Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi lớp c4 trường mầm non lương trung huyện bá thước tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.77 KB, 24 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC
TRƯỜNG MẦM NON LƯƠNG TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 3-4 TUỔI LỚP C4
TRƯỜNG MẦM NON LƯƠNG TRUNG

Người thực hiện: Dương Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Lương Trung
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2021


2
MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
1 MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chon đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Giải pháp nghiên cứu
2
2 NỘI DUNG
2
2.1. Cơ sở lý luận
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
* Thuận lợi
3
* Khó khăn
4
2.3 Các giải pháp thực hiện
5
1. Giải pháp 1: Tự học tự bồi dưỡng, giúp bản thân nhận thức sâu
5
sắc về việc nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4
tuổi
2. Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần giáo dục
6
cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi lớp C4 ở trường mầm non Lương Trung
3. Giải pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi
8
thông qua các hoạt động trong ngày
4. Giải pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các bài tập
14
tình huống
5. Giải pháp 5: Giáo dục kỹ năng sống qua việc tham gia các hoạt

16
động ngày hội, ngày lễ
6. Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc trao đổi, hướng
17
dẫn hội dung và cách rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trường cũng
như ở nhà
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
3.1. Kết luận
20
3.2. Kiến nghị
20


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
“Giáo dục Mầm Non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành
nhân cách con người” [1]. Vị trí này tưởng chừng đơn thuần là việc trơng giữ trẻ,
song nó lại là vị trí quan trọng là phần không nhỏ quyết định sự phát triển toàn
diện về nhân cách của một con người sau này. Và đây là bước khởi đầu, là nền
móng vững chắc cho những chặng đường tiếp theo của cấp học khác. Vì thế ngay
từ khi cịn trong độ tuổi mầm non chúng ta phải giáo dục trẻ để nền móng ấy thực
sự vững chắc cho tương lai.
Kỹ năng sống là một yếu tố rất quan trọng, tác động rất lớn đến hành vi và ý
thức của con người. Việc đẩy mạnh giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm
giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống. Biết được những điều nên làm và khơng

nên làm, đồng thời nó sẽ đóng vai trị nền tảng trong việc mang lại cho các cháu rất
nhiều lợi ích cả về mặt sức khỏe, giáo dục lẫn văn hóa xã hội. Có kỹ năng sống sẽ
giúp các bé sớm có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực,
sớm có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích
cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình, cho cộng đồng.
Trong xã hội thời kỳ "Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá” hiện nay, cùng với nhịp
đập hối hả của cuộc sống, con người cũng bận rộn hơn, tấp nập hơn. Trong sự bận
rộn và tấp nập ấy, đôi khi vơ tình chúng ta bỏ lại phía sau những kỹ năng sống cơ
bản của một con người mới trong xã hội mới. Hay nói cách khác, đây chính là sự
thiếu hụt kỹ năng sống trong một phần nhân cách con người. Hơn lúc nào hết,
chúng ta cần hiểu rằng cho dù ở thời đại nào thì kỹ năng sống vẫn là điều cần thiết
để giúp con người hoàn thiện hơn, năng động hơn.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là giáo dục cách sống tích cực trong
xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội
nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ cảm nhận thành những khả năng
thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong cuộc sống hàng ngày.[2]
Trong những năm gần đây giáo dục khơng ngừng đổi mới về hình thức, nội dung
và phương pháp tổ chức dạy cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là một nội dung được
nhiều người quan tâm, đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội
dung và cấp học quan trọng của trẻ mầm non, theo nghiên cứa của các nhà tâm lý
học, về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em dưới 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan
trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hóa. Thực tế kết quả của
nhiều nhà kinh tế cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học ở lứa tuổi
mầm non chính là những kỹ năng sống như: Sự hợp tác, tự kiểm sốt, tính tự tin, tự
lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp.
Trong thực tế ở trường mầm non việc dạy trẻ một số kỹ năng sống khơng phải là
khơng có nhưng ít được các nhà giáo dục chú trọng, phần lớn chỉ tích hợp nội dung
này trong một số tiết học như khám phá khoa học, kể chuyện, thơ hoặc xử lí một
vài tình huống xảy ra khi trẻ chưa biết chào hỏi, tranh giành đồ dùng đồ chơi, đánh
bạn....



2
Chính vì vậy để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã
nghiên cứu và lựa chọn đề tài ‘‘Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi lớp C4 ở trường mầm non Lương
Trung – huyện Bá Thước – Tỉnh Thanh Hóa” nhằm mục đích đưa lớp tơi trở
thành con người có ích cho xã hội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Là một người giáo viên mầm non, tôi luôn mong muốn rằng những búp măng non,
những chủ nhân tương lại của đất nước mà tôi hàng ngày yêu thương, chăm sóc, dạy
dỗ, lớn lên sẽ trở thành một người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Do đó ngay từ
ban đầu lứa tuổi mầm non, tôi không chỉ trau dồi cho trẻ những kiến thức cơ bản về
nhân sinh quan và thế giới quan mà điều quan trọng nữa đó là: Giáo dục trẻ về kỹ
năng sống của một con người mới trong xã hội mới, hơm nay và mai sau. Vì vậy dạy
cho trẻ có kỹ năng sống từ nhỏ đặc biệt là khi trẻ lên 3- 4 tuổi sẽ là nền tảng để trẻ trở
thành người có đạo đức, nhân cách tốt trong tương lai.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 3-4 tuổi lớp C4 ở trường mầm non Lương Trung – huyện Bá Thước – Tỉnh
Thanh Hóa
1.4. Giải pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu dùng lời.
- Phương pháp dùng trò chơi.
- Phương pháp thực hành.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận

Có lẽ trong mỗi chúng ta đã được nghe rất nhiều về cụm từ “ Kỹ năng sống”
và “giáo dục kỹ năng sống cho trẻ”. Thông thường kỹ năng sống được hiểu là
những kỹ năng cơ bản mà con người cần có để có cuộc sống khoẻ mạnh, an tồn
với chất lượng cao.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã
hội mà mỗi cá nhân cần có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả
hoặc để ứng phó với nhiều vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEFF, kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao
tiếp cá nhân giúp con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách
có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân. Như vậy kỹ năng
sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong
những hành động theo hướng tích cực và mang tính xây dựng. Chính vì vậy mà
ngay từ giai đoạn mầm non trẻ cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng
phát triển một cách tốt nhất.[3]
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ có


3
nhiều cơ hội để phát triển toàn diện, tuy nhiên cũng có khơng ít yếu tố tiêu cực có
thể trở thành cạm bẫy gây hại đến bản thân, gia đình và xã hội nếu không được
trang bị tốt các kỹ năng để ứng phó.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, với yêu
cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động
giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức
sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm
theo Thông tư số 28/2016/TT- BGD&ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016) có mục tiêu
giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội
dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng sống cho trẻ
mầm non.[4]

Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ làm chủ suy nghĩ, cảm xúc và hành
động của mình, nhưng điều quan trọng hơn nữa là trẻ sẽ vận dụng những kỹ năng
sống đó như thế nào trong cuộc sống sẽ giúp cho trẻ có nền tảng vững chắc, trong
việc tạo dựng tư thế chủ động sáng tạo của một đứa trẻ năng động. Trong cuộc
sống có rất nhiều các kỹ năng sống khác nhau nếu ta đưa tất cả các kỹ năng sống
đó vào dạy trẻ thì sẽ khơng có hiệu quả vì vậy địi hỏi mỗi giáo viên cần lựa chọn
các kỹ năng sống đó sao cho phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ để đạt hiệu quả cao.
Cụ thể đối với trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi tôi lựa chọn các kỹ năng, kỹ năng tự phục
vụ, kỹ năng tự tin, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng ứng sử, để đưa vào
dạy trẻ nhằm giúp trẻ mạnh dạn tự tin, độc lập sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hịa
nhập, dễ chia sẻ, ...hình thành nếp sống văn minh có hành vi ứng sử, giao tiếp theo
quy tắc, chuẩn mực phù hợp, không những vậy việc dạy trẻ kỹ năng sống cịn giúp
trẻ biết sử lý tình huống theo từng hồn cảnh cụ thể, biết bày tỏ tình cảm phù hợp,
đúng lúc, biết tránh những vật, những nơi không an tồn nguy hiểm đến tính mạng
và cách phịng tránh tự lập trong các tình huống quen thuộc.
Đối với bản thân tôi là giáo viên mầm non, tôi rất lo lắng vì trong lớp cịn rất
nhiều cháu vẫn có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm
tháng đầu đến trường. Do đó phải mất rất nhiều thời gian để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ trong đầu năm học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2020-2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo bé
3- 4 tuổi với tổng số là 35 cháu trong đó 17 cháu nam, và 18 cháu nữ. Trong q
trình thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận thấy một số thuận lợi và khó
khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, đạt trình độ chun
mơn từ chuẩn và trên chuẩn, năng động có nhiều sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ. Bản thân tôi là một giáo viên đạt trình độ chun mơn trên
chuẩn (Đại học Sư phạm Mầm non), có niỊm đam mê với cơng tác chăm sóc
giáo dục trẻ, điều đặc biệt tơi có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục

trẻ 3-4 tui, rừ nột nht vn l dạy kỹ năng sèng cho trỴ. Tơi ln được sự ủng
hộ giúp đỡ của tập thể cán bộ, giáo viên nhà trường; sự quan tâm tạo điều kiện về


