Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

VĂN học văn hóa ỨNG xử TRONG THƠ NK và TTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.73 KB, 175 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_________________________________
LÊ THỊ HỒNG CHÂU

VĂN HỐ ỨNG XỬ TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN VÀ TRẦN TẾ XƯƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. LÊ THU YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2017


2

Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tơi đã gặp khơng ít khó khăn và
đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ rất nhiều người.
Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng tơi xin kính gửi lời tri ân chân thành nhất
đến cô Lê Thu Yến, người đã truyền cảm hứng cho chúng tôi trong những năm
học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và cho đến tận bây giờ.
Cô là người đã chỉ bảo, góp ý và hướng dẫn một cách tận tình để chúng tơi có thể
nhận thức và thực hiện được đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến
và Trần Tế Xương.
Đồng thời, chúng tơi xin kính cảm ơn quý Thầy, Cô giáo đã truyền dạy kiến
thức và định hướng cho chúng tôi trong suốt những năm qua. Nhân đây, chúng tôi


xin cảm ơn quý thầy, cô Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
Bên cạnh đó, chúng tơi cũng xin kính gửi lời cảm ơn đến các Cô, Chú làm
việc tại Thư viện trường Đại học Sư phạm; trường Đại học Khoa học Xã hội &
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và những người bạn đã hỗ trợ, cung cấp
nguồn tư liệu cho chúng tôi.
Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả những người đã quan tâm, chăm sóc, động
viên và thương yêu chúng tôi trong suốt thời gian sống, học tập và nghiên cứu,
những người luôn đem tới cho chúng tôi sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 12 năm 2017
Người thực hiện

Lê Thị Hồng Châu


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Lê Thu Yến. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Người thực hiện

Lê Thị Hồng Châu


4

MỤC LỤC
DẪN NHẬP......................................................................................................................................................5

1.Lí do chọn đề tài..........................................................................................................................................5
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................................................................8
3.Mục đích nghiên cứu................................................................................................................................16
4.Đối tượng và phạm vi đề tài.....................................................................................................................17
5.Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................................................17
6.Cấu trúc luận văn......................................................................................................................................18
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.........................................................................................................20
1.1.Truyền thống văn hóa của người Việt...................................................................................................20
1.1.1.Sự hình thành và phát triển, tín ngưỡng dân gian............................................................................21
1.1.2. Văn hóa Việt trong sự tiếp biến các luồng tư tưởng, văn hóa khác.................................................25
1.1.2.1. Với Nho giáo....................................................................................................................................25
1.1.2.2. Với Phật giáo...................................................................................................................................31
1.1.2.3. Với Đạo giáo....................................................................................................................................34
1.2. Các khái niệm........................................................................................................................................39
1.2.1.Văn hóa................................................................................................................................................39
1.2.2. Ứng xử................................................................................................................................................43
1.3.Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương........................45
1.3.1. Nguyễn Khuyến, trí thức nơng thơn..................................................................................................45
1.3.1.1. Con người và cuộc đời....................................................................................................................45
1.3.2.2.Sự nghiệp sáng tác của Trần Tế Xương...........................................................................................54
Tiểu kết chương 1........................................................................................................................................56
CHƯƠNG 2. ỨNG XỬ ĐỐI VỚI BẢN THÂN VÀ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN....................................................58
2.1.2. Ý thức về trách nhiệm đối với đất nước...........................................................................................67
2.1.3.Ý thức về sự hưởng nhàn - hưởng lạc................................................................................................75
2.2.Ứng xử đối với môi trường tự nhiên.....................................................................................................86


5

2.2.1.Thiên nhiên là đối tượng để thưởng thức và ngâm vịnh..................................................................87

2.2.2.Thiên nhiên là đối tượng để gửi gắm tâm tư.....................................................................................93
Tiểu kết chương 2......................................................................................................................................103
CHƯƠNG 3. ỨNG XỬ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI VÀ GIA ĐÌNH........................................................104
3.1. Ứng xử đối với mơi trường xã hội......................................................................................................104
3.1.1. Thái độ đối với vua chúa, quan lại..................................................................................................104
3.1.2. Thái độ đối với những kẻ tha hóa, biến chất trong xã hội.............................................................117
3.1.3. Thái độ đối với những người nghèo khổ........................................................................................128
3.1.4. Thái độ đối với bạn bè.....................................................................................................................133
3.2. Ứng xử đối với gia đình......................................................................................................................143
3.2.1.Tình cảm và thái độ với vợ...............................................................................................................143
3.2.2. Tình cảm và thái độ với con cái.......................................................................................................151
3.2.3. Tình cảm và thái độ với anh em, họ hàng.......................................................................................155
Tiểu kết chương 3......................................................................................................................................161
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................164
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................169

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài

Văn hóa là yếu tố rất quan trọng và ln được các quốc gia, dân tộc trên
thế giới quan tâm. Bởi lẽ, văn hóa và những giá trị mà văn hóa đã tạo ra ln có


6

sự tác động mạnh mẽ trong sự tiến bộ của xã hội lồi người. Nó chứa đựng sức
sống, sự sáng tạo cũng như tầm vóc của đất nước mà nó được sinh ra. Vì được
tạo ra từ con người nên nó cũng trở thành sản phẩm thúc đẩy các hoạt động của
con người. Nếu như kinh tế là cơ sở nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì
văn hóa chính là nền tảng tinh thần của đời sống ấy, và chính văn hóa là một

hình thái ý thức xã hội, biểu hiện các năng lực vật chất của con người.
Khẳng định vai trị quan trọng của văn hóa, Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng ta đã đề ra mục tiêu cụ thể, để “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh” [61].
Trước đây, ta nói “xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc”, nhưng đến Đại hội XII Đảng ta đã đưa cụm từ “thấm nhuần tinh thần dân
tộc” vào thay cho cụm từ “đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghĩa là “văn hóa” đã được
nâng lên một mức độ mới, sâu rộng hơn bởi khơng chỉ có “bản sắc dân tộc” mà
cịn nhiều khía cạnh khác nữa như tình cảm, tâm lý, ln lý dân tộc, những hoạt
động thuộc về nội tâm của con người, thuộc về chiều sâu của dân tộc. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, văn hóa như là cơ sở, nền tảng đối với phát triển bền
vững mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những bước phát triển theo chiều
sâu lý luận văn hóa, cho phép hoàn thiện những quan điểm cơ bản cũng như cụ
thể hóa thành chiến lược để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam xứng với
tầm vóc và phát huy được “sức mạnh mềm” của nó trong giai đoạn hiện nay, giai
đoạn văn hóa Việt Nam trên đà hội nhập với văn hóa thế giới. Vì thế, đó là điều
kiện mở ra khả năng to lớn để các dân tộc giao lưu văn hóa, khoa học, giáo dục,
kinh tế, xã hội với nhau trên phạm vi toàn cầu tạo động lực cho q trình đổi mới
và hiện đại hóa văn hóa của các dân tộc, song nó cũng đem đến cho chúng ta


