Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN một số giải pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng lồng ghép giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ lứa tuổi 5 6 tuổi tại trường mầm non nga bạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.24 KB, 27 trang )

0

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG LỒNG GHÉP GIÁO DỤC KỸ NĂNG
TỰ BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ MẪU GIÁO 5- 6 TUỔI
TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA BẠCH, HUYỆN NGA SƠN,
TỈNH THANH HĨA

Người thực hiện: Hồng Thị Lương
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị cơng tác: Trường Mầm non Nga Bạch, Nga Sơn
SKKN lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA, NĂM 2021


1

MỤC LỤC

1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Chỉ đạo giáo viên xây dựng mơi trường hoạt động
tích cực, an tồn.
Giải pháp 2: Bồi dưỡng phương pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
bản thân của trẻ cho giáo viên.
Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên xây dựng nội dung giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ theo hướng tích hợp với các hoạt
động học có chủ đích.
Giải pháp 4: Chỉ đạo giáo viên sử dụng tình huống bất ngờ để
giáo dục trẻ có kỹ năng ứng phó, tự bảo vệ mình trước các vấn đề
nguy hiểm có thể xảy ra.
Giải pháp 5: Chỉ đạo giáo viên thường xuyên sử dụng trị chơi
để kích thích trẻ tích cực tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ bản thân.
Giải pháp 6: Chỉ đạo giáo viên luôn tạo cơ hội để trẻ được tương
tác, được trải nghiêm.
Giải pháp 7: Chỉ đạo giáo viên rèn kỹ năng tự bảo vệ bản thân
cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Giải pháp 8: Chỉ đạo giáo viên thường xuyên phối hợp với gia
đình trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiên kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục của bản thân, đồng nghiệp và trẻ trong nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:

Trang
1
1
2
2
2
2
4
5
5
7
7
10
13
15
16
17
18
19
19
19
21


2

Kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết cho hành vi đẹp, lành mạnh, là

chiếc chìa khóa vàng cho sự sống cịn, sự phát triển và sự thành cơng của mỗi con
người. Có thể nói “Kỹ năng sống chính là phương tiện khơng thể thiếu để giúp trẻ
tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách” [1].
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là dạy những thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong
giao tiếp và ứng xử trẻ với con người và sự vật xung quanh trẻ. Đó cũng là những
cảm nhận, những cảm xúc của con người trước sự thay đổi của môi trường xung
quanh.
Ngày nay, xã hội thời hiện đại đang mang đến cho cuộc sống con người
nhiều tiện ích, sự thoải mái về tinh thần cũng như vật chất, nhưng cũng tiềm ẩn
nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với trẻ em. Điều này đòi hỏi mỗi trẻ đều
phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ chính bản thân mình. Xu
hướng giáo dục của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang quan tâm đến
vấn đề giáo dục và trang bị cho thế hệ trẻ các kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp,
ứng xử để giải quyết vấn đề trong quan hệ xã hội, để tự bảo vệ mình, đồng thời
hướng đến mơi trường giáo dục sự hịa hợp, hợp tác thân thiện cho trẻ em trên
cơ sở các giá trị sống của mỗi con người. Theo quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF) - là tổ chức có nhiều nghiên cứu sâu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn
tại và phát triển của cá nhân phân loại kỹ năng sống thành ba nhóm cơ bản, và
kỹ năng tự bảo vệ là một trong những kỹ năng thuộc nhóm một - gồm kỹ năng
nhận thức và sống với chính mình. [2] (Theo quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF) - Cách mạng về sự sống cịn và phát triển của trẻ em).
Vì vậy, xét dưới góc độ tồn tại và phát triển của cá nhân thì kỹ năng tự bảo
vệ là kỹ năng rất cần thiết và quan trọng cho mỗi con người chúng ta. Việc trang
bị cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có thể an tồn hơn và tự
tin hơn để khám phá cuộc sống muôn màu một cách tự tin hơn.
Theo thống kê gần đây nhất trong bản báo cáo tổng hợp về phòng chống
tai nạn thương tích trẻ em Việt Nam cho thấy bỏng, ngã, ngộ độc, động vật cắn,
tai nạn giao thông, ngạt, đuối nước, điện giật... là những nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong cho trung bình 8.000 trẻ em Việt Nam mỗi năm. Xã hội càng hiện
đại càng tiềm ẩn nhiều mối nguy cơ. Cha mẹ thường sợ hãi, lo lắng, tìm cách

nghiêm cấm con tiếp xúc với các rủi ro nhưng lại qn giải thích cho trẻ lý do vì
sao và hậu quả có thể xảy ra là gì. Điều này khiến trẻ với tâm lý muốn khám phá
lại càng tị mị hơn.
Với thực tế hiện nay tình trạng trẻ em thụ động khơng biết ứng phó trong
những hồn cảnh nguy cấp, không biết cách bảo vệ bản thân trước các tình
huống nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ… để lại những hậu quả thật thương tâm
và đáng tiếc ngày càng nhiều trong xã hội.Trong đó: Xâm hại tình dục: 6.432 trẻ
em, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại; Bạo lực trẻ em: 857 trẻ em (giết
trẻ em: 191 trẻ, cố ý gây thương tích: 666 trẻ), chiếm 9,84% tổng số trẻ em bị
xâm hại; Mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt trẻ em: 106 trẻ em, chiếm 1,22% tổng số
trẻ em bị xâm hại...