4
mọi mặt của các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương và nhất là các bËc cha mẹ
học sinh, tạo điều kiện về kinh phí cũng như đồ dùng, đồ chơi. Nên ngay từ đầu
năm học, tôi đã xây dựng lch trỡnh dạy kỹ năng sống cho trẻ ca lp mình.
- Một số trẻ đã đi học từ nhà trẻ và có một số kỹ năng chào hỏi như: Đến lớp
biết chào cô và các bạn…, biết tự cất đồ dùng cá nhân như: cất dép, cặp, mũ…
- Bản thân ln có nhiệt huyết u nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao
trong cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Đối với các cháu: Tỷ lệ huy động trẻ đến trường rất cao nhà trẻ đạt 52 %,
mẫu giáo đạt 98%, được học ở các nhóm, lớp đúng độ tuổi theo quy định, nên trẻ ở
lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin.
- Đối với các bậc phụ huynh, cũng đã nhận thức đúng đắn về mục đích, ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc đưa con, em đến trường Mầm non. Vì
vậy mà tỷ lệ trẻ chuyên cần ngày càng cao hơn.
* Khó khăn:
- Hiện nay các bậc phụ huynh ln nóng vội trong việc dạy con. Họ luôn quan
tâm nhiều đến việc con đến trường học được bài hát, bài thơ, chữ gì hay số
mấy...chứ chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Hơn nữa
đa số trẻ sống trong thôn xóm ít giao tiếp, ít được trải nghiệm các kỹ năng sống
theo chuẩn mực giáo dục, nên còn hay nhút nhát và thụ động trong mọi tình huống
sảy ra, cha mẹ thường chú trọng đến cơng việc đồng áng ít có thời gian quan tâm,
dạy dỗ đặc biệt là dạy kỹ năng sống cho trẻ.
- Đặc biệt hiện nay có rất nhiều gia đình do điều kiện khó khăn nên bố mẹ phải
đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà, hay chú, bác nên được chiều chuộng ít
cho các em làm việc vừa sức mình, ơng bà bố mẹ hay làm hộ trẻ do đó mà kỹ năng
sống của các em cũng bị thiếu hụt.

- Đa số trẻ các kỹ năng của trẻ chưa thành thạo đang cịn phụ thuộc vào người
lớn và cơ giáo nhắc nhở.
- Đối với giáo viên mầm non nói chung việc hiểu biết nhiều về nội dung dạy trẻ
những kỹ năng sống cơ bản còn hạn chế, chưa biết vận dụng những kế hoạch định
hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Do vậy việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý
thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của trẻ cịn gặp nhiều khó khăn.
- Khối lượng cơng việc lớn, khơng có nhiều thời gian cho cơng tác phối hợp với
gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ.
- Trước thực trạng này tôi đã trăn trở để tìm ra những giải pháp thiết thực để tổ
chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mang lại ý nghĩa tích cực.
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học
Từ cơ sở lý luận và thực trạng trên, cùng với quá trình trực tiếp giảng dạy trên
lớp, bản thân nhận thấy rất rõ kỹ năng sống của trẻ cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, ngay
từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu về các kỹ năng và
phân loại chất lượng trên trẻ. Tôi đã thực hiện khảo sát trẻ trên 2 lớp mẫu giáo bé


5
3- 4 tuổi của nhà trường, trẻ lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi C4 (Lớp thực nghiệm áp dụng
các giải pháp) và lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi C1 (Lớp đối chứng không áp dụng các giải
pháp) trong năm học cụ thể:
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng trẻ đầu năm học 2020 - 2021( Tháng 9
năm 2020)
T
T

Kỹ năng tự phục vụ

35


Trước khi chưa áp dụng giải pháp
Lớp mẫu giáo C4
Lớp mẫu giáo C1
Đạt Tỉ lệ Chưa Tỉ lệ TS Đạt Tỉ Chư Tỉ lệ
trẻ
%
đạt
%
lệ
a
%
% đạt
25 12 48 13 52

15

43

20

57

Kỹ năng tự bảo vệ

35

14

40


21

60

25

9

36

16

64

Kỹ năng hợp tác

35

16

45,7

19

54,3

25

10


40

16

60

Kỹ năng trong giao 35
tiếp, ứng sử văn minh

15

43

20

57

25

9

36

16

64

35


13

37

63

25

11

44

15

56

Kỹ năng cảm nhận và 35
thể hiện cảm xúc

17

48,6

51,4

25

10

40


15

60

Tiêu chí
1
2
3
4

5
6

Kỹ năng vệ sinh

TS
trẻ

22
18

Qua bảng kết quả khảo sát trên của 2 lớp mẫu giáo Bé 3-4 tuổi. Cho thấy rằng
số trẻ đạt chiếm tỉ lệ thấp, số trẻ chưa đạt chiếm tỉ lệ cao cụ thể: Lớp mẫu giáo 3-4
tuổi C4 (Lớp sắp thực nghiệm áp dụng các giải pháp) trẻ đạt: 37 % -> 48,6%, chưa
đạt: 51,4% ->63; Lớp mẫu giáo 3-4 tuổi C1 (Lớp đối chứng không áp dụng các giải
pháp) trẻ đạt: 36% -> 48%, chưa đạt: 52% -> 64%. Qua lần khảo sát trên tơi nhận
thấy đa số trẻ chưa có các kỹ năng sống cơ bản. Vì vậy làm thế nào để có thể nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tơi đã tìm tịi, học hỏi và mạnh dạn
áp dụng "‘‘Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ

mẫu giáo bé 3- 4 tuổi lớp C4 ở trường mầm non Lương Trung- huyện Bá Thước
– Tỉnh Thanh Hóa.
2.3 . Các giải pháp thực hiện.
Giải pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng giúp bản thân nhận thức sâu sắc về việc
nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi.
Để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, trước tiên cơ phải có
kiến thức về kỹ năng sống cơ bản của trẻ mẫu giáo nói chung và mẫu giáo bé 3-4
tuổi nói riêng ở trường mầm non. Như chúng ta đã biết giáo dục kỹ năng sống là
một quá trình liên tục từ độ tuổi nhà trẻ cho đến độ tuổi mẫu giáo. Tuy nhiên độ
tuổi nhà trẻ kỹ năng sống hình thành chỉ là thơng qua hình ảnh cụ thể, giao tiếp nhẹ
nhàng, tình huống đơn giản,… Khi đến tuổi mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo bé
3-4 tuổi thì phải hình thành cho trẻ nhiều kỹ năng sống cần thiết hơn, cụ thể hơn.
Nhận thức được điều này, bản thân tôi đã ngày ngày tìm tịi, học hỏi, bồi dưỡng,
trau dồi những kiến thức về kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu


6
giáo bé nói riêng thơng qua việc: Tìm hiểu kỹ đặc thù tâm, sinh lý, tính cách riêng
của trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi lớp C4 nói riêng và trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi trường
mầm non Lương Trung nói chung.
Việc lựa chọn những kỹ năng sống phù hợp để dạy trẻ có vai trị hết sức
quan trọng, khơng chỉ giúp trẻ tiếp xúc với các kiến thức văn hóa trong suốt năm
học mà cịn giúp trẻ rèn luyện được các kỹ năng qua thực tế và học tốt khi có được
cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm
xúc và xã hội. Tùy thuộc vào từng chủ đề, từng thời điểm tôi lựa chọn nội dung khi
giáo dục kỹ nãng sống để dạy trẻ cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao.
Để nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ tôi đã dành nhiều thời gian đọc các tài
liệu về tâm lý học trẻ em. Bên cạnh đó tơi ln tham khảo các tài liệu liên quan
đến việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong module 39- Tài liệu bồi dưỡng thường
xuyên Mầm Non “ Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo”. Qua một thời gian tự

học, tự bồi dưỡng tơi cảm thấy mình đã trang bị được những kiến thức cơ bản về
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé 3- 4 tuổi, tơi đã “hiểu” trẻ hơn
và có thể thiết kế các hoạt động tích hợp nhằm giúp các con biết nâng cao kỹ năng
sống cơ bản. Và tôi nhận ra rằng để trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi có những kỹ năng
sống tốt cô giáo phải :
- Luôn quan sát, lắng nghe, tạo cơ hội cho trẻ thể hiện kỹ năng sống của mình
thơng qua các hoạt động hàng ngày trên lớp, ở nhà cùng gia đình .
- Dạy trẻ cách quan sát, tập và thực hành, giải quyết vấn đề về kỹ năng sống.
- Tơn trọng, động viên khích lệ khi trẻ thực hiện tốt các kỹ năng sống cơ bản.
- Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tận dụng mọi tình huống và hoạt động có thể tích
hợp.
Bên cạnh đó chính bản thân tơi ln phải có ý thức phấn đấu, điều chỉnh
hành vi, thái độ việc làm của mình một cách nghiêm túc, đúng đắn và chính sác
trong mọi tình huống cũng như mọi mối quan hệ với con người, thế giới xung
quanh để trẻ học hỏi và bắt trước làm theo. Nhận thức được điều đó nên tôi luôn
chú ý đến cách đi đứng, ăn mặc, nói năng sao cho phù hợp với từng hồn cảnh, phù
hợp với đạo đức nhà giáo. Tự tạo cho mình phong thái nhẹ nhàng, từ tốn, tự tin, ăn
mặc kín đáo, lịch sự trước trẻ. Trong giao tiếp với mọi người xung quanh lễ phép
với người trên, tôn trọng đồng nghiệp, nói đủ nghe, hồ nhã với phụ huynh, khơng
ngồi ăn trước mặt trẻ.
Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ tới lớp giáo viên dạy trẻ chào ông bà bố mẹ thì
giáo viên sẽ đứng khoanh tay cúi chào để trẻ làm theo cơ, dần dần trẻ sẽ hình thành
thói quen và có những hành vi phù hợp với quy tắc ứng xử.
Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần giáo dục cho trẻ mẫu
giáo bé 3- 4 tuổi lớp C4 ở trường mầm non Lương Trung.
Đối với tâm sinh lý trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi lớp C4
nói riêng, bên cạnh việc thích ứng với mơi trường học tập, thì trẻ cịn phải được
nhận biết, thực hành và trải nghiệm rất nhiều những kỹ năng sống cơ bản. Trong
q trình chăm sóc và giáo dục trẻ, thơng qua kế hoạch hoạt động hàng ngày tôi đã
cung cấp cho các cháu kiến thức và những kỹ năng sống cơ bản. Nhưng thực tế kết



7
quả tôi nhận thấy rằng các kỹ năng sống quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
ở tuổi mẫu giáo đặc biệt là mẫu giáo bé 3- 4 tuổi chính là những kỹ năng sống như:
- Kỹ năng tự phục vụ (Như: Đánh răng, rửa mặt, thay quần áo, cất - sắp xếp đồ
dùng gọn gàng, ngăn nắp,...)

Ảnh minh họa: Bé gấp quần áo cùng cơ giáo
Khi rèn nhóm kỹ năng tự tơi có thể linh hoạt tổ chức cho trẻ dưới dạng trò
chơi làm như vậy sẽ đạt kết quả cáo hơn
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tơi cho trẻ chơi trị chơi “Ai nhanh hơn,
khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi giới thiệu với
trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ
10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà.
Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng
túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần
chính xác hơn. Với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tơi đã có
kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.
- Kỹ năng tự bảo vệ (Ví dụ: Ăn mặc phù hợp theo mùa, tránh xa ao, hồ, sông,
suối, không leo trèo, không nghịch ổ điện, không ngậm đồ chơi, không cho vật lạ
vào mắt, mũi, miệng, không đi theo người lạ,…).
- Kỹ năng hợp tác, chia sẻ (Ví dụ: Chơi với em để mẹ làm việc nhà, trẻ cùng
chơi với nhau, chia đồ chơi với bạn, cùng với bạn tạo nên sản phẩm, đỡ bạn bị ngã.
- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử văn minh (Ví dụ: Biết chờ đến lượt trong các hoạt
động, biết đặt câu hỏi và trả lời, khi giao tiếp phải nhìn vào mắt người nói chuyện,
ứng xử văn minh: Khi ăn thì mời người lớn, ăn từ tốn, trẻ cần lễ phép dạ thưa với
người lớn, ho ngáp che miệng, không khạc nhổ bừa bãi, giúp người lớn dọn dẹp,
ngoài ra cần thực hiện một số quy tắc xã hội: Không hái hoa, bẻ cành cũng như

không được trêu chọc con vật. Không tự ý nghịch phá đồ chơi ở lớp khi chưa cho
phép, ở nơi công cộng thì khơng chen lấn, nhường người già, em nhỏ,…)
- Kỹ năng vệ sinh: (Ví dụ: Ln có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh mơi
trường, vệ sinh trong ăn uống, …)


8

Ảnh minh hoa: Cô cho trẻ rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn
- Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc (Ví dụ: Trẻ biết cảm xúc khi vui,
buồn, giận dữ, lo lắng và thể hiện cảm xúc đó qua nét mặt, cử chỉ, lời nói,…)
Khi đã xác định từng nhóm kỹ năng tơi đã tùy vào từng chủ đề để lựa chọn
các kỹ năng cho phù hợp để rèn luyện trẻ.
Ví dụ:
* Ở chủ đề: “Trường mầm non”
Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi cô giáo, tạm biệt, cảm ơn,
xin lỗi, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng nghe ý kiến, chia sẻ thơng tin, hịa
thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hồn thành cơng việc…
Hay ở chủ đề gia đình: Tơi dạy trẻ những kỹ năng ứng sử phù hợp với
những người gần gũi xung quanh: Lễ phép, tôn trọng người lớn, quan tâm nhường
nhịn em nhỏ, giúp đỡ bố mẹ những việc vừa sức, biết trò chuyện lễ phép, thân mật,
chơi vui vẻ với mọi người trong gia đình, khơng quậy phá làm ồn, nhận biết và thể
hiện cảm xúc, chia sẻ đồng cảm…
Hay ở chủ đề: Bản thân
Tôi đưa kỹ năng tự nhận thức để giáo dục trẻ bởi chủ đề này giúp trẻ ý thức
được về bản thân mình, trẻ có khả năng hiểu biết đánh giá được bản thân mình về
tính cách, sở thích, thói quen, nhận thức được về mặt mạnh, mặt yếu của mình
trong và ngồi nhà trường. Nhận thức được tình cảm, ý tưởng và giá trị của mình,
tự chấp nhận bản thân, cảm nhận sự chấp nhận của người khác và sự chấp nhận của
trẻ đối với mọi người. Qua giáo dục kỹ năng tự nhận thức, trẻ có thể tự biết được

tên gọi, đặc điểm của bản thân mình, biết sở thích và những đồ dùng, đồ chơi mà
mình u thích, biết được về năng khiếu và khả năng đặc biệt của mình. Giúp trẻ tự
tin trong giao tiếp, nói năng lưu lốt trước chỗ đơng người.
Nếu trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi không được rèn luyện kỹ năng sống thì khi hịa
nhập với cuộc sống, với môi trường, xã hội trẻ sẽ thiếu tự tin, thiếu ý thức, thiếu sự
điều chỉnh trong thái độ và hành vi, khơng giải quyết được các tình huống khác.
Những kỹ năng trên không phải thực hiện riêng lẻ trong chương trình, kế hoạch
chăm sóc, giáo dục trẻ mà được lồng ghép trong quá trình diễn ra hoạt động, làm
sao để kỹ năng sống được rèn luyện hình thành và theo trẻ đến suốt cuộc đời.
Giải pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi thông
qua các hoạt động trong ngày.