7

những khó khăn, thách thức khơng hề nhỏ. Đó là sự thách thức khiến cho đất
nước phải đương đầu với mọi thách thức của thời cuộc như lối sống ích kỷ, sự
thực dụng, sự suy sụp, tàn lụi các giá trị truyền thống,…và trước tình hình ấy,

chúng ta cũng phải đối diện với sự tha hóa, biến chất trong lối ứng xử giữa con
người và mọi thứ xung quanh.
Có thể thấy rằng, nếu ứng xử của lồi vật ln chịu sự chi phối của bản
năng tự nhiên thì ứng xử của con người có xu hướng kiềm chế những bản năng
ấy. Sự kiềm chế ấy tạo ra văn hóa, và văn hóa ứng xử ln là yếu tố được mọi
người trong xã hội rất quan tâm. Đặc biệt, đứng trước vấn đề tồn cầu hóa và
đứng trước cách mạng khoa học kỹ thuật đương đại, văn minh công nghiệp cũng
tiến nhanh đến chóng mặt. Địi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhìn nhận và có lối ứng
xử phù hợp với thời đại, với con người, với bản thân và gia đình, xã hội. Vì lẽ đó,
việc nghiên cứu văn hóa ứng xử có một ý nghĩa rất to lớn, giúp ta có thể hồn
thiện bản thân mình cũng như xây dựng một xã hội tốt đẹp, có những nét văn hóa
truyền thống mạnh mẽ đủ sức dung chứa những nền văn hóa ngoại lai tích cực và
loại bỏ những yếu tố văn hóa khơng thật sự phù hợp cho đất nước mình. Từ nền
tảng nghiên cứu về văn hóa, chúng ta sẽ có thể lưu giữ và phát huy, học tập những
lối ứng xử tinh tế của tiền nhân khi tìm hiểu sâu hơn về văn hóa ứng xử trong văn
học trung đại nói chung, trong đó có thơ văn Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là hai nhà thơ lớn trong nền văn học
dân tộc. Thời đại của họ sống là một thời đại xảy ra nhiều biến động dữ dội. Cuộc
xâm lăng của thực dân Pháp đã kéo theo sự du nhập ồ ạt của văn hóa phương Tây,
làm thay đổi rất nhiều các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có văn hóa ứng
xử. Đứng trước thời cuộc ấy là hai cuộc đời, hai số phận, một Nguyễn Khuyến
với tâm thế là nhà nho truyền thống, một Tú Xương là nhà nho thị dân nên chắc
chắn rằng tư tưởng và tâm hồn thơ của Tam nguyên Yên Đổ và nhà thơ sơng Vị sẽ
có những nét đặc biệt, hứa hẹn sự khám phá thú vị. Bên cạnh đó, có thể thấy
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là những tác giả có sức ảnh hưởng khá lớn


8

trong dòng chảy văn học Việt Nam, nhất là khi cả hai tác giả đều được giảng dạy

trong nhà trường THPT. Cho nên, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần đổi mới
nội dung giảng dạy đó là bên cạnh việc truyền đạt tri thức cịn có thể liên hệ với
thực tiễn và giáo dục nhân cách cho học sinh. Đó là một trong những cách đưa
văn học lại gần với cuộc sống.
Vì tất cả những lẽ trên, chúng tơi chọn đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học
ngành Văn học Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích
lũy, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
trong đời sống xã hội và càng có ý nghĩa hơn khi nhân loại đang tiến vào thời đại
số, thời đại kinh tế thị trường. Khi mặt trái của cơ chế thị trường đã len lỏi vào
mọi ngóc ngách của xã hội, thậm chí vào cả thành trì bền vững nhất của giá trị cá
nhân thì người ta lại càng mong muốn tìm về với những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc, trong đó có văn hóa ứng xử. Vì vậy, vấn đề về văn hóa, văn
hóa ứng xử nói chung được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm cũng là điều dễ hiểu.
Năm 1871, E.B.Tylor (1832-1917) đã cho ra đời cơng trình nghiên cứu về
Văn hóa ngun thủy (Primitive Culture), trong cơng trình ấy, tác giả Tylor đã
nhấn mạnh “văn hóa hoặc văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất của dân tộc học, là
cái toàn thể phức hợp bao gồm nhận thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật, phong tục và các năng lực hoặc tập tục khác do con người thụ đắc với tư
cách thành viên xã hội”[18, tr.1]
Năm 1944, Bronislaw Malinowski (1884–1942), nhà nhân học Anh gốc Ba
Lan đã nghiên cứu văn hóa với những chức năng khác nhau qua cơng trình Une
théorie scientifique de la culture (Lý thuyết khoa học về văn hóa), trong Une
théorie scientifique de la culture nhà nhân học ấy đã cho rằng các yếu tố cấu
thành một nền văn hóa có chức năng thỏa mãn các nhu cầu chủ yếu của con