3

Thực tế này khiến cho xã hội, các nhà tâm lý giáo dục, đặc biệt là bậc học
giáo dục mầm non phải suy nghĩ. Bên cạnh đó, thực trạng giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ trong trường mầm non chưa được khái quát thành bức
tranh toàn cảnh và chưa có biện pháp cụ thể để giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân
cho trẻ mầm non.
Từ việc nhận thức vai trò to lớn của việc giáo dục hình thành kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ mầm non. Bản thân tôi là cán bộ quản lý tôi đã rất trăn
trở suy nghĩ làm thế nào để hình thành kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ một
cách hiệu quả nhất. Xuất phát từ lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số
giải pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng lồng ghép giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ bản thân cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi tại trường Mầm non Nga Bạch,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa” để trao đổi cùng với bạn bè đồng nghiệp về
các giải pháp chỉ đạo của mình nhằm góp phần tạo hành trang cho trẻ tự tin
bước vào môi trường của cuộc sống ngay từ tuổi thơ ấu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Tìm ra các giải pháp hữu hiệu và phù hợp nhất để lồng ghép các kỹ năng
tự bảo vệ bản thân cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi vào các hoạt động giáo dục và các
hoạt động hàng ngày của trẻ trong trường Mầm non Nga Bạch, huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này tơi xác định đối tượng nghiên cứu trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong trường mầm non Nga Bạch, huyện Nga Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Ở đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Đọc phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau có liên quan đến đề
tài: Sách, báo, trang web, tạp chí
- Phương pháp khảo sát điều tra thực tế:
Sử dụng phương pháp điều tra, quan sát, phỏng vấn đến đối tượng học
- Phương pháp thống kê:
Tổng hợp số liệu điều tra thực tiễn.
- Phương pháp thực hành:
Tổ chức tiết học tự bảo vệ bản thân cho trẻ tại các lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi
tại trường mầm non Nga Bạch, Huyện Nga Sơn.
- Phương pháp tổng kết đúc rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta thấy rằng kỹ năng tự bảo vệ là khả năng con người vận dụng
những kiến thức để nhận diện đồng thời biết cách ứng phó được trước các tình
huống bất lợi, những hồn cảnh nguy hiểm có thể xảy đến để bản thân được an
tồn. Trong những năm gần đây, kỹ năng tự bảo vệ là một trong những thuật ngữ
được nhắc đến nhiều trong các câu chuyện giáo dục. Với ý nghĩa quan trọng và


4


cần thiết cho mọi người, đặc biệt là trẻ em nó trở thành một vấn đề được cả
ngành giáo dục và toàn xã hội quan tâm.
Ở lứa tuổi mẫu giáo nói chung và trẻ 5 – 6 nói riêng tuổi sự nhận thức và
q trình lĩnh hội, tích lũy kinh nghiệm, biểu tượng, vốn sống của trẻ đã khá
phong phú. Điều đó giúp trẻ có những nhận biết cơ bản về một số vật khơng an
tồn, những nơi nguy hiểm, một số tình huống khó khăn và có cách ứng phó,
bảo vệ bản thân. Tuy nhiên, kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ còn nhiều hạn
chế.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những
yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào
tạo ra những con người “Phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức”[3]. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là cốt
lõi của nền tảng giáo dục, nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ
luôn được đặt lên hàng đầu.
Trẻ lứa tuổi mầm non là lứa tuổi đang hình thành và phát triển về mọi mặt,
đặc biệt với trẻ 5- 6 tuổi, nhận thức cũng như về mặt giao tiếp, khả năng làm
việc theo nhóm và ý thức tự biết tham gia vào các hoạt động cùng với các bạn
trong lớp còn nhiều hạn chế. Do sự phát triển nền kinh tế thị trường nhiều gia
đình khơng có thời gian để trị chuyện vui chơi cùng con hoặc hạn chế việc tiếp
xúc của con với mọi người xung quanh dẫn đến một số trẻ bị tự kỷ, thiếu tự tin,
không mạnh dạn khi tham gia các hoạt động cùng các bạn trong lớp và trẻ có
thể cịn chưa tự mình làm một số việc đơn giản như tự thay quần áo, đánh răng,
rửa mặt....Vì vậy, “Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ, trong đó giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân đang trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết trong hệ thống giáo
dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng”. [4]
Từ những cơ sở lý luận trên là cán bộ quản lý phụ trách chỉ đạo chuyên
môn, tôi ln băn khoăn trăn trở tìm tịi các giải pháp mới nhằm chỉ đạo giáo
viên dạy khối 5- 6 tuổi, nâng cao chất lượng lồng nghép giáo dục kỹ năng tự bảo
vệ bản thân cho trẻ.