9
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế của trường, tôi đã thực hiện một
số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4
tuổi qua các hình thức hoạt động vui chơi, hoạt động có chủ đích, trong các nghi
thức văn hố, qua q trình lao động vừa sức trẻ... cụ thể là:
* Tạo cho trẻ có những thói quen tốt trong giờ đón, trả trẻ:
Giờ đón, trả trẻ là khoảng thời gian khá thuận tiện để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ, thơng qua cuộc trị chuyện giữa cô với cha mẹ, giữa trẻ và cô sẽ giúp trẻ
quan sát được những hành động, cử chỉ, cách giao tiếp lịch sự, tôi luôn làm tấm
gương sáng cho trẻ noi theo, tôi luôn chủ động chào hỏi, trao đổi với các bậc phụ
huynh, giúp cho trẻ thấy được sự gần gũi của cơ giáo từ đó trẻ sẽ bắt trước cô chào
bố me, ông bà và những người lớn tuổi một cách lễ phép.
Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ đến, tôi chào: Em chào chị ạ, cô chào Phương
Vy. Và ngay sau đó trẻ khoanh tay chào cô giáo và chào tạm biệt mẹ.

Ảnh minh họa: Trẻ chào cô giáo và bố mẹ để vào lớp
Thời gian đầu khi tơi đón, trả trẻ tơi đã quan sát từng trẻ xem trẻ đã biết chào

hỏi, biết tự cất đồ dùng, không đi theo người lạ chưa. Nhưng tôi thấy đa số trẻ còn
nhút nhát, chưa biết chào hoặc biết chào cũng chưa đủ câu, khi thấy người vào lớp
cũng chưa biết tự giác chào hỏi mà phải đợi cơ nhắc nhở, khi trả trẻ người hàng
xóm đi đón mà bịt mặt kín trẻ vẫn chạy ra để theo về cùng. Từ thực tế đó tơi ln
gần gũi trị chuyện cùng trẻ để rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng không đi theo và
nhận quà của người lạ, không chơi những nơi nguy hiểm, kỹ năng tự phục vụ.
Ví dụ: Khi đến lớp trẻ tự cất ba lô, dép, mũ vào nơi quy định. Để giáo dục
trẻ đạt hiệu quả cao ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp cùng giáo viên đứng cùng
độ tuổi 3- 4 tuổi trong trường làm các ký hiệu riêng cho từng trẻ và dạy trẻ học
thuộc ký hiệu riêng của mình. Trong một thời gian ngắn đa số trẻ đã biết cất và lấy
đồ dùng đúng nơi quy định.
Ngồi ra tơi ln đọc thơ kể cho trẻ nghe các bài thơ câu chuyện về những tấm
gương ngoan.
Ví dụ: Yêu mẹ “, Quà tặng mẹ”, “ Chú gấu con ngoan”…Tôi đưa ra các câu
hỏi tình huống để trẻ trả lời, tổ chức các trị chơi có luật để kích thích những trẻ
cịn nhút nhát cùng tham gia, nhờ áp dụng giải pháp này tơi thấy trẻ đã tiến bộ rõ
rệt, khi có người vào lớp trẻ đã biết chào hỏi, giao tiếp tự tin hơn mà không cần cô
nhắc nhở
* Thông qua hoạt động học:
Hoạt động học có chủ đích là hoạt động giáo viên giúp trẻ phát triển đồng
đều các lĩnh vực: Thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ.


10
Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tịi, biết
vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được từ đơn giản đến phức tạp mang tính logic
cao, giúp trẻ học các kỹ năng sống nhanh và chính xác nhất. Hoạt động học là hoạt
động mà giáo viên có thể giúp trẻ hình thành được rất nhiều các kỹ năng sống như:
rèn cho trẻ kỹ năng học tập, kỹ năng tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp và

quan hệ xã hội....tuỳ theo từng chủ đề, từng lĩnh vực, từng đề tài mà giáo viên hình
thành cho trẻ được kỹ năng sống
Ví dụ : Với chủ đề “Một số hiện tượng tự nhiên” trong hoạt động khám
phá khoa học "Một số hiện tượng tự nhiên" tôi cho trẻ khám phá trải nghiệm các
hình ảnh về mưa, các hiện tượng tự nhiên về sấm, sét, chớp tôi tạo tình huống để
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để giúp trẻ có kiến thức ứng phó với mưa, các hiện
tượng tự nhiên đúng cách để bảo vệ sức khỏe như: Khi thấy trời mưa các con phải
làm gì? vì sao các con phải mặc áo mưa?, khi có sấm sét các con phải như thế
nào?... Cứ như vậy, thông qua các hoạt động có chủ định tơi lồng các nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ, trẻ lĩnh hội kiến thức một cách thoải mái, không thụ
động, từ đó nhóm kỹ năng học tập của trẻ cũng được nâng lên.
Ví dụ : Hay với chủ đề “ Gia đình” hoạt động làm quen với tác phẩm văn
học tơi kể cho trẻ nghe câu chuyện “ Cô bé quàng khăn đỏ” Tôi rèn cho trẻ và giáo
dục trẻ phải ngoan nghe lời bố mẹ nếu không nghe lời bố mẹ sẽ xảy ra hậu quả bị
người xấu làm hại. Và rèn cho trẻ kỹ năng đoán được sự nguy hiểm sắp xảy ra và
tìm cách để bảo vệ mình và người thân khỏi bị nguy hiểm.
Ví dụ : Chủ đề “Thế giới thực vật” tôi cho trẻ thi “xé dán tranh vườn cây
ăn quả”
Qua đề tài này tôi muốn củng cố kỹ năng tự chuẩn bị đồ dùng , rèn cho trẻ
các kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm thật hiệu quả. Để cuốn hút trẻ tham gia
vào cuộc thi tôi gây sự chú ý cho trẻ bằng cách: Chia trẻ thành 3 nhóm, mỗi nhóm
đội mũ quả khác nhau, mũ quả cam, mũ quả soài, quả táo... Mỗi một nhóm hồn
thành một cơng việc khác nhau trong một thời gian nhất định. Sau khi nhóm đã
hồn thành cơng việc được giao, mỗi nhóm sẽ lần lượt đưa ra nhận xét về sản
phẩm của nhóm mình và nhóm bạn và nói được bản thân mình u thích sản phẩm
nhóm nào? Vì sao?
Qua hình thức tổ chức này tơi thấy trẻ đã nhanh chóng tìm về nơi ngồi và
phối hợp cùng nhau thực hiện xé dán vườn cây ăn quả theo nhóm của mình, nói
được ý tưởng của nhóm mình, nhận xét được sản phẩm của mình, của bạn. Như
vậy ta thấy rằng thông qua hoạt động này trẻ đã có tinh thần hợp tác với nhau và

cùng nhau phối hợp để hồn thành cơng việc được giao một cách hiệu quả.
Ví dụ : Hay kết thúc ở Chủ đề “Bản thân” tơi tổ chức cuộc thi “ Mình
cùng tự phục vụ nhé” Tôi cho trẻ thi ai chải tóc khéo, ai tự mặc quần áo, đi dày
giỏi…. và tôi đưa ra những giải thưởng cho cuộc thi là những món q hấp dẫn
như: chiếc vịng cột tóc, những con thú nhồi bơng nhỏ nhắn, hình dán Đơrêmon…
Tơi thấy đa số trẻ hào hứng tham gia. Từ đó củng cố cho trẻ kỹ năng tự phục vụ
bản thân, trẻ mạnh dạn thể hiện mình trước tập thể.
* Thơng qua hoạt động vui chơi
Vui chơi là hoạt động tạo cho trẻ nhiều hứng thú và cũng cho trẻ cơ hội được