9

người. Đối tượng của ngành nhân học không phải là nghiên cứu các đặc trưng văn
hóa vơ nghĩa, cũng khơng phải các sự kiện văn hóa riêng rẽ, mà là các thiết chế
(kinh tế, chính trị, pháp luật, giáo dục...) và quan hệ giữa các thiết chế trong
tương quan của một hệ thống văn hóa.
J. Steward (1902-1972), một nhà nghiên cứu văn hóa người Mỹ, nổi tiếng
với thuyết Tiến hóa đa hệ (Multilinear evolutionism), là người đặt nền móng cho
Sinh thái học văn hóa (Cultural ecology) cũng như cho lý thuyết về sự biến đổi
văn hóa (culture change) quan tâm đến những đặc tính chung của các nền văn hóa
cách xa nhau về địa lý. Trong Lý thuyết biến đổi văn hóa: Phương pháp luận về
tiến hóa đa hệ (The Theory of Cultural Change: The Methodology of Multilinear
Evolution) xuất bản năm 1955, tác giả nhấn mạnh mỗi nền văn hóa có cách tiến
hóa khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện đặc thù của nền văn hóa đó.
Khi bàn về văn hóa ứng xử trong xã hội, Ralph Linton (1893–1953) cho
rằng ngồi tâm lý của từng cá thể cịn có tâm lý chung của mọi thành viên trong
một cộng đồng, gọi là “nhân cách cơ bản”. Văn hóa biến đổi do ưu thế hơn hẳn
của một kiểu nhân cách nào đó mà các thành viên trong một cộng đồng cùng chia
sẻ. Trong cơng trình Cơ sở văn hóa của nhân cách xuất bản năm 1945, Ralph
Linton cho rằng mỗi nền văn hóa ưu tiên một trong số các kiểu nhân cách được
xã hội coi là “bình thường”, phù hợp với chuẩn mực văn hóa và hệ thống các giá
trị.
Năm 2007, David Matsumoto của trường Đại học San Francisco State
trong bài viết Culture, Context, and Behavior đã đề xuất mơ hình những nguồn
lực dẫn đến lối ứng xử của con người, tác giả nhấn mạnh nguồn lực ảnh hưởng
đến lối ứng xử của con người đâu tiên ình tâm lý phổ qt), tiếp đến là văn hóa
(thơng qua các vai trị xã hội) và thứ ba cá tính (thơng qua vai trò cá nhân), tác giả
cũng nhấn mạnh lối ứng xử của con người chịu sự chi phối và nó chính là sản
phẩm của sự tương tác giữa ba yếu tố ấy [47].



10

Ngồi ra cịn có các cơng trình cũng đề cập đến văn hóa và văn hóa ứng xử
khá được chú ý như: Quan niệm về thời gian trong văn hóa thổ dân Mỹ: Một
nghiên cứu về phương pháp (Time Perspective in Aboriginal American Culture: A
Study in Method) của tác giả E. Sapir in năm 1916; cơng trình Khái niệm Các hệ
thống văn hóa. Bí quyết để hiểu các bộ lạc và các quốc gia (The concept of
Cultural Systems. A Key to Understanding Tribes and Nations) của L. White in
năm 1975,…
Tại Việt Nam, khi nhắc đến nghiên văn hóa khơng thể khơng nhắc tới cuốn
“Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh in lần đầu tiên năm 1938 được
ấn hành bởi Quan Hải Tùng Thư xuất bản năm 1938, Nxb Bốn Phương tái bản
năm 1951. Từ đó đến nay có rất nhiều cơng trình của các nhà nghiên cứu về văn
hóa vùng, văn hóa miền, văn hóa dân tộc – quốc gia Việt Nam hay văn hóa Việt
Nam trong bối cảnh Đông Nam Á… của các tác giả nổi tiếng như Trần Quốc
Vượng, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm, Toan Ánh, Chu Xuân Diên… Có thể kể
đến Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới (Phan Ngọc), Một thế kỷ nghiên cứu
văn hóa Việt Nam (Nguyễn Chí Bền), Xã hội học văn hóa (Đồn Văn Chúc), Văn
hóa và phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa (Nguyễn Văn Dân), Văn hóa Việt
Nam đỉnh cao Đại Việt (Nguyễn Đăng Duy), Tìm hiểu làng Việt (Diệp Đình Hoa),
Con người, mơi trường, văn hóa (Nguyễn Xn Kính), Văn hóa gia đình Việt
Nam (Vũ Gia Khánh), …
Năm 2005, tác giả Phan Ngọc với cơng trình Văn hóa Việt Nam và cách
tiếp cận mới do nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, đã đem đến cho người đọc một
sự kiến giải về văn hóa và cách tiếp cận mới. Cũng trong cuốn sách, tác giả đã đề
cập đến công việc tiến tới một sự nhận thức về văn hóa Việt Nam cũng như sự
tiếp biến Khổng giáo và môi trường Việt Nam. Trong công trình này, tác giả đã
nhận định rằng “Nước Việt Nam không phải là Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, Ấn
Độ, Trung Hoa để cấp được những yếu tố tạo nên văn hóa thế giới. Nhưng nó ở

ngã ba đường của các nền văn hóa, trong một trăm năm nay theo các văn hóa


11

Pháp, Mỹ, xã hội chủ nghĩa, hậu công nghiệp trong khi có sẵn một nội lực hùng
mạnh chống sự đồng hóa, cho nên người Việt Nam là bậc thầy về nghệ thuật
bricolage”. Cơng trình cho thấy sự sáng tạo của người Việt là lắp ghép, dung hóa.
Thiên nhiên ban cho mỗi dân tộc một thứ ân sủng khác nhau, một kiểu tài năng
khác nhau. Người Việt Nam lấy những yếu tố có sẵn, vốn mình hoặc mượn người,
cấu trúc lại, tức cấp cho chúng một kiểu “quan hệ” để tạo thành một sản phẩm
khác phù hợp với mình. Với bricolage có thể hiểu được sở trường và sở đoản,
nhất là cơ chế tiếp thu của văn hóa Việt Nam. Điều này rất cần khơng chỉ để tìm
hiểu q khứ, mà còn để xây dựng một chiến lược phát triển văn hóa tương lai.
Trong nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa, các tác giả đều có đề cập
các vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử. Tuy nhiên sự đề cập chỉ dừng lại ở nêu
hiện tượng, nhìn nhận khái quát.
Năm 2000, tác giả Trần Thúy Anh với công trình Thế ứng xử xã hội cổ
truyền của người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua một số ca dao - tục ngữ, đã đem đến
cho người đọc cái nhìn khái quát về truyền thống ứng xử của người Việt trong cái
nơi văn hóa châu thổ Bắc Bộ được cơ động và đúc kết qua ca dao – tục ngữ. Tác
giả đã lấy ca dao và tục ngữ làm điểm tựa để từ đó, hình dung một cách sinh động
và sâu sắc bộ mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa và sắc thái riêng biệt, kể cả những
tiếp nhận văn hóa của thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt Châu thổ Bắc
Bộ.
Năm 2001, tác giả Nguyễn Văn Lê với Văn hóa ứng xử trong giáo dục gia
đình đã nhận định mọi ứng xử phải tuân theo những quy tắc văn hóa trong ứng xử
“cha mẹ, ơng bà trong ứng xử với con cháu và con cháu trong ứng xử với ơng bà,
cha mẹ, anh chị trong gia đình. Con cháu đối với những người trên lấy sự tơn
kính làm trọng. Bề trên đối với con cháu lấy sự u thương, lịng bao dung để răn

dạy. Đó là đạo lý của dân tộc” [43,tr.6].
Năm 2002, nghiên cứu về văn hóa ứng xử tiếp tục được khẳng định qua
cơng trình Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam. Qua cơng trình của mình, tác