Giáo viên dạy trẻ các kiến thức về vệ sinh, an toàn, hành vi, văn hóa trong
sinh hoạt, dạy trẻ nói, hát, múa...đồng thời, dạy trẻ trong các trò chơi, trong các
cuộc đi dạo, tham quan. Các hình thức trên đây của trẻ tại trường mầm non là rất
cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, các hình thức đó rất phân tán, kiến thức mà
trẻ lĩnh hội được rời rạc và khơng có hệ thống. Bởi vậy, hình thức dạy học trong
“tiết học”- hay cịn gọi là “giờ học” vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát
triển trí tuệ, kỹ năng của trẻ.
Như vậy, giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ có thể tiến hành dưới
nhiều hình thức phong phú. Mỗi hình thức có ưu thế riêng đối với việc dạy kỹ
năng tự bảo vệ cho trẻ. Để hình thành cho trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân thì cần
phải có thời gian, cần có q trình luyện tập thường xuyên với sự hỗ trợ, tương
tác của người lớn và bạn bè. Trong q trình giáo dục đó, giáo viên và cha mẹ
trẻ đóng vai trị là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng của mình từ đó phát


5

triển những ứng xử tích cực. Đây là hình thức giáo giúp trẻ phát triển tốt khả
năng tư duy, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, nâng cao sự tự tin trong cuộc sống.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1.Thuận lợi:
* Về cơ sở vật chất:
Trường Mầm non Nga Bạch, năm học 2020 – 2021 đã xây dựng đầy đủ
các phòng học kiên cố, tuy chưa đạt chuẩn nhưng nhìn chung về cơ sở vật chất
các phòng học, trang thiết bị khang trang, đầy đủ, với môi trường xanh - sạch đẹp, đáp ứng cho yêu cầu dạy và học của nhà trường.
* Đội ngũ cán bộ giáo viên:
Đối với đội ngũ CBQL- giáo viên: Nhà trường có đội ngũ CBQL-GV
khoẻ, trẻ, trình độ đạt trên chuẩn 100%, có năng lực chun mơn vững, nhiệt
tình và trách nhiệm với cơng việc, hết lịng yêu thương trẻ.
* Đối với học sinh: Các cháu đến trường được học đúng theo từng độ tuổi,

riêng từng nhóm, lớp, trong đó trẻ 4- 5 tuổi ra lớp đạt 100%. Trẻ được ăn bán
trú tại trường đạt 100%.
* Phụ huynh: Đời sống dân trí ngày càng được nâng cao, các gia đình rất
quan tâm đến việc đến trường, bên cạch đó được các bậc phụ huynh đặc biệt
quan tâm đến vấn đề “Chăm sóc giáo dục trẻ tại trường”
2.2.2. Khó khăn
Ban giám hiệu cũng như giáo viên chưa được tập huấn về nội dung,
phương pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
*Về cơ sở vật chất của trường: Nhà trường chưa đạt chuẩn còn thiếu một
số phòng chức năng.
+ Trang thiết bị phục vụ cho giáo dục lồng ghép giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
vào các hoạt động trong ngày của trẻ còn nhiều thiếu thốn, hệ thống tài liệu,
tranh ảnh, trang thiết bị hiện đại chưa có.
* Giáo viên: Số lượng giáo viên cịn thiếu so với quy định, số lượng trẻ
đơng hơn so với tiêu chuẩn nên giáo viên phải làm việc quá tải, gây sức ép tâm
lý cho giáo viên. Nhiều giáo viên chưa coi trọng việc lồng ghép giáo dục cho trẻ
những kiến thức sơ đẳng về kỹ năng tự bảo vệ.
+ Các biện pháp sử dụng để giao lưu giữa giáo viên với trẻ còn đơn điệu.
Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ chưa được đặt ra như một yêu cầu
bắt buộc trong chương trình giáo dục mầm non.
Thời gian dành cho việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ trong
chương trình cịn ít, hầu hết các cơ đều lồng ghép vào trong các hoạt động hàng
ngày của trẻ. Chính những khó khăn trên là nguyên nhân ảnh hưởng đến thực
trạng, biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ của nhà trường
hiện nay.
* Học sinh: Năm học 2020 -2021, nhà trường có tỷ lệ học sinh ra lớp khá
đông: 415 cháu.
* Phụ huynh: Đa số phụ huynh làm nghề nơng, đi biển và cơng nhân nên
cịn hạn chế về thời gian dành cho con cũng như về nhận thức tầm quan trọng