11
vận dụng nhiều kiến thức kĩ năng khác nhau vào giải quyết nhiệm vụ chơi. Trẻ
được thử nghiệm nhiều vai trò khác nhau qua các vai chơi, được phát huy trí tưởng
tượng, sáng tạo, học hỏi và hợp tác với các bạn cùng chơi…. Ví dụ trong trị chơi
gia đình trẻ phải biết điều hòa các mối quan hệ với 2 vai trò khác nhau : mối quan
hệ với bạn cùng chơi (quan hệ thật) và quan hệ với nhân vật trong trò chơi (quan
hệ giả). Để trò chơi phát triển mỗi đứa trẻ đều phải cùng cố gắng hoàn thành tốt vai
trị của mình đồng thời phải biết chia sẻ, hợp tác với các bạn khác.
Hoạt động vui chơi bao gồm: Hoạt động chơi ở các góc, hoạt động chơi
ngồi trời.
- Chơi, hoạt động ở các góc
Thơng qua góc chơi phân vai: Nấu ăn - bán hàng - gia đình trẻ được làm
quen với đồ dùng, vật dụng khác nhau như: Bộ đồ bếp nấu, bát ăn, bộ đồ uống…
với các bộ đồ dùng này tôi cho trẻ chơi trò chơi nấu ăn… Hay qua trò chơi “bán
hàng” trẻ hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ cịn phải biết
mời chào lễ phép ví dụ: Như trẻ bán hàng nói: Bác ơi bác mua gì cho cháu đi ạ. Trẻ
khác nói: Lấy bó rau – trả tiền này.
Khi quan sát được cách trả lời chống không này tôi phải lại gần và sửa ngay
cho trẻ bằng cách: Tôi tự hỏi người bán hàng trước để trẻ nhìn và bắt chước theo

như: Chào bác? Bác ơi bao nhiêu tiền một bó rau ạ? Bác bán cho tơi một bó?
Nếu trẻ đã trả lời lễ phép tơi sẽ gắn cho trẻ một sao lên áo để cuối giờ chơi
nhận xét trước lớp. Với hình thức này trẻ rất thích thú khi tham gia vào trị chơi từ
đó sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ bản thân và ý
nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này của trẻ.
Hay khi chơi ở góc chơi “ Xây dựng” chủ đề “ Gia đình” khi xây dựng
“Ngơi nhà của bé” tơi gợi ý cho tất cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận,
phân công công việc cho nhau và cùng làm cơng việc được giao.
Ví dụ: Cả nhóm bầu Bạn A là Kỹ sư trưởng thì bạn A sẽ là người chỉ huy
cơng trình ngày hơm nay, sau đó bạn A sẽ phân công nhiệm vụ cho từng người như
sau: Bạn B lắp hàng rào, bạn C đi trở vật liệu, các bạn còn lại tập chung xây
dựng…Mỗi trẻ được nhận một nhiệm vụ cụ thể, cuối cùng trẻ cũng hồn thành
cơng trình. Đó là một cách hợp tác chia sẽ cơng việc theo nhóm và biết tn thủ
theo mệnh lệnh của nhóm trưởng từ đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo.
Ngồi ra tơi cịn xây dựng góc “Thực hành kỹ năng sống” cho trẻ chơi
thường xuyên như: Trẻ thực hiện kỹ năng tự cài khuy áo, chải tóc, tết tóc, đan nong
mốt, nong hai, gấp quần áo…
Qua một thời gian áp dụng tôi thấy đa số trẻ đã có các kỹ năng tự phục vụ
tốt, về nhà đã biết giúp đỡ bố mẹ làm những công việc đơn giản, phụ huynh cảm
thấy rất vui.
- Chơi, hoạt động ngoài trời
Hoạt động chơi ngoài trời là khoảng thời gian vô cùng quý giá đối với sự
phát triển của trẻ mà ít thời điểm sinh hoạt nào khác có thể so sánh được. Khi vui
chơi ngoài trời là khoảng thời gian trẻ được thỏa mãn thực hiện các vận động giải
phóng năng lượng. Khơng gian vui chơi ngồi trời có rất nhiều lợi thế cho việc tiếp
xúc các hoạt động đa dạng, tích cực của trẻ mà điều kiện trong phịng khơng thể
đáp ứng được…Vui chơi ngồi trời tạo cho trẻ sự nhanh nhẹn và hứng thú với môi


12

trường tự nhiên đồng thời trẻ tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống, góp phần tích cực
trong sự phát triển tồn diện của trẻ. Chính vì điều đó tơi đã kết hợp rèn các kỹ
năng sống cho trẻ như: Mạnh dạn, tự tin, vệ sinh môi trường, nhặt rác bỏ vào thùng
để bảo vệ môi trường, tránh xa những nơi nguy hiểm….

Hình ảnh: Trẻ nhặt rác, lá cây vệ sinh mơi trường

Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ dạo chơi khám phá vườn trường
Tôi rèn cho trẻ khi đi phải thành hàng, không xô đẩy, chen lấn khiến bạn ngã
sẽ gây nguy hiểm, khi gặp các cô, các bác trong trường thì phải chào hỏi lễ phép.
Bước vào hoạt động khám phá tơi cho trẻ tự nhận xét, nói lên suy nghĩ của
mình về các loại cây trẻ vừa được quan sát Ví dụ: Khi quan sát các loại hoa…. Trẻ
nói được đặc điểm, lợi ích của cây.

Hình ảnh : Trẻ vui chơi ngoài trời quan sát một số loại hoa.

Từ đó giáo dục trẻ biết u q hoa khơng ngắt lá, bẻ cành, ngắt hoa…biết
yêu người lao động. Ngoài ra còn giáo dục cho trẻ tránh những nơi nguy hiểm như:
không leo trèo lên cây, không chơi gần bể nước…Mặt khác tơi cịn tổ chức cho trẻ
chơi các trị chơi vận động để rèn kỹ năng phối hợp, biết chờ đợi khi đến lượt như:
Tìm lá cho Hoa, bật qua suối nhỏ…tôi chia trẻ thành hai đội thời gian của trò chơi
diễn ra bằng một bản nhạc đội nào tham gia đúng luật, gắn được nhiều lá cho hoa
sẽ giành chiến thắng và nhận được giải thưởng là một tràng pháo tay. Với cách tổ
chức này tôi thấy trẻ rất hứng thú, các kỹ năng của trẻ cũng đạt kết quả rõ rệt, trẻ
đã có ý thức vệ sinh môi trường hơn như đi qua sân trường thấy vỏ sữa dưới đất trẻ


13
đã biết nhặt lên và bỏ vào thùng rác,không cần sự nhắc nhở của người khác, biết
tranh xa những nơi khơng an tồn.

* Hoạt động vệ sinh ăn trưa, ngủ trưa
Đối với trẻ ở lứa tuổi này cơ thể trẻ đang phát triển, hệ thần kinh chưa hoàn
chỉnh, sức chống đỡ với bệnh tật nói chung cũng như khả năng thích ứng của da
cịn yếu nên trẻ dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn cũng như dễ bị ảnh hưởng của
yếu tố thời tiết và mơi trường. Vì vậy việc giáo dục trẻ có thói quen vệ sinh dựa
trên sự hình thành phản xạ có điều kiện sẽ giúp trẻ có được những thói quen tốt có
lợi cho sức khỏe.
Thơng qua hoạt động này tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ bản thân, giữ
gìn vệ sinh cá nhân như: Tự kê bàn ăn, chia đĩa, chia khăn, chia cơm, biết chải tóc
sau khi ngủ dậy, rửa tay trước và sau khi ăn…Tuy nhiên những việc này đối với trẻ
mẫu giáo bé chưa được thành thạo nên sẽ có sự tham gia giúp đỡ hỗ trợ của cô.
Muốn rèn luyện được bản thân tơi nghĩ mình phải làm gương, làm mẫu để trẻ nhìn
và thực hiện theo.
Ví dụ: Trước giờ ăn trưa tôi thực hiện các bước rửa tay theo đúng trình tự
sáu bước cho trẻ quan sát, tơi kê bàn ăn mẫu phù hợp theo vị trí của lớp mình và
dạy trẻ cách vệ sinh trong khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không xô đẩy khi vào bàn
ăn, khơng nói chuyện trong khi ăn, biết che miệng khi hắt hơi, biết mời chào, biết
tự cất đồ dùng sau khi ăn và ngủ dậy thông qua một số bức tranh về hành vi đúng
– sai. Sau đó tơi áp dụng vào rèn luyện trẻ như sau:
Tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng trẻ, từng nhóm để cùng nhau thực hiện,
nhóm thì kê bàn, nhóm chia đĩa, chia khăn, chia thìa, chia bát, sau khi ăn song, trẻ
nào cũng được tham gia vào công việc, trước khi bước vào bàn ăn trẻ nghe theo
hiệu lệnh của cô tự xếp vào hàng theo ba tổ, lần lượt thực hiện các bước rửa tay và
lau tay khi rửa song, khi đã thực hiện song các bước rửa tay trẻ tự giác ngồi vào
bàn ăn.
Khi trẻ thực hiện tôi luôn đứng gần quan sát, động viên, khích lệ đối với trẻ
để trẻ tự tin vào bản thân mình là mình có thể làm được việc này mà không cần ai
giúp đỡ. Sau khi trẻ làm tốt công việc, cô giáo không thể thiếu câu khen ngợi trẻ để
trẻ cảm thấy mình đã làm được và trẻ sẽ tự tin hơn trong các lần sau.
Qua hình thức giáo dục này tơi thấy trẻ rất tích cực tham gia hồn thành