12

giả đã tiếp cận văn hóa ứng xử của người Việt và phần nói về văn hóa ứng xử của
các dân tộc ít người. Đặc biệt là góc độ văn hóa học tác giả phân tích một cách
logic về văn hóa ứng xử của người Việt “coi trọng tính tập thể, tính cộng đồng, xã
hội ”.
Cơng trình Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên,
Nguyễn Viết Chức (2002), đã khái quát văn hóa ứng xử của người Hà Nội đã kết
tinh những tinh hoa văn hóa đặc sắc của cả nước và giao lưu với nước ngồi. Qua
đó làm bật lên những nét văn hóa ứng xử của người Việt nói chung và người Hà
Nội nói riêng với mơi trường thiên nhiên, đó là “ứng xử hòa đồng với thiên nhiên
biến đổi tự nhiên theo q trình hồn thiện cuộc sống của mình”.
Văn hóa ứng xử cũng là một đề tài được các tác giả luận văn, luận án quan
tâm. Có thể kể đến Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nơm của Triệu
Thùy Dương (2007) – Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM, với cơng trình này, tác
giả đã nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt qua một số truyện thơ Nơm tiêu
biểu thế kỷ XVIII – XIX. Qua đó, tác giả lí giải sự ảnh hưởng của thế ứng xử với
tư cách là quan niệm sống, lối sống, nếp sống, lối hành động của một cộng đồng
người trong thực tế đời sống đến văn học. Luận văn đã so sánh ca dao, tục ngữ
với một số truyện thơ Nôm tiêu biểu xoay quanh các yếu tố văn hóa. Tác giả đã
tìm hiểu truyện thơ Nơm người Việt dưới một góc nhìn mới: góc nhìn từ truyền
thống văn hóa Việt. Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã có ý thức
tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để chỉ ra đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu
là những ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh đến văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng
xử người Việt qua thể loại truyện thơ Nôm. Đây là một trong những cơng trình

nghiên cứu khá cụ thể văn hóa ứng xử người Việt trong quan hệ với môi trường tự
nhiên, trong quan hệ xã hội và trong quan hệ gia đình.
Năm 2010, tác giả Cao Thị Liên Hương đã tìm hiểu về văn hóa ứng xử,
những nét cư xử trong cuộc sống hàng ngày của ông cha ta trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du qua luận văn Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du –


13

Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM. Luận văn đã khảo sát ba tập thơ chữ Hán
của Nguyễn Du đó là Thanh hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục
do Mai Quốc Liên chủ biên (Nxb Văn học 1996). Bên cạnh đó, người viết đã so
sánh thơ văn của một số tác giả mà nội dung có liên quan để thấy được nét ứng
xử tiêu biểu trở thành chuẩn mực trong đời sống của người Việt. Qua khảo sát,
thống kê, tìm hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tác giả nhận thấy văn hóa ứng xử
của Nguyễn Du thể hiện trong bốn mối quan hệ chính: ứng xử với bản thân, ứng
xử với môi trường tự nhiên, ứng xử với môi trường xã hội và ứng xử với gia đình.
Ngồi ra cịn có rất nhiều những cơng trình tâm lý học, xã hội học nghiên
cứu về văn hóa ứng xử như “Tâm lý học ứng xử” của tác giả Lê Thị Bừng, được
xuất bản bởi Nxb Giáo Dục năm 2001; cơng trình “ Tâm lý và nghệ thuật giao
tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch ”, của các tác giả Nguyễn Văn Đính,
Nguyễn Văn Mạnh, được Nxb Thống kê xuất bản năm 1995; “Nghệ thuật ứng xử
và sự thành công của mỗi người” của tác giả Nguyễn Ngọc Nam, Nguyễn Công
Khanh, Nguyễn Hồng Ngọc, do Nxb Thanh niên, ấn hành năm1995;…
Nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến và thơ Trần Tế
Xương ở góc độ nghiên cứu độc lập, riêng biệt tính đến thời điểm hiện tại có thể
thấy đã có một số cơng trình đã đề cập đến.
Nghiên cứu vấn đề văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến, gần nhất, có
thể kể đến cơng trình Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến - Trường Đại học
Sư phạm, Đại học Thái Nguyên, của tác giả Thân Thị Minh Trang (2015), đã

khảo sát về văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến ở các mối quan hệ cơ bản
trong gia đình và ngồi xã hội. Từ đó phân tích chỉ ra những nét đẹp văn hóa thể
hiện trong thơ ơng, điều khiến văn học gần với đời sống.
Hay với bài viết “Nguyễn Khuyến một phong cách thơ lớn” Nguyễn Lộc đã
nhấn mạnh rằng “Nói về tình cảm của con người, kể cả những tình cảm riêng tư,
Nguyễn Khuyến khơng phải là người đầu tiên. Giai đoạn trước từng có Phạm
Thái khóc người yêu, Nguyễn Hữu Chỉnh khóc chị, Phạm Nguyễn Du và Ngơ Thì