6

giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi ở gia đình và chưa đảm bảo an tồn cho trẻ
khi ở nhà.
2.2.3. Kết quả thực trạng:
(Ở phục lục 1)
Từ kết quả khảo sát thực trạng, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao kiến
thức, kỹ năng về giới cho giáo viên; để họ lồng ghép giới vào các hoạt động
chăm sóc- ni dưỡng – giáo dục trẻ ở trường. Từ đó giúp trẻ có những kiến
thức, kỹ năng ban đầu về giới để xử lý một cách đúng đắn các tình huống xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì thế đề tài nghiên cứu đã đưa ra một số giải
pháp nhằm cung cấp kiến thức, nâng cao kỹ năng lồng ghép, tích hợp vào giáo
dục trẻ 5 - 6 tuổi cho giáo viên tại trường Mầm non Nga Bạch, Nga Sơn.
2.3. Các giải pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu:
Sau khi tìm hiểu nghiên cứu kỹ thực trạng của đơn vị nhà trường cùng với
kết quả khảo sát mức độ của giáo viên và trẻ trong trường tôi đã mạnh dạn đưa
ra một số giải pháp chỉ đạo cơ bản như sau:
2.3.1. Giải pháp 1. Chỉ đạo giáo viên xây dựng mơi trường hoạt động
tích cực, an tồn.
Việc chỉ đạo cho giáo viên tạo mơi trường tổ chức các hoạt động cho trẻ
địi hỏi phải có một không gian đa dạng, mới lạ và bầu không khí thân thiện, cởi
mở...có như vậy mới kích thích hứng thú chơi của trẻ và thúc đẩy rèn luyện kỹ
năng theo khả năng của mình.
Giáo viên tạo mơi trường hoạt động là tạo nên một khơng gian chơi rộng
rãi, thống mát với các đồ dùng, đồ chơi đa dạng, phong phú, mới lạ, hấp dẫn
cũng như tạo bầu khơng khí thân thiện, bình đẳng là một việc làm quan trọng
trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng. Đặc biệt là trong các trị chơi
phân vai, mơ phỏng lại các tình huống trong cuộc sống thì việc có các đồ dùng
phù hợp để trẻ có thể thao tác sẽ hỗ trợ việc giáo dục kỹ năng phù hợp.

Khi giáo viên tổ chức môi trường hoạt động gợi mở, hấp dẫn phù hợp với
sự phát triển của trẻ. Những góc chơi được sắp xếp hợp lý, thuận tiện sẽ kích
thích trẻ tích cực thể hiện, tích cực trải nghiệm các kỹ năng. Việc tạo môi trường
giáo dục cho trẻ hoạt động có tác dụng hỗ trợ sự lựa chọn các hoạt động của trẻ,
tạo điều kiện cho hoạt động của cơ và trẻ đa dạng, hấp dẫn.
Bên cạnh đó môi trường tâm lý cởi mở, quan hệ giữa cô và trẻ thân thiện,
sự khuyến khích có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong việc kích thích tạo hứng thú và
tính tích cực của trẻ trong khi tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng, nó sẽ
tạo cho trẻ nảy sinh ý tưởng chơi, dự định chơi, tái tạo và phản ánh hiện thực
xung quanh trẻ.
Tôi chỉ đạo giáo viên tạo môi trường vật chất và môi trường xã hội, mơi
trường bên trong và bên ngồi lớp học phong phú, đa dạng, lành mạnh, thân
thiện, ấm cúng để trẻ cảm thấy an tồn khi hoạt động.
- Tạo mơi trường vật chất thuận lợi, đảm bảo an toàn cho trẻ.
Để có mơi trường vật chất thuận lợi cho hoạt động của trẻ, trước hết giáo
viên cần chuẩn bị không gian chơi cho trẻ bằng việc tạo ra các góc chơi, khu vực