cơng việc, khi đến giờ ăn cô không cần nhắc nhở trẻ đã biết nhiệm vụ của mình
phải làm gì? và làm như thế nào? Biết mời chào khi ăn, ăn hết xuất, biết lau miệng
sạch sẽ sau khi ăn, nhiều cha mẹ cũng thấy rất vui vì qua cách rèn luyện của cơ về
nhà trẻ rất thích giúp đỡ gia đình những công việc nhỏ. Với việc rèn luyện kỹ năng
sống tự phục vụ cho trẻ tôi thấy là một việc làm rất có ý nghĩa nó khơng chỉ giảm
tải gánh nặng cho cơ mà cịn là tiền đề để phát triển nhân cách của trẻ sau này.
* Hoạt động nêu gương, tuyên dương và khen thưởng trẻ.
Người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng
với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Người lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi
gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tiếp xúc
với mơi trường xung quanh, bộc lộ, chia sẻ những cảm xúc với người khác bằng
lời nói và hành động cụ thể. Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến
khích những hành vi, lời nói tốt của trẻ, giáo viên cần tuyên dương và khen thưởng


14
trẻ kịp thời.
Ví dụ: Giờ học tạo hình, cơ tun dương những trẻ vẽ đẹp, hoàn thành được
sản phẩm hoặc trong giờ chơi, cô tuyên dương trẻ khi thể hiện tốt vai chơi của
mình.
Giáo viên cần sử dụng các hình thức khen, chê phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ.
Biểu dương trẻ là chính, nhưng khơng lạm dụng. Cần tun dương và khuyến
khích trẻ để trẻ tự hào, tự nhận biết được hành động vừa làm là đúng và tiếp tục
phát huy. Thể hiện thái độ đồng tình hoặc chưa đồng tình của người lớn trước việc
làm, hành vi, cử chỉ của trẻ, Từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét trong từng tình
huống hay hồn cảnh cụ thể. Người lớn khơng sử dụng các hình phạt làm ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm – sinh lí của trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ đánh bạn, cô tỏ thái độ không đồng tình và giải thích cho trẻ
biết là khơng được đánh bạn, đó hành vi sai dạy cháu biết xin lỗi bạn, biết yêu
thương và chơi cùng bạn.

* Kết quả: Đối với trẻ nhỏ thông qua hoạt động hàng ngày để rèn các kỹ
năng cho trẻ và cô giáo biết động viên, khen ngợi trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều vơ
cùng cần thiết. Vì vậy tơi ln chú trọng việc khen ngợi, động viên trẻ kịp thời. Trẻ
lớp tôi không cịn nhút nhát mỗi khi làm một việc gì đó giúp cô, giúp các bạn nữa.
Đây là biện pháp tốt giúp trẻ hình thành những kỹ năng sống tốt nhất.
Giải pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các bài tập tình
huống.
Giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng phịng tránh tai nạn thương tích, phịng ngừa
nguy hiểm cho trẻ thơng qua việc tạo tình huống cụ thể là một cách làm rất hữu
hiệu, để trẻ làm được, biết được những điều nên và không nên và những việc làm
đó khắc sâu hơn vào tâm trí trẻ thì việc tạo tình huống là rất cần thiết. Trước đây
với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ khơng an tồn và cách phịng
tránh thì giáo viên thường nhắc nhở trẻ qua hình thức trị chuyện, dặn dị trẻ thơng
qua các bài thơ, câu chuyện nhưng chúng ta cũng biết trẻ ở độ tuổi này đặc điểm
của trẻ là “nhanh nhớ, dễ quên” vì thế những lời nói khơng hành động sẽ khơng in
sâu vào trí nhớ của trẻ, vì vậy tơi đã nghiên cứu, lựa chọn những tình huống bất
trắc thường sảy ra đưa vào các tình huống cụ thể để dạy trẻ kỹ năng ứng biến, giải
quyết khi gặp phải.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, những tình huống xảy ra mà
khơng phải trẻ nào cũng có thể nhận ra và biết hết về chúng. Bản chất của trẻ nhỏ
là hiếu động, thường xuyên hoạt động với các đối tượng khác nhau, đặc biệt là với
những đối tượng tạo cho trẻ sự hứng thú. Ghi nhớ số điện thoại của bố mẹ hay
người thân để gọi về khi bị lạc, tuyệt đối không đi theo người lạ; không nhận quà
bánh của người lạ vì rất có thể bị bắt cóc...là những kỹ năng mà trẻ cần được trang
bị để đề phòng bất trắc xảy ra. Thơng qua việc đặt các tình huống giả định giúp trẻ
hình thành khả năng nhận biết, phân biệt những tình huống tốt xấu, nguy hiểm mà
trẻ có thể gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó, trẻ có thể tự giải quyết, xử lí
các tình huống phịng tránh tai nạn thương tích bảo vệ bản thân khi trẻ cảm thấy
khơng an tồn.
Ví dụ 1: Tình huống “Không nhận quà bánh của người lạ”

Một cô giáo sẽ mặc trang phục kín, bịt mặt kín, cầm theo gói bim bim và rủ


15
trẻ đi cùng
Tôi sẽ quan sát từng trẻ xem trẻ nào sẽ đi cùng và trẻ nào không đi sau đó tơi
sẽ hỏi trẻ: Vì sao con lại đi? Vì sao con khơng đi?. Tơi sẽ phân tích, giải thích cho
trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
Tuyệt đối không nhận quà và đi theo người lạ dù món q đó chúng ta rất
thích vì có thể bị người xấu cho ăn thuốc mê, thuốc độc và trúng âm mưu của kẻ
xấu và có thể bị bắt cóc. Khi gặp trường hợp này các con nên nói: Cháu cảm ơn
nhưng bố mẹ dặn cháu không được nhận quà của người lạ ạ”
Từ những tình huống cụ thể này trẻ sẽ khắc sâu được nếu đi theo người lạ trẻ
sẽ không bao giờ được thấy, được gần người thân của mình nữa từ đó trẻ sẽ có
được kỹ năng sống cho bản thân.

Hình ảnh: Khi người lạ vào cho trẻ q

Ví dụ 2: Tình huống “Phịng chống tai nạn khi thấy khói và cháy”
Cháy nổ là tai nạn hiếm khi xảy ra trong trường mầm non nhưng hậu quả để
lại rất nặng nề nếu cô và trẻ không có kỹ năng xử lí. Nếu trẻ khơng biết các dấu
hiệu nhận biết có cháy để phịng tránh, trẻ rất dễ bị ngạt hay bỏng.
* Chuẩn bị:
+ Hình ảnh và đoạn phim về hỏa hoạn.
+ Tiếng còi báo cháy.
+ Khăn ẩm cho trẻ.
* Tiến hành
Hoạt động 1: Cung cấp kỹ năng:
- Cơ đưa ra câu hỏi: “Khi thấy khói hay cháy con sẽ làm thế nào”
- Cho trẻ thảo luận.

- Cho trẻ xem 1 số hình ảnh và đoạn phim thực tế về hỏa hoạn...
- Cô giới thiệu các cách giải quyết nên làm khi trẻ gặp tình huống đó: Khi nghe
tiếng cịi báo cháy, trước hết, tìm ngay khăn (mảnh vải) thấm nước, chạy ra khỏi
đám khói (cháy) theo hướng thốt hiểm để ra ngồi. Sau đó hét to để báo cho mọi
người biết.
Hoạt động 2: Cho trẻ thực hành:
+ Trẻ đang ngồi học, bất ngờ có tiếng “Báo cháy”, cô và trẻ thực hành đúng như


16
cách giải quyết cô vừa nêu.
+ Bài học: Khi thấy có khói hoặc cháy, trước hết phải lấy khăn ẩm bịt mũi chạy
khỏi chỗ có khói, cháy hét to để báo cho mọi người. hoặc nếu khơng có khăn thì
lấy tay áo che lấy mũi.