14

Sĩ khóc vợ…Cịn nói về tình giao hữu bạn bè thì có nhan nhản trong thơ chữ Hán.
Tất nhiên những sáng tác ấy có ý nghĩa riêng của nó, và đối với sự hình
thành con người cá thể của giai đoạn văn học trước, ngay trong xã hội, con người
cá thể cũng chưa có điều kiện hình thành, thì trong văn học những tình cảm riêng
tư cũng mang một sắc thái chung, có tính cách đạo đức cộng đồng. Đặc sắc của
Nguyễn Khuyến là những tình cảm của ơng giữ được ngun vẹn tính chất cá thể,
cụ thể của nó, mà không tan biến vào cái chung; và cái cá thể cụ thể ấy lại có tính
nơng thơn rõ rệt…” [27, tr.48].
Trong cơng trình “Giá trị văn hố truyền thống trong trước tác chữ Nơm
của Nguyễn Khuyến” của Hồng Mai Qun vấn đề đời sống tình cảm và văn hóa
giao tiếp của Nguyễn Khuyến với con cái, với vợ, với bạn bè, với học trị…cũng
đã được tìm hiểu một cách sơ lược. Trong cơng trình của mình tác giả Hồng Mai
Quyên đã chia hệ thống văn hoá ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến thành ba
mảng: ứng xử tình cảm trong gia đình, quan hệ ứng xử tác giả cũng quan tâm
đến đời sống tình cảm và văn hóa giao tiếp của ông với con cái, với vợ, với bạn
bè, với học trị…Trong bài viết của mình tác giả chia hệ thống văn hoá ứng xử
trong thơ Nguyễn Khuyến thành ba mảng: ứng xử tình cảm trong gia đình,
quan hệ ứng xử trong tình thầy trị và giao tiếp ứng xử với bạn bè, hàng xóm.
Nghiên cứu vấn đề văn hóa ứng xử trong thơ Trần Tế Xương dù chưa có

cơng trình nào nghiên cứu cụ thể, song cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu
về thơ Trần Tế Xương có nhắc đến văn hóa ứng xử trong thơ Trần Tế Xương như
trong tác phẩm Trơng dịng sơng Vị (1935), tác giả Trần Thanh Mại đã chia tập
sách của mình thành 14 chương đoạn: Khoa thi Đinh Dậu, Lễ xướng danh, Nhà
làm thi với nhà làm đại sự, Ông Tú Xương, Một nhà duy vật triết học, Bà Tú
Xương, Một vị thiên thần, Văn Chương ông Tú Xương, Một nhà trào phúng, Lối
thơ khẩu khí, Một tì vết trên bức tơ, Một cái án nặng chưa từng có trong các hình
luật, Những đoạn cuối của đời một nhà đại thi sĩ, Cái chết của ơng Tú Xương. Đó
là những khảo cứu nghiêm túc, những lời bình sâu sắc, những nét phác hoạ chân


15

dung sinh động về cuộc đời và lối ứng xử trong thơ Tú Xương với vợ và thời đại,
xã hội của mình.
Nghiên cứu thơ trào phúng của Tú Xương, cơng trình Hệ thống trào phúng
của Trần Tế Xương (1957) do Nguyễn Sỹ Tế viết theo hướng nghiên cứu chiều
lịch đại cũng như đồng đaị. Qua đó, Nguyễn Sỹ Tế cũng đã tìm hiểu nguyên nhân
và tiếng cười của Tú Xương trong sự so sánh với Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, qua đó khẳng định Tú Xương là một “thiên tài trào phúng đã đi vào cõi
bất diệt”. Tác giả đã sử dụng hướng tiếp cận tương đối mới là so sánh. Tuy nhiên,
so sánh ở mức độ đối chiếu đơn thuần mà chưa đặt nó trong một hệ văn hố ứng
xử trong thơ Trần Tế Xương.
Trong bài viết Tú Xương- nhà thơ lớn của dân tộc (1988), Nguyễn Đình
Chú đã đính chính và bổ sung nhiều chi tiết có ý nghĩa. Ông quan tâm lý giải cội
nguồn “gốc rễ trữ tình”, và tài năng của bậc “thần thơ thánh chữ”.Bằng hướng
nghiên cứu hệ thống, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhấn mạnh phương diện ý
thức cá nhân và tiếng cười giải thốt. Ơng kết luận, Tú Xương đi ngược lại truyền
thống thơ ngơn chí, đánh dấu sự phai nhạt của cách ứng xử trong không gian
truyền thống, mở ra không gian sinh hoạt đời thường, đô thi. Mặc dù đây chỉ là

những nhận định khái quát, song nó góp phần mở ra những vấn đề nghiên cứu
mới về Tú Xương.
Cũng nhắc đến văn hóa ứng xử trong thơ Trần Tế Xương, tác giả Đậu Thị
Hường với luận văn tốt nghiệp Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tìm hiểu Tú Xương với
tư cách là con người xã hội và tư cách của một tác giả văn học. Bằng hướng tiếp
cận văn hóa học và so sánh trong chiều lịch đại văn học nho gia, chân dung Tú
Xương hiện ra với tư cách là nhà nho hay nhà thơ đều mang những đặc điểm phi
truyền thống. Trong bối cảnh đơ thị hóa bắt đầu hình thành, sự nhập nhằng giữa
cái cũ và cái mới, giữa cái quen và cái lạ, sự phức tạp này không khỏi khiến cho
thái độ và tư tưởng của Tú Xương đôi lúc băn khoăn, mâu thuẫn.


16

Trên đây, là những phác thảo quá trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa ứng
xử và văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến cũng như thơ Trần Tế Xương.
Tất cả các cơng trình nghiên cứu về văn hóa đã tìm hiểu sâu về bản sắc văn hóa
nói chung và văn hóa ứng xử nói riêng. Nhưng nghiên cứu về văn hóa ứng xử
trong tác phẩm văn học thì vẫn cịn rất nhiều khoảng trống, có thể thấy ngồi
cơng trình Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến của tác giả Thân Thị Minh
Trang và cơng trình Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du do tác giả
Cao Thị Liên Hương thực hiện thì tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có thêm
cơng trình nghiên cứu nào dùng văn hóa ứng xử tiếp cận các tác phẩm văn học.
Việc đặt hai tác giả cùng thời có những điểm giống và khác nhau để nghiên cứu,
đối sánh qua góc nhìn văn hóa ứng xử thì vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu cụ
thể nào, đặc biệt là nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong Nguyễn Khuyến và Trần
Tế Xương. Vì lẽ đó, nhìn chung việc nghiên cứu về Văn hóa ứng xử trong thơ
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương như một cơng trình chun biệt thì chưa có.
Dù vậy, những nghiên cứu của các tác giả đi trước, thực sự là những tri thức quý

báu, giúp người viết có thể tiếp cận và giải quyết các vấn đề trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn bước đầu tìm hiểu hướng tiếp cận giúp khám phá hiểu biết sâu hơn
trên phương diện văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử góp phần hiểu thêm quan
niệm sống, nếp sống, lối hành động của con người trong xã hội qua thơ Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương.
Làm rõ vai trị của văn hóa ứng xử và ý nghĩa của nó đối với mỗi cá nhân và
xã hội. Góp phần hiểu hơn bối cảnh văn hóa, tâm tư, tình cảm của con người
trong buổi giao thời.
Việc tìm hiểu vấn đề Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương khơng chỉ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ hơn về diện mạo thơ ca trung
đại mà cịn giúp chúng ta tìm hiểu rõ hơn về cuộc đời, hành trạng và lối ứng xử