7

chơi để trẻ tham gia vào hoạt động chơi. Giáo viên lựa chọn vị trí để tổ chức
hoạt động đảm bảo rộng rãi, thống mát, thuận tiện, an tồn, vệ sinh phù hợp với
các hoạt động. Đặc biệt trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ,
chúng ta có thể tận dụng các góc chơi để mơ phỏng các tình huống, cho trẻ dễ
dàng tham gia.
Ở mỗi kỹ năng khác nhau, tôi chỉ đạo giáo viên tận dụng các góc chơi khác
nhau và thay đổi cách trang trí làm cho các góc này sinh động và phù hợp với nội
dung hoạt động. Luôn luôn đảm bảo cho trẻ có một khơng gian hoạt động tự do,
thoải mái, có như vậy mới kích thích trẻ bộc lộ và rèn luyện các kỹ năng.
Việc sắp xếp đồ dùng, đồ chơi và không gian hoạt động cần dễ dàng quan

sát, di chuyển, khuyến khích trẻ cùng hoạt động, giao tiếp, liên kết các nhóm
chơi, tạo điều kiện cho trẻ bộc lộ các kỹ năng. Việc sắp xếp này cũng cần phải
bố trí các nhóm hoạt động tĩnh, động và đủ khoảng cách giữa các nhóm.
Việc bố trí các đồ dùng, đồ chơi vào các góc chơi cần phải đa dạng và
mang tính mở, xuất phát từ vốn kinh nghiệm của trẻ. Từ đó tơi chỉ đạo giáo viên
bổ sung, luân chuyển và đổi mới tạo cho trẻ sự mới lạ, hấp dẫn, kích thích trẻ
hoạt động một cách tích cực.
Ví dụ: Ở lớp 5-6 tuổi giáo viên Hồng Thị Thùy
Chủ đề: Gia đình. Việc xây dựng mơi trường và xắp xếp góc chơi hợp lý
(Hình ảnh minh họa 1. Ở phần phụ lục)
- Chỉ đạo cho giáo viên tạo môi trường tâm lý thân thiện, hợp tác, chia sẻ
và gợi mở:
Môi trường hoạt động hấp dẫn bao gồm cả việc tạo dựng mối quan hệ thân
thiện, cở mở, gần gũi giữa trẻ với trẻ, trẻ với cô giáo. Sự chân tình, cởi mở, gần
gũi của cơ sẽ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, an toàn, dễ chịu nơi lớp học và tạo
điều kiện để trẻ là chính mình. Đó là cơ cở để cho mọi hoạt động giáo dục trở
nên nhẹ nhàng, hấp dẫn giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, chủ động và tích cực khi tham
gia vào các hoạt động. Đây cũng là chất xúc tác quan trọng để nuôi dưỡng và
phát triển các kỹ năng của trẻ như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo vệ mình...
Khi trẻ duy trì được mối quan hệ tốt với các bạn cùng lớp, với giáo viên thì
đó sẽ là điều kiện thuận lợi để trẻ có thể chơi cùng nhau, hợp tác gắn bó cùng
nhau. Để làm được điều này, cơ giáo cần có những cử chỉ nhẹ nhàng, gần gũi,
ánh mắt dịu hiền, âu yếm, lời nói thân thiện... để tạo cho trẻ một cảm giác cơ
chính là bạn của trẻ. Từ đó trẻ sẽ tự tin bộc lộ bản thân, mạnh dạn hợp tác với cô
và bạn, mạnh dạn hỏi những điều chưa biết.
Bên cạnh đó, cơ giáo cũng cần khuyến khích, động viên những nỗ lực và
thành quả của trẻ trong việc thực hiện nhiệm vụ chơi. Giáo viên chỉ đóng vai
người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
Cơ cũng cần có biện pháp hướng trẻ khác trong nhóm chơi cùng lắng nghe
bạn nói, ủng hộ ý tưởng của bạn nếu hợp lý nhưng không quên thường xuyên

tạo cho trẻ cơ hội được khẳng định mình, được trao đổi bàn bạc với nhau, điều
này sẽ giúp trẻ tích cực thể hiện mình với giáo viên và các bạn.
Ví dụ: Ở chủ đề “Tết và mùa xuân” Lớp 5 – 6 tuổi, giáo viên Lê Thị Dung


8

(Hình ảnh minh họa 2. Ở phụ lục 2)
Kết quả: 100% giáo viên đã xây dựng được môi trường thân thiện, an toàn,
vui vẻ và tổ chức cho trẻ hoạt động một cách tích cực có hiệu quả. Từ đó góp
phần tạo nên mơi trường an tồn cho trẻ hoạt động tốt nhất trong nhà trường.
2.3.2.Giải pháp 2: Bồi dưỡng phương pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
bản thân của trẻ cho giáo viên.
Hiện nay các trường đã bắt đầu quan tâm đến việc giảng dạy kỹ năng sống
cho trẻ trong trường mầm non, trong đó có kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Tuy
nhiên, qua khảo sát, tôi nhận thấy đa phần giáo viên chưa được tập huấn về
phương pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ và trên thực tế thì giáo
viên khi dạy trẻ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Bên cạnh đó, tài liệu về giáo dục
kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ cũng chưa có nhiều. Do vậy giáo viên cần
được cung cấp các phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Bởi chỉ khi giáo
viên có nhận thức đúng về kỹ năng thì mới có thể tổ chức hoạt động giáo dục kỹ
năng này ở trẻ.
Mục tiêu của kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ là cung cấp kiến thức để
giúp trẻ có thể ứng phó với các tình huống bất lợi. Để làm được điều này, trước
hết phải sử dụng phương pháp giáo dục chủ động. Nghĩa là qua các tình huống
được phân tích, các trải nghiệm thơng qua làm việc theo nhóm, thảo luận, tự rút
ra cho mình bài học hoặc biết cách tự giải quyết trong tình huống đóng kịch,
phim, tranh ảnh, câu chuyện... Từ đó sẽ giáo dục được kỹ năng cho trẻ.
Tơi tham mưu với đồng chí Hiệu trưởng, tiến hành cho giáo viên tham gia
bồi dưỡng về nội dung và phương pháp dạy kỹ năng cho trẻ tại các buổi sinh