Hình ảnh : Minh hoạ khi có khói hoặc cháy

Ví dụ 3: Tình huống “Phịng tránh bị ngã và kỹ năng sử lý”
* Chuẩn bị
- Một số tranh ảnh các tình huống trẻ bị ngã.
* Tiến hành
- Cho trẻ xem tranh một số tình huống các bạn bị ngã: Chạy nhảy, va đầu vào nhau,
trèo leo...
- Cô đưa ra câu hỏi: Nếu con bị ngã đau, chảy máu, con sẽ làm gì?
- Cơ cho trẻ thảo luận
- Cô nêu cách giải quyết tốt nhất: Khi đang chơi và bị ngã đau, chảy máu trẻ phải
bình tĩnh, khơng được khóc, nhờ bạn gọi cơ giáo giúp đỡ hoặc đến phòng y tế để
nhờ giúp đỡ, hoặc nhớ các số điện thoại cần thiết khi gặp nguy hiểm: 114, 115,
113, số điện thoại của người thân trong gia đình (bố, mẹ ).
* Giáo dục:

- Khơng được chạy nhảy để dẫn đến ngã và va chạm nhau sẽ gây tai nạn.
- Cần bình tĩnh để xử lí, báo cho cô giáo hoặc gọi điện thoại nhờ hỗ trợ
Qua biện pháp này tơi thấy trẻ đã biết phịng tránh những nơi nguy hiểm…
không nhận quà và đi theo người lạ, khi gia đình trẻ bận cơng việc phải nhờ hàng
xóm đi đón nếu khơng nhìn thấy mặt trẻ sẽ khơng dám chạy ra về cùng, thông qua
hoạt động này cũng giúp trẻ có sự tư duy logic, biết cách diễn đạt suy nghĩ của
mình và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
Giải pháp 5: Giáo dục kỹ năng sống qua việc tham gia các hoạt động ngày
hội ngày lễ:
Các ngày hội, ngày lễ ở trường mầm non bao gồm: Ngày hội đến trường của
bé, đêm hội trăng rằm, ngày tết nguyên đán, hội thi bé khoẻ - bé ngoan, bé tài
năng… Thông qua các ngày hội, ngày lễ rèn cho trẻ các kỹ năng như: Kỹ năng
giao tiếp, chào hỏi; kỹ năng tự lập, tự phục vụ; kỹ năng hợp tác hoạt động cùng
nhóm; kỹ năng tự tin…Trong ngày hội này tất cả các trẻ được tham gia vào các


17
hoạt động một cách tích cực, hào hứng, sơi nổi. Qua đó thúc đẩy các hoạt động tập
thể, gây khơng khí náo nức cho trẻ vì trẻ được tham gia biểu diễn, trẻ được thi tài
cùng các bạn, được biểu diễn ở tại lớp mình cho các lớp khác xem. Trong quá trình
hoạt động tập thể như vậy sẽ phát triển ở trẻ tính linh hoạt, mạnh dạn, tự tin hơn,
tinh thần tập thể, tính kỷ luật. Nhờ có tính kỷ luật trẻ sẽ phịng tránh được một số
tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Trong ngày hội đến trường của bé: Trẻ mạnh dạn phối hợp với các
bạn biểu diễn các tiết mục văn nghệ. Qua đó giúp trẻ cảm thụ nghệ thuật, tự tin
trước đám đông, nêu cao tinh thần tập thể.
Hay trong hội thi “Bé khỏe bé tài năng” trẻ sẽ tự tin tham gia các hoạt
động, thể hiện bản thân qua sự khéo léo vượt qua chướng ngại vật, hoàn thành yêu
cầu của hội thi….
Ví dụ: Ngày tết nguyên đán tổ chức theo “Lễ hội mừng xuân”

Cô giáo và các bạn cùng tham gia chuẩn bị lễ hội: Trang trí lớp học, khu vực
sân khấu, bày mâm ngủ quả, trang trí cây đào, treo đèn lồng, cắm hoa…giúp trẻ
cảm nhận được khơng khí vui tươi, phấn khởi khi ngày tết cổ truyền đang đến gần.
Tập cho trẻ các tiết mục văn nghệ có nội dung về chủ đề “ Tết và mùa xuân” để
chào đón lễ hội.
Tổ chức cho trẻ trải nghiệm gói bánh trưng: Giúp cơ giáo lau lá, tước lạt…trẻ
tự gói những chiếc bánh theo hướng dẫn của cô. Hay cho trẻ tham gia làm bánh
trôi: Nhào bột, nặn bánh, luộc bánh…thưởng thức các món bánh do trẻ làm ra.

Ảnh họa: Trẻ đang tham gia các hoạt động ngày hội ngày lễ
Qua mỗi hoạt động ngày lễ, ngày hội, trẻ được giáo dục, rèn luyện kỹ năng
tự tin, kỹ năng sử lý tình huống khi hoạt động nhóm, hoạt động tập thể, kỹ năng
hợp tác cùng bạn bè và cô giáo…
Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc trao đổi, hướng dẫn nội
dung và cách rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trường cũng như ở nhà.
Việc phối hợp với phụ huynh trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng cần
thiết. Ban đầu tôi rất lo lắng rằng cô giáo - nhà trường và gia đình có thống nhất
được các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở nhà cũng như ở trường khơng.
Băn khoăn, trăn trở cuối cùng tơi cũng đã tìm ra được giải pháp hữu hiệu để phối
hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Hàng ngày tôi trao đổi với phụ huynh về kết quả học tập, kỹ năng sống cũng
như sức khoẻ của trẻ ở lớp qua giờ đón và trả trẻ.
Ví dụ: Ngày 6/10/2020 Mẹ cháu "Dương phương Vy" rất vui vẻ khi vào lớp đón


18
cháu. Mẹ đã cẩn thận hỏi thăm tình trạng sức khỏe và tình hình học tập của cháu.
Lúc này tơi thơng báo lại tình hình của cháu trên lớp cho phụ huynh nắm rõ: cháu
khỏe mạnh, ăn hết xuất, ăn ngon miệng, và rất tích cực trong các hoạt động trong
ngày. Ở nhà trẻ được chơi một cách thoải mái, tự do nhiều việc làm của trẻ khiến

cha mẹ không hài lòng, dễ dấn đến cáu gắt, quát mắng và ngăn cấm trẻ hoạt động.
Vậy trước tình trạng này tơi luôn tuyên truyền để cha mẹ trẻ hiểu và không nên bực
bội khi trẻ ở nhà. Cha mẹ cần cho trẻ được chơi, hoặc cùng tham gia công việc
giúp bố mẹ dọn dẹp nhà cửa hay phụ giúp nấu cơm (Ví dụ: Bé có thể cùng mẹ nhặt
rau, qt dọn nhà cửa, gấp chăn màn quần áo...) Tạo điều kiện để trẻ được trải
nghiệm với người thân tại gia đình mình.
Ví dụ : Con đang tự tay đi giày nhưng mãi chưa đi được, hay con đang mặc
quần áo nhưng mãi chưa mặc được…. thì bố mẹ nên hướng dẫn cho con cách đi,
cách mặc khơng nên nóng vội làm thay cho con.
Chẳng hạn khi mẹ đi làm về hãy nhờ trẻ cất giúp mẹ cái mũ, rót cho mẹ cốc
nước và mời mẹ uống….
Những hành động này nên khuyến khích trẻ thường xuyên hãy khen gợi trẻ,
trẻ sẽ vui mừng hơn khi được cha mẹ khen trẻ ngoan, giỏi điều này sẽ khuyến
khích những hành động tốt của trẻ trở thành thói quen, hình thành tính cách cho trẻ
sau này.
Sau mỗi việc làm của trẻ ta thường bỏ quên hay vơ tình khơng để ý đến việc
khen ngợi động viên trẻ, hoặc cũng có thể sẽ phê bình trẻ ngay lúc đó, vơ hình
chúng ta đã dập tắt đi sự tự tin của trẻ.Vì thế mỗi khi trẻ làm được việc gì đó cái trẻ
chờ đợi đó là lời khen sự động viên. Do vậy sau mỗi một việc làm tốt của trẻ tôi
luôn nhắc phụ huynh nên khen ngợi và động viên trẻ để khuyến khích sự húng thú
của trẻ cũng như khích lệ thêm lịng tự tin vào bản thân của trẻ.
Kết quả:
- Một số phụ huynh trước đây có sự giáo dục chưa đúng đắn, chưa khoa học,
không cho con làm những việc mà giáo viên giao cho trẻ thực hiện khi về nhà nay
đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệt tình phối hợp và rất yên tâm khi đưa con
đến lớp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của
tập thể nhà trường, sự ủng hộ của tích cực của các bậc phụ huynh đã giúp tôi đạt
được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện

ở các kết quả như sau:
* Đối với giáo viên, nhà trường:
- Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó có các phương pháp để giáo dục trẻ
tốt hơn.
- Giáo viên cần chuẩn bị tốt không gian và đồ dùng, đồ chơi cho trẻ được hoạt động.
- Tạo mọi điều kiện để trẻ phát huy được những kỹ năng sống, cô giáo là người gợi
mở và hướng dẫn trẻ để trẻ tìm tịi khám phá và phát huy hết khả năng của trẻ.
Trong quá trình giáo dục trẻ giáo viên cần chú ý phải thực hiện từ đơn giản đến
phức tạp, từ dễ đến khó.
* Đối với trẻ:


19
- 100% trẻ đều được cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tị mị,
phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, trẻ được rèn khả năng sẵn
sàng học tập ở trường hiệu quả ngày càng cao.
- Trên 80% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, kỹ
năng nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tĩnh thông qua hoạt động hàng
ngày trong cuộc sống của trẻ.
- Trên 90% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được đảm bảo an tồn phịng bệnh.
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 90% trở lên ít gặp khó khăn khi
đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ.
Từ việc nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự gúp đỡ của nhà trường
và phụ huynh tôi mạnh dạn áp dụng kinh nghiệm trên để nâng cao chất lượng giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé C4, lớp mà tôi chủ nhiệm do đó đã đạt được
kết quả như sau:
Thời điểm khảo sát hồn thành sáng kiến kinh nghiệm tơi tiến hành khảo sát
về kỹ năng sống lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi C4 (lớp thực nghiệm áp dụng các giải pháp
trên) và lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi C1 (lớp đối chứng không áp dụng các giải pháp

trên), trong năm học 2020-2021 cho ta thấy kết quả khảo sát chất lượng trẻ về kỹ
năng sống đã chứng minh được tính khả thi của đề tài.
Kết quả khảo sát chất lượng trẻ tháng 3 năm 2021
T
T

Kỹ năng tự phục vụ

35

Sau khi áp dụng giải pháp
Lớp mẫu giáo C4
Lớp mẫu giáo C1
TS
Đạt Tỉ Chư Tỉ lệ
Đạt Tỉ Chư Tỉ lệ
trẻ
lệ
a
%
lệ
a
%
% đạt
% đạt
40
32 91 3
9
25 16 60 9


Kỹ năng tự bảo vệ

35

30

86

5

14

25

15

56

10

44

Kỹ năng hợp tác

35

31

89


4

11

25

15

56

10

44

Kỹ năng trong giao tiếp, 35
ứng sử văn minh

30

86

5

14

25

16

60


10

40

35

32

91

3

9

25

16

60

8

40

Kỹ năng cảm nhận và thể 35
hiện cảm xúc

30


86

5

14

25

15

56

10

44

Tiêu chí
1
2
3
4

5
6

Kỹ năng vệ sinh

TS
trẻ


Qua bảng so sánh cho ta thấy kết quả khảo sát khi chưa thực hiện giải pháp
và bảng sau khi thực hiện giải pháp tôi thấy chất lượng khi áp dụng giải pháp được
nâng lên rõ rệt tỷ lệ trẻ đạt cao chiếm ở các mức độ đạt. Nhóm kỹ năng tự phụ vụ ở
đầu năm chỉ có 15 trẻ đạt chiếm 43% đến cuối năm tăng lên 32 trẻ đạt chiếm 91%
cịn các nhóm kỹ năng khác số trẻ đạt chiếm tỉ lệ cao 86-> 91% số trẻ chưa đạt chỉ


20
chiếm một con số nhỏ là 9% -> 14%. Lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi C1 ( Lớp đối chứng
không áp dụng các giải pháp trên) thì các kỹ năng sống cho trẻ số trẻ đạt chỉ tăng
nhẹ chiếm tỉ lệ 56% -> 60%, số trẻ chưa đạt vẫn chiếm tỉ lệ khá cao 40% ->44.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành cơng
trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý các tình
huống linh hoạt trong cuộc sống một cách tốt nhất, hợp lý nhất.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương khuyến khích những hành vi, lời
nói của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cơ giáo, những người lớn cần nhẹ nhàng, khéo léo
khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ thấp khả năng của trẻ, không dọa
nạt hay bắt trẻ làm nhũng việc quá sức của trẻ. Người lớn không quá nuông chiều,
bao bọc trẻ thái. Khuyến khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ chia
sẻ với những người khác bằng những lời nói và hành động cụ thể.
Đây là những kỹ năng hết sức quan trọng để khi lớn trẻ có đủ tự tin, bản lĩnh
trong cuộc sống nhằm giúp trẻ hình thành tính tự lập và khả năng tự chăm lo cho
mình, khơng bị phụ thuộc vào bố mẹ ngay từ nhỏ chúng ta có thể làm tất cả mọi
thứ mà bản thân chúng có thể. Vì vậy cần có phương pháp dạy học phù hợp với độ
tuổi và nhận thức của trẻ để trẻ có thể tiếp thu và học cách sống tự lập tốt hơn.
3.2 Kiến nghị
Đối với bản thân giáo viên: Không ngừng học hỏi, trao đổi với các bạn bè đồng

nghiệp, nghiên cứa sâu hơn các tài liệu về kỹ năng sống cho trẻ mầm non để đạt
hiệu quả cao hơn.
Đối với nhà trường: Trang bị tài liệu về kỹ năng sống cho giáo viên nghiên cứu.
Đối với phòng giáo dục: Tăng cường tổ chức thêm các buổi bồi dưỡng về kỹ
năng sống cho giáo viên mầm non học tập thêm kinh nghiệm.
Do còn thiếu các tài liệu hướng dẫn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 3- 4 tuổi lớp C4 nói riêng và trẻ mẫu giáo nói chung. Do vậy sáng kiến
kinh nghiệm còn nhiều hạn chế. Rất mong được các cấp lãnh đạo cùng bạn bè,
đồng nghiệp, góp ý để bản sáng kiến của tơi thật sự có hiệu quả.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng

Lương Trung, ngày 17 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến


21
Hà Thị Son

Dương Thị Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tô Thị ÁnhVà Nguyễn Thị Bích Hồng.Tâm lý học lứa tuổi (NXB giáo dục năm
1991)
2. Nguyễn Thanh Bình(2007): Giáo trình kỹ năng sống. NXB Đại Học Sư Phạm
Hà Nội.

3.Bộ giáo dục và Đào Tạo- Vụ giáo viên mầm non. (1998) . Đổi mới công tác rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm trong đào tạo giáo viên mầm non.
4.Bộ giáo dục và Đào Tạo(2010) . Chương trình giáo dục mầm non. NXB giáo dục
mầm non.
5. Lê Bích Ngọc (2009) Giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi mẫu Giáo. NXB giáo
dục.
6.Nguyễn Xuân Thức( Chủ biên-2007) Tâm lý học đại cương.NXB Đại học Sư
Phạm Hà Nội.
7.Nguyễn Ngọc Châm(2002) . Tuyển tập các trò chơi phát triển cho trẻ mẫu giáo.
NXB Hà Nội.
8. Nguyễn Quang Uẩn.(2008) . Khái niệm kỹ năng sống xét theo góc độ tâm lý học.
Tạp chí tâm lý học số 6. Số 6-2008.
9. TovaNavarra(2008) . Học cách sống tự lập. NXB Hồng Đức.
10. Liêm trinh.(2007). Dạy con kỹ năng sống.NXB phụ nữ.
11. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên: Module MN19: Giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo. Tác giả


22

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Dương Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Lương Trung
Cấp đánh
giá xếp loại
TT


Tên đề tài SKKN

1

Hướng dẫn kỹ năng xé dán theo
đề tài cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Một số kinh nghiệm giúp trẻ 5,6
tuổi hoạt động làm quen với tác
phẩm văn học.
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng thông qua hoạt động tạo
hình cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
MN Lương Trung.
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
làm quen với tác phẩm văn học
trường mầm non Lương Trung.

2
3

4

(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá

xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

(A, B,
hoặc C)

Cấp tỉnh

C

2008-2009

Cấp huyện

C

2012-2013

Cấp tỉnh

C

2014-2015

Cấp huyện

C


2017-2018



×