17

với con người, với tự nhiên, với xã hội của hai nhà thơ lớn Nguyễn Khuyến và
Trần Tế Xương. Việc tìm hiểu đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến
và Trần Tế Xương, vì vậy mà có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu và
giảng dạy nói chung, và qua việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề Văn hóa ứng xử
trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương nói riêng cũng sẽ giúp chúng ta có
thể học tập thêm những nét ứng xử của tiền nhân, vận dụng nó trong đời sống
hiện tại này.
4. Đối tượng và phạm vi đề tài

Với đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, đối
tượng nghiên cứu trực tiếp và xuyên suốt là vấn đề văn hóa ứng xử với phạm vi
nghiên cứu là các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài và triển khai luận văn, người viết sẽ áp dụng
những phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được sử dụng xuyên suốt
trong luận văn, nhờ phương pháp này, người viết có thể phân tích, tổng hợp các
dẫn chứng cụ thể với mục đích làm sáng tỏ những vấn đề mà người viết triển khai
trong luận văn.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi sẽ tiến
hành so sánh các tác phẩm thể hiện ứng xử văn hóa của Nguyễn Khuyến, Trần
Tế Xương với các tác phẩm khác của một số tác giả khác để làm nổi bật về văn
hóa ứng xử trong thơ của họ.
+ Phương pháp liên ngành: Là phương pháp được sử dụng trong luận văn với
mục đích làm rõ sự phong phú và đa dạng giữa các tác phẩm văn học nói chung
và các tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương nói riêng trong mối
tương quan giữa tác phẩm và những những vấn đề về văn hóa ứng xử.
+ Phương pháp hệ thống: Người viết đặt các tác phẩm thơ văn của Nguyễn
Khuyến, Trần Tế Xương và một số dẫn chứng được trình bày trong luận văn theo


18

một mối tương quan nhất định, đồng thời cũng đặt chúng với các tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam nói riêng, các tác phẩm văn học nói chung theo một hệ
thống. Từ đó, sẽ có sự đối chiếu, lý giải giúp ta có thể thấy được đầy đủ giá trị, ý
nghĩa của văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương và đưa đến
những kết luận trong luận văn.
Ngoài ra, người viết sẽ kết hợp thêm một số phương pháp luận nghiên cứu văn
học nói chung để làm rõ những vấn đề mà luận văn đặt ra. Những phương pháp
trên sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt trong toàn bộ luận văn, tùy

theo yêu cầu của mỗi chương mà người viết sẽ sử dụng theo cách chỉ tập trung
vào một phương pháp hoặc kết hợp hai hay nhiều phương pháp khác nhau để làm
sáng tỏ những vấn đề mà luận văn đã đưa ra.
6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương như
sau:
Chương 1. Những vấn đề chung
Nhiệm vụ của chương này là trình bày những vấn đề cơ sở lý luận chung, từ
đó làm nền tảng để người viết có thể triển khai các vấn đề trong phần những
chương kế tiếp. Cụ thể, người viết sẽ trình bày về ba vấn đề cơ bản đó là những
vấn đề liên quan đến văn hóa, văn hóa ứng xử qua đó phác thảo diện mạo văn hóa
người Việt và trình bày một số nét khái quát về cuộc đời cũng như sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.
Chương 2. Ứng xử đối với bản thân và môi trường tự nhiên
Trong chương hai, người viết trình bày về những nội dung ứng xử với bản
thân trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, từ đó chỉ ra những ý thức cá
nhân của hai nhà thơ và sự khác biệt trong lối ứng xử với bản thân của họ.
Ngoài ra, trong chương này, người viết cũng trình bày biểu hiện về ứng xử
của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương với môi trường tự nhiên cụ thể là thiên
nhiên với vai trò như một đối tượng để ngâm vịnh cũng như gửi gắm những tâm


19

tư của họ.
Chương 3. Ứng xử đối với môi trường xã hội và gia đình
Song song với những vấn đề được triển khai ở những chương trên, nhiệm vụ
của chương ba là khai thác các vấn đề về ứng xử với mơi trường xã hội và gia
đình trong thơ Nguyễn Khuyến cũng như trong thơ Trần Tế Xương. Từ đó, làm rõ

những nét độc đáo, thú vị trong lối ứng xử mà họ đã xây dựng trong những sáng
tác của mình.


20

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Truyền thống văn hóa của người Việt
Văn hóa của người Việt có sự ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa phương Đơng, nếu
như phương Tây có cội nguồn văn hóa từ cái cội rễ du mục thì phương Đơng có
nguồn cội là nơng nghiệp. Vì lẽ đó, người phương Đơng khơng chuộng lối sống chăn
nuôi, du cư, trọng động mà họ ưa lối sống trồng trọt, định cư và trọng tĩnh, hướng
nội. Việt Nam cũng là một trong số những đất nước có nền văn hóa thuộc kiểu văn
hóa nơng nghiệp lúa nước. Dù vậy, văn hóa Việt Nam cũng có những nét tương đồng
và khác biệt nhất định so với nền văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, nhất là nghề nơng
nghiệp lúa nước, vì vậy một lúc cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố thiên nhiên như:
thời tiết, nước, khí hậu… nên về mặt tư duy nhận thức người Việt đã hình thành
nên lối tư duy tổng hợp, biện chứng (trọng quan hệ) theo kiểu “Bầu ơi thương lấy
bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay “Một giọt máu đào
hơn ao nước lã”. Bên cạnh đó, người Việt cũng hình thành nên lối tư duy nhận
thức chủ quan và duy linh. Nếu như ở phương Tây, trong quan hệ ứng xử với môi
trường tự nhiên người ta coi trọng sự chinh phục và chế ngự, thì người phương
Đơng trong đó có người Việt lại sống hịa hợp với tự nhiên. Và từ đó dẫn tới lối
sống linh hoạt ln thay đổi để thích nghi với hồn cảnh.
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm đã
đề cập đến năm đặc trưng lớn trong nét văn hóa truyền thống của người Việt. Đó
là tính cộng đồng, tính ưa hài hịa, thiên về âm tính và tính tổng hợp. Bởi lẽ, Việt
Nam là một quốc gia nông nghiệp, trong truyền thống đó lại là kiểu nơng nghiệp
thuần túy. Với đặc trưng là tính thời vụ cũng như nhu cầu chống thiên tai, bảo vệ

an ninh trật tự xã hội đã quy định văn hóa làng xã cộng đồng của người Việt. Mặt
khác, người Việt Nam mang trong tư tưởng mềm dẻo, hiếu hịa vì lẽ đó từ xa xưa
họ đã mang trong mình tư duy lưỡng phân - lưỡng hợp. Người Việt đã nhận thức
được quy luật cân bằng của cuộc sống bằng lối sống quân bình lâu dần lối sống


