Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tài liệu Chi Pơ mu pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.91 KB, 2 trang )

Chi Pơ mu (danh pháp khoa h ọ c : Fokienia) là một chi trong h ọ Hoàng đàn (Cupressaceae).
Trong các đặc trưng của nó, chi Fokienia là trung gian giữa hai chi Chamaecyparis và
Calocedrus, mặc dù về mặt di truyền học thì nó gần gũi hơn với chi thứ nhất. Chi này chỉ có
một loài còn sống là cây pơ mu (Fokienia hodginsii (Dunn) A.Henry & H.H.Thomas ) trong các
tài liệu bằng tiếng nước ngoài như trong ti ế ng Anh gọi là Fujian cypress (tạm dịch là bách Phúc
Kiến) và một loài chỉ còn ở dạng hóa thạch là Fokienia ravenscragensis.
Fokienia hodginsii có nguồn gốc từ miền đông nam Trung Quốc (các tỉnh Chiết Giang, Quý Châu,
Vân Nam và Phúc Kiến) tới miền bắc Việt Nam (các tỉnh Bắc Giang, Hà Giang, Hà Tĩnh, Hòa
Bình, Sơn La, Nghệ An, Lào Cai, Lai Châu, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ), phía
tây miền trung Việt Nam (các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), và kéo dài về phía tây
tới miền bắc Lào. Tên khoa học của nó có nguồn gốc từ tên gọi La tinh hóa cũ của tỉnh Phúc Kiến,
Trung Quốc, là nơi mà từ đó mẫu vật đầu tiên đã được người ta giới thiệu vào châu Âu, do
Hodgins thu thập năm 1908.
Nó là cây thân gỗ lá thường xanh, cao 25-30 m. Nó có vỏ cây màu ánh nâu-xám dễ tróc vỏ khi
cây còn non. Ở các cây già hơn, trên vỏ cây có các vết nút theo chiều dọc và nó có mùi thơm.
Các lá được sắp xếp trong các hệ thống cành nhánh nhỏ bằng phẳng, với các nhánh cây nhỏ
nằm trên một mặt phẳng. Lá trên các cây trưởng thành mọc thành các cặp chéo chữ thập đối,
các cặp so le không cách nhau đều đặn vì thế chúng biểu hiện như là các vòng xoắn 4 trên cùng
một mức; chúng hơi sắc, dài khoảng 2-5 mm, phía trên xanh sẫm và với các dải khí kh ổ ng màu
trắng phía dưới. Các lá ở phần bên có dạng hình trứng và bị nén, còn các lá mặt có dạng mác
ngược với đỉnh tam giác. Trên các cây non thì các lá lớn hơn, dài tới 8-10 mm và rộng 6 mm.
Các nón đực có hình trái xoan hoặc hình trụ, dài khoảng 2,5 mm, phần cuối trên chồi cây. Chúng
có từ 3 đến 5 cặp vảy bắc. Các nón cái lớn hơn nhiều, dài 15-25 mm và rộng 14-22 mm, dạng hình
cầu hay gần như hình cầu và chín vào năm thứ hai. Chúng có 5-8 cặp vảy bắc. Trên mỗi vảy bắc
có 2 hạt có cánh. Các hạt dài khoảng 4 mm, có góc cạnh và đầu nhọn. Trên các mặt trên và dưới có
2 chỗ phồng lớn chứa nhựa. Các cánh ở hai bên và không đều nhau.
Loài cây này không chịu được bóng râm, và cần có khí hậu mát mẻ, nhiều mưa. Nó mọc trên các
loại đất ẩm trong các khu vực miền núi. Tại Việt Nam, nó mọc trên các địa hình đất đá vôi hay đất
nguồn gốc granit từ độ cao 900 m trở lên.
Loài hóa thạch Fokienia ravenscragensis đã được miêu tả là có từ thời kỳ đầu của thế Paleocen
(60-65 Ma). Loài này có ở miền tây nam Saskatchewan và vùng phụ cận Alberta, Canada.


Ng ườ i Lào và ng ườ i Dao dùng gỗ cây pơ mu để làm nóc nhà hay vách ngăn phòng. Trước đây,
gỗ pơ mu còn được sử dụng để làm quan tài. Tại Việt Nam, nó được coi là một loại gỗ quý do
mùi thơm đặc trưng, vân gỗ đẹp cũng như trọng lượng khác thường của nó và đặc tính không
bị mối mọt phá hoại; vì thế nó được sử dụng để làm các đồ tạo tác mĩ thuật, các loại đồ gỗ gia
dụng, cũng như than c ủ i của nó có độ tỏa nhiệt cao. Nó là loài nguy cấp tại Việt Nam và được
đưa vào Sách đ ỏ Vi ệ t Nam năm 1996.
Sản phẩm chưng cất, đặc biệt là từ rễ pơ mu, là tinh dầu được dùng trong hóa mỹ phẩm và y học.
Các tên gọi khác của pơ mu trong ti ế ng Vi ệ t là đinh hương, tô hạp hương, mạy vạc (người thiểu số ở
Lào Cai), mạy long lanh (người Thái ở miền tây bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba
Na ở Gia Lai và Kon Tum)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×