hoạt chun mơn hàng tháng, có mời hiệu trưởng cùng tham dự và chỉ đạo. Khi
tiến hành cho giáo viên tham gia các lớp học này, tôi chia các giáo viên về thành
2 nhóm để họ chủ động vận dụng các phương pháp giáo dục như thảo luận
nhóm, đóng vai, trị chuyện. Nhóm giải quyết các tình huống...để từ đó họ tự
khám phá và thực hành kỹ năng trong cuộc sống. Sau mỗi tháng có đánh giá rút
kinh nghiệm những kỹ năng trẻ đã làm được và những kỹ năng trẻ cịn hạn chế.
Bởi vì giáo viên là người trực tiếp tiếp xúc và làm việc với trẻ.
Kết quả: Sau khi thực hiện giải pháp trên lồng ghép giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ đã đạt được như sau: 100% cán bộ giáo viên trong
trường đã tham gia học tập, thảo luận, thực hành xây dựng và nhận thức đúng
sâu sắc hơn về nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ
một cách nghiêm túc, chất lượng thực hành xây dựng và tổ chức cho trẻ hoạt
động một cách hiệu quả, có chất lượng mà khơng phải giáo dục mang tính hình
thức, đối phó, góp phần bảo vệ an toàn cho trẻ mầm non tại trường đạt hiệu quả
cao .
(Hình ảnh minh họa 3. Họp bồi dưỡng chuyên môn. Ở phụ lục)
2.3.3.Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên xây dựng nội dung giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ theo hướng tích hợp với hoạt động học có
chủ định.


9

Để giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ theo hướng tích hợp với các hoạt
động học và vui chơi và các hoạt động khác là một quan điểm hiện đại, không
những phù hợp với tâm lý trẻ mà còn phù hợp với xu hướng giáo dục của thế
giới hiện nay, nó góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ cho trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch lồng ghép chỉ đạo cho các khối
lớp về nội dung các kỹ năng tự bảo vệ bản thân mình vào các chủ đề một cách

khéo léo, tinh tế, mềm dẻo không chồng chéo tùy vào từng chủ đề, theo tuần,
tháng, học kỳ, các khối lớp lựa chọn cho phù hợp. Giáo viên xây dựng giáo an
mẫu đưa ra tổ bàn bạc thống nhất để đưa vào thực hiện.
Ví dụ: Chủ đề “Gia đình”, với chủ đề nhánh là “Các đồ dùng trong gia đình”.
Tơi đã lên kế hoạch chỉ đạo giáo viên thực hiện giờ dạy mẫu có lồng ghép vào
hoạt. Đây là một đề tài tôi chỉ đạo giáo viên áp dụng thành công tại các lớp mẫu
giáo lớn 5- 6 tuổi. Tôi chỉ đạo giáo viên tổ chức hoạt động mẫu như sau:
Hoạt động 1. Trò chuyện, gây hứng thú
Xin vui mừng chào đón các q vị đại biểu, các bé đến với chương trình:
“An tồn cho bé” ngày hơm nay.
- Thành phần khơng thể thiếu trong chương trình đó là đội:
+ Ti vi
+ Tủ lạnh
+ Máy giặt
Thành phần ban giám khảo là các cô giáo trong trường.
Người dẫn chương trình cơ Hồng Thùy. Một tràng pháo tay thật lớn để đón
chào tất cả các đội.
Mở đầu cho chương trình chúng ta cùng giao lưu với bài hát: “Đồ dùng bé
u”.
- Trong bài hát có những đồ dùng gì?
- Ở nhà các con có những đồ dùng nào?
- Thế các con đã biết cách sử dụng những đồ dùng đó an tồn chưa?
-> Các con ạ ở nhà có rất nhiều những đồ dùng, những khu vực khơng an
tồn khi chúng mình sử dụng, khi chơi. Hay ở trường cịn có rất nhiều điều
chúng ta chưa biết làm thế nào bảo vệ bản thân chúng ta thật an tồn. Hơm nay
cơ cùng các con sẽ tìm hiểu các bạn có những hiểu biết gì để tránh nguy hiểm và
thật an tồn cho bản thân và cách giải quyết các tình huống trong cuộc sống.
Vui mừng chào đón các đội đến với phần thi thứ nhất được mang tên: “Bé
thông minh”
* Cho trẻ khám phá làm quen các đồ dùng trong gia đình.