21

chuộng hài hòa đã ăn sâu vào trong nếp cảm, nếp nghĩ của họ.
Đồng thời, là đất nước có điều kiện tự nhiên là xứ nóng, nhiều mưa, đồng
bằng ẩm thấp vì vậy đã dần hình thành nên lối sống nơng nghiệp âm tính, do vậy
mà tính cách văn hóa Việt Nam cũng thiên về âm tính ở chừng mực nhất định. Đó
cũng là nguồn gốc của sự hình thành mối quan hệ trọng tình, trọng đức, trọng phụ
nữ và trọng văn.
Bên cạnh đời sống nông nghiệp thuần túy, một mơi trường sống, một nguồn
cội văn hóa và nhất là lối sống định cư, trồng trọt đòi hỏi người Việt Nam phải cố
gắng bao quát hết mọi diễn biến của thời tiết, thiên nhiên để có được mùa màng
tốt nhất. Lịch sử văn minh trồng trọt ấy của người Việt Nam đã giúp tạo hình tính
tổng hợp trong tính cách văn hóa. So với các nước phương Tây, người Việt ít có
tư duy nhận thức phân tích, siêu hình và khách quan, duy lý, đó cũng là một hạn
chế nhất định trong sự phát triển kinh tế nói chung và khoa học kỹ thuật nói riêng
của người Việt.
Nhìn chung, văn hóa người Việt thường linh hoạt ưa hài hịa, trọng tình cảm
và đề cao vai trị của tập thể. Quan hệ ứng xử của người Việt vì thế mà cũng thuận
theo tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên trong quan hệ với mơi trường. Chính vì thế
mà trong văn hóa truyền thống của người Việt, tín ngưỡng dân gian đã phát triển
một cách hết sức tự nhiên trong đời sống của dân tộc.
1.1.1.Sự hình thành và phát triển, tín ngưỡng dân gian
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì “Tín ngưỡng là tin theo một tơn giáo nào
đó”[34, tr.994]. Và có thê hiểu rằng, tín ngưỡng dân gian là tập hợp những niềm

tin hình thành và phản ánh ước nguyện của một cộng đồng người có thể nhưng
khơng nhất thiết tn theo một hệ thống tơn giáo nhất định. Văn hố tín ngưỡng
dân gian không chỉ làm nên những giá trị tinh thần, tình cảm, tâm thức và tâm
linh của văn hố mà cịn góp phần tạo nên bản sắc và sức sống lâu bền của văn
hố các dân tộc. Mỗi tín ngưỡng dân gian đều có nhiều biến thể, trong quá trình
hình thành và phát triển của nó.


22

Từ xa xưa, Việt Nam là một quốc gia sống bằng nghề nơng nghiệp nên sự
gắn bó với tự nhiên vơ cùng lâu dài và bền chặt, vì lẽ đó sùng bái thần linh là một
tín ngưỡng mang tính tất yếu của người Việt. Trong lối tín ngưỡng ấy, chúng tơi
tạm chia ra là lối tín ngưỡng thờ cúng tự nhiên và tín ngưỡng thờ cúng con người.
Trước hết, tín ngưỡng dân gian của người Việt cho rằng trong vạn vật, trời
đất luôn ẩn chứa những quyền năng thiêng liêng và nó có thể khiến con người có
được những phúc lành hay tai họa bất cứ lúc nào. Sống trong thế giới ấy, con
người hiểu rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, họ vừa mang thái độ mong
được thần linh phù hộ, và có thái độ e sợ, thành kính. Biểu hiện rõ rệt cho điều ấy
đó là hành vi tín ngưỡng cầu cúng, khấn vái thần linh với mong cầu được chở che
của dân gian. Ca dao đã ghi lại ước muốn, nguyện vọng của dân gian với đất trời:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tơi cày
Lấy đầy bát cơm
Có thể thấy rằng, quan niệm của dân gian ta thì mọi thần linh đều vơ cùng
quan trọng, trước hết đó là Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước – những vị thần cai quản
các hiện tượng tự nhiên quan trọng, gắn bó với đời sống của người làm nơng
nghiệp nói chung trong đó có người Việt. Tín ngưỡng dân gian đã thờ bộ ba nữ
thần ấy qua lối Tam Phủ với ba bà là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn,

Mẫu Thoải cai quản ba vùng trời – đất – nước. Nhiều nhà, ở mỗi góc sân đều có
đặt một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên. Nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước
trong tín ngưỡng dân gian trở thành những thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà
Chúa Sơng…Vì vậy mà trong tục ngữ dân gian có câu “Lệnh làng nào làng ấy
đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Ngồi ra, Thần Đất cịn tồn tại trong tín
ngưỡng dân gian là Mẹ Đất, Bà Nước dưới tên gọi là Bà Thủy. Không phải ngẫu


23

nhiên mà khi chưa có ý thức về âm – dương cũng như ảnh hưởng văn hóa Trung
Hoa trọng dương gốc du mục, trong tín ngưỡng dân gian người Việt hầu hết đều
tơn thờ nữ thần. Bởi lẽ tính chất âm tính của văn hóa nơng nghiệp dẫn đến hậu
quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và
gia tăng niềm tin linh thiêng đối với các vị thánh thần mà mình phụng thờ hay cầu
khấn. Và họ truyền tụng với nhau trong ca dao, dân ca rằng, vạn vật khắp nơi đều
có thần linh, để từ đó răn dạy mình phải sống tốt hơn trong cõi đời này:
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm
(Ca dao)
Thứ hai, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt, với niềm tin rằng khi con
người ta khi chết sẽ về với tổ tiên nơi chín suối nên họ vẫn có tục thờ cúng tổ tiên
ơng bà. Thờ cúng ơng bà tổ tiên là một nét văn hóa lâu đời trong dân gian người
Việt, nó đã ăn sâu vào nếp sống của nhân dân ta. Đó là quan niệm “sống gửi, thác
về” hay “chết là thể xác, hồn là tinh anh”. Người Việt tin rằng dù đã ở nơi chín
suối nhưng ông bà vẫn luôn về phù hộ cho con cháu, vì vậy mà tín ngưỡng thờ
cúng ơng bà tổ tiên đã hình thành trong tín ngưỡng dân gian của người Việt.
Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt tôn giáo là biến âm từ tông giáo: tôn
giáo là việc giáo dục theo nền nếp của tổ tông. Bởi lẽ hầu hết, từ xưa cho đến nay,
bất cứ gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và nó gần như là một tôn giáo, dân

gian ta vẫn dạy “Con người có bố có ơng/ Như cây có cội như sơng có
nguồn”,...là vì thế. Khác với phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tín ngưỡng
dân gian Việt Nam, tục thờ cúng tổ tiên trọng việc cúng giỗ vào ngày mất, vì
người ta tin rằng đó là thời khắc mà con người đi vào cõi vĩnh hằng.
Ngoài tục cúng giỗ, dân gian ta còn khấn vái, cúng cầu vào các ngày sóc
vọng (mùng một, ngày rằm) hay khi trong gia đình có việc gì trọng đại như lễ tết,


24

sinh con, dựng vợ gả chồng cho con cái để bá cáo tổ tiên, khi họ muốn cầu mong
tổ tiên phù hộ (làm nhà, đi xa, thi cử, vụ mùa,…), hoặc lúc họ muốn tạ ơn (thi đỗ,
đi xa về bình an, làm ăn phát đạt,…). Nó thể hiện mối dây liên hệ gần gũi, khắng
khít giữa người sống và người chết, giữa cõi dương và cõi âm. Ngoài ra, đối
tượng được nhân dân ta thờ cúng còn là những anh hùng lịch sử, những người có
cơng lao to lớn với quê hương đất nước. Từ việc thờ cúng và khắc ghi công ơn
của vua tổ - Vua Hùng:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Hay chuyện từ chuyện ở núi Tản Viên xuất hiện một vị thần đã giúp vua
Hùng giúp nước non thanh bình là Sơn Tinh, cũng như Thánh Gióng với vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của nhân dân ta từ xa xưa cũng
dần được dân gian thờ phượng. Tín ngưỡng ấy vừa mang ý nghĩa như là sự đồn
kết của cộng đồng cư dân nơng nghiệp đã liên kết chặt chẽ với nhau, một mặt đối
phó với mơi trường tự nhiên là chống lụt và mặt khác đối phó với mơi trường xã
hội là chống giặc ngoại xâm để mà tồn tại. Ngoài ra, dân gian cịn tín ngưỡng các
vị thần như Liễu Hạnh, Chữ Đồng Tử,…những nét tín ngưỡng dân gian ấy là
những giá trị tinh thần văn hóa rất đẹp đẽ của dân tộc ta. Đó là tinh hoa chắt lọc
qua suốt chiều dài của lịch sử và cũng là biểu tượng cho sức mạnh liên kết cộng
đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống phồn

vinh và hạnh phúc.
Qua đó, cho thấy cũng như những bộ phận khác của văn hóa, tín ngưỡng dân
gian là tấm gương phản ánh trung thành những đặc trưng nông nghiệp của nền
văn hóa Việt Nam, trước hết đó là sự tơn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên
trong tín ngưỡng thờ cúng tự nhiên và tiếp đến là tín ngưỡng thờ cúng con người.
Đặc biệt, gắn liền với cuộc sống nơng nghiệp và ngun lí âm dương là khuynh
hướng đề cao tính nữ trong tín ngưỡng dân gian người Việt. Tín ngưỡng dân gian


25

Việt Nam đầy rẫy các nữ thần, Nho giáo và chế độ phụ quyền khơng tiêu diệt
được vai trị của người phụ nữ Việt Nam, trong tín ngưỡng dân gian luôn xuất
hiện Bà Trời, Bà Đất, các nữ thần Mây, Mưa, 12 bà mụ,…
Nhìn chung, có thể trong tín ngưỡng dân gian có khi những nội dung, đối
tượng và hình thức tín ngưỡng khơng giống nhau nhưng rõ ràng chung quy lại tín
ngưỡng dân gian mang tính linh thiêng của con người, dù đó là tín ngưỡng thờ
cúng tự nhiên hay thờ cúng con người thì niềm tin linh thiêng ấy đã đi vào đời
sống của cả dân tộc, nó đã trở thành phong tục, tập quán ăn sâu, bám rễ vào trong
tâm thức của nhân dân ta. Chính vì thế, có thể thấy cùng với những yếu tố khác,
văn hóa tín ngưỡng dân gian phần nào đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến đời sống
văn học của dân tộc, điều đó ta thấy ít nhiều cũng xuất hiện trong sáng tác của Tú
Xương và Nguyễn Khuyến.
1.1.2. Văn hóa Việt trong sự tiếp biến các luồng tư tưởng, văn hóa khác
Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới tạo nên một
hiện tượng thường được gọi là tiếp biến văn hóa (tiếp xúc và biến đổi văn hóa).
Sự tiếp xúc văn hóa khi xảy ra lâu dài và trực tiếp có thể gây ra sự biến đổi cấu
trúc của một nền văn hóa. Việt Nam cũng vậy, do sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa
mà văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng trong q trình hội nhập
văn hóa của văn hóa Việt Nam, từ khu vực đến thế giới. Trong q trình giao lưu

tiếp biến ấy, văn hóa ngoại lai đã có cơ hội du nhập vào nước ta. Điều đó được thể
hiện rõ nét qua các tư tưởng như Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
1.1.2.1. Với Nho giáo
Việt Nam nằm tiếp giáp biên giới Trung Quốc, trong quá trình phát triển lại
có nhiều quan hệ phức tạp nên việc tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Hán là lẽ đương
nhiên. Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao
nhiêu hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm dương
ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử, Lão Tử... Thế nhưng trong các học thuyết


×