về văn xuôi tự sự trung đại ở Việt Nam chủ yếu là chữ Hán
khơng gây áp lực gì đối với văn xuôi tự sự quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX trên quá trình
hiện đại hoá nhanh chóng. Nam Cao lại thuộc thế hệ sau, vừa được thừa hưởng tính chất
hiện đại đó, vừa có nhiều điều kiện học tập, tiếp thu văn xuôi tự sự thế giới khoảng giữa
thế kỷ XX.
Cần lưu ý thêm rằng, Lỗ Tấn không những là nhà sáng tác mà còn là nghiên cứu
văn học sử nhất là về tiểu thuyết, cho nên thừa hưởng được lối viết tinh hoa truyền thống
là khơng có gì lạ. Cố nhiên Lỗ Tấn cũng là người tiếp xúc với nền văn học nước ngoài,
nhưng chủ yếu là cuối thế kỷ XIX như GôGôn; Sêkhốp, Tôn Xtôi, trong đó có một phần
khơng nhỏ là những nhà thơ lớn như Pêtơghin, Mickêvit, v.v… cịn việc ơng rất chú ý
đến tác giả Xô Viết như M.Goorki, đến Phêđêép v.v… nhưng đó chủ yếu là để khơi
nguồn những tư tưởng của tình cảm mới, chứ khơng phải để hấp thụ nghệ thuật tự sự hiện
đại.
Tóm lược một cách hết sức vắn tắt thì “Chí Phèo” và “AQ chính truyện” đều là
những kiệt tác viết về số phận người nông dân lạc hậu, tha hoá trong xã hội phong kiến
thuộc địa và nửa thuộc địa. Nhưng trong “AQ chính truyện” cịn phê phán cuộc cách
mạng tư sản nửa vời, điều này có căn nguyên chủ yếu ở hiện thực khách quan. Về mặt
điển hình hoá, Lỗ Tấn tỏ ra càng sâu sắc hơn, vì ơng khơng những là nhà văn, mà cịn là
nhà nghiên cứu văn học sử, hơn nữa là nhà tư tưởng. Tuy nhiên, về nghệ thuật viết
truyện, Nam Cao có phần hiện đại hơn.




×