- Ti vi: Máy giặt, Nồi cơm điện.
- Cơ chia trẻ thành 3 nhóm yêu cầu trẻ quan sát trong thời gian quy định trẻ
nêu lên nhận xét của mình về đặc điểm, cấu tạo, cơng dụng... của đồ dùng nhóm
được quan sát.
- Khi trẻ đã hiểu, nhận biết được các đặc điểm, tác dụng của các đồ dùng cô
lồng giáo dục cho trẻ biết được những nguy hiểm khi sử dụng những đồ dùng


10

này như (ổ cắm điện ti vi, tủ lạnh, máy dặt.... khơng được đụng vào và tùy tiện
cắm điện hốc cắm bất cứ vận dụng gì vào đấy sẽ ngây nguy hiểm cho bản thân)
Ngoài ra giáo dục cho trẻ đến lớp khi chơi với các đồ chơi chú ý an toàn.
- Khi chơi sử dụng những đồ dùng, đồ chơi đó các con phải chú ý điều gì?
-Theo các con trong lớp có những nơi nào, đồ dùng nào có thể gây nguy
hiểm chúng ta khơng nên lại gần và sử dụng?
- Ở ngồi lớp thì nơi nào của trường các con khơng được đến gần?
- Vì sao chúng ta khơng được đến những nơi đó?
- Ở sân trường cịn có gì nữa?
- Khi chơi với những đồ chơi ngồi trời thì các con phải chú ý điều gì?
- Các con thấy những hành động nào của các bạn khi chơi đồ chơi ngồi trời
khơng an tồn?
- Khi thấy bạn sử dụng hay làm việc gì có thể gây nguy hiểm, hay sử dụng
các loại đồ dùng gây nguy hiểm cho bạn, cho người khác thì chúng ta phải làm
gì?
-> Cơ giáo dục trẻ biết tránh xa những nơi nguy hiểm, không lại gần những
nơi nguy hiểm và không làm những việc có thể gây nguy hiểm cho mình và
người khác.
Hoạt động 2: An toàn cho bé:
Xin nồng nhiệt chào đón các bé đến với phần thi thứ hai được mang tên: “An

toàn cho bé”
- Ở phần thi này cơ mời các con quan sát một tình huống và đưa ra nhận xét
về tình huống đó, đưa ra giải thích là hành động đó là đúng hay sai, sau đó đưa
ra cách xử lý
(Cho trẻ xem tình huống trẻ cắm ổ điện. Quạt, ti vi, ấm siêu tốc..).
- Các con có nhận xét gì về những hành động đó?
- Chúng mình sẽ làm gì khi gặp những tình huống đó?
- Cơ cho trẻ xem một số nơi như nhà bếp, khu vực nhà xe? Và hỏi trẻ những
nơi này các con có được vào chơi khơng? Vì sao?
Hoạt động 3: Ôn tập củng cố và mở rộng kiến thức
* Trò chơi: “Bé thi tài”
Chúng ta cùng đến với phần thi thứ 3: “Bé thi tài”
- Cô chia lớp thành 3 đội, bật qua 3 vịng lên tìm những hình ảnh có hành
động đúng gắn vào khn mặt cười, hành động sai gắn vào khuôn mặt mếu.
Trong thời gian 2 phút đội nào gắn được nhiều hình ảnh là đội đó thắng cuộc.
- Trẻ chơi cơ quan sát theo dõi trẻ. Nhận xét kết quả của 2 đội chơi.
Hoạt động 4: Kết thúc: Cho trẻ hát bài: “Đồ dùng bé u” đi ra ngồi./.
(Hình ảnh minh họa 4. Lồng giáo dục kỹ năng tự bảo vệ mình giờ học)
Ví dụ: Ở chủ đề “Giao thông” Lồng giáo dục kỹ năng tự bảo vệ mình trong
hoạt động học ở chủ đề nhánh “Những phương tiện giao thông đường bộ” cho
trẻ xem tranh ảnh về các hành vi tham gia giao thông mất an tồn. Như khơng
đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe máy, hành vi ngồi trên ơ tơ thị tay, thị đầu ra
ngồi, hành vi ngồi khơng ngay ngắn trên xe đạp khi tham gia giao thông....


11

- Các con có nhận xét gì về những hành vi đó?
Thơng qua các hành vi nhằm giáo dục trẻ khi tham gia giao thơng biết giữ an
tồn cho mình mà trẻ cịn có thể nhắc nhở được người thân cùng tham gia.

Ví dụ: Hơm nay bố hoạc mẹ đưa con đi học khi lên xe máy không đội mũ
trẻ nhắc bố (mẹ) phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thơng...
Ngồi việc lồng ghép trong các hoạt động giáo dục cũng có thể dạy trẻ kỹ
năng tự bảo vệ tại gia đình.
Để xây dựng được các nội dung để lồng ghép đưa vào các hoạt động hàng
ngày của trẻ tại trường, thì giáo viên phải là người nắm chắc về chương trình
theo quy định, biết những nội dung cần thiết của kỹ năng tự bảo vệ, để từ đó xây
dựng kế hoạch cũng như thiết kế các hoạt động phù hợp.
Ví dụ: “Trong chủ đề nước và hiện tượng tự nhiên” Giáo viên lồng ghép nội
dung giáo dục bảo vệ bản thân vào các hoạt động học, hoạt động ngoài trời ...rất
thực tế và đạt hiệu quả cao, trẻ biết tránh xa những nơi nguy hiểm như ao, hồ,
sông, suối,hay khi ngặp trời mưa biết tránh, trú mưa vào nơi an toàn..
Kết quả: Như vậy ở giải pháp này khi giáo viên thực hiện lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ vào các hoạt động giáo duc, phù hợp với chủ
đề với nội dung củ bài. Giáo viên phản ánh lại trẻ tiếp thu một cách tích cực và
có hiệu quả cao thực hiện được một số kỹ năng tự bảo vệ bản thân, và các hành
vi đúng đảm bảo an toàn trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
2.3.4. Giải pháp 4. Chỉ đạo giáo viên sử dụng tình huống bất ngờ để giáo
dục trẻ có kỹ năng ứng phó, tự bảo vệ mình trước các vấn đề nguy hiểm có
thể xảy ra:
Tận dụng những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; hoặc tạo
tình huống hấp dẫn mang tính chất có vấn đề để tổ chức kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
Việc giáo dục kỹ năng của trẻ có ít cơ hội được trải nghiệm bằng thực tế sinh
động mà chỉ có thể thơng qua những tình huống giả định và với việc giải quyết
một cách thuần thục những tình huống giả định này, trẻ sẽ không bị lúng túng
khi giải quyết những tình huống mà trong thực tế sẽ gặp phải.
Do đó việc tạo những tình huống hấp dẫn, mang tính có vấn đề là một biện
pháp có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục kỹ năng cho trẻ.
Những vốn kinh nghiệm này sẽ là “vật liệu” để trẻ ứng dụng giải quyết những
tình huống trong thực tế có thể trẻ sẽ gặp phải.

Thơng qua các tình huống và cách xử lý trong từng tình huống trẻ sẽ có biểu
tượng về các hành vi chuẩn mực, làm giàu vốn sống, vốn kinh nghiệm của trẻ
giúp trẻ biết lựa chọn những hành vi tích cực để vận dụng vào trong cuộc sống
của mình.
Việc chỉ đạo giáo viên lựa chọn và xây dựng những tình huống có vấn đề
gần gũi, thực tế, dễ hiểu phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ sẽ tạo hứng thú
và duy trì được hứng thú trong suốt q trình hoạt động góp phần kích thích sự
tị mị ham hiểu biết và là cơ hội để trẻ trải nghiệm những kinh nghiệm của bản
thân.


12

* Tình huống khơng tiếp xúc và đi theo người lạ:
- Giáo viên cung cấp cho trẻ những tình huống mà trẻ thường gặp phải trong
cuộc sống liên quan đến kỹ năng tự bảo vệ bản thân như tình huống trẻ bị lạc bố
mẹ nơi đông người, trẻ bị người lạ dụ dỗ, bị người khác tấn công, bị lạm dụng...
- Giáo viên gợi ý để khai thác kinh nghiệm sống của trẻ và khuyến khích
trẻ tự chia sẻ, xây dựng những tình huống mà trẻ đã gặp phải hoặc quan sát thấy.
- Tận dụng những tình huống mà trẻ gặp phải trong thực tế để xây dựng
các hoạt động phù hợp nhằm giáo dục kỹ năng.
- Cung cấp kiến thức, làm giàu vốn kinh nghiệm của trẻ thông qua việc tạo
điều kiện và cơ hội để trẻ có thể làm quen với mơi trường xung quanh, trong đó
có cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội thông qua việc quan sát tranh,
ảnh, đọc và kể chuyện, tham quan...
- Khi giáo viên xây dựng tình huống, giáo viên không nên đưa ra cách giải
quyết cụ thể mà tạo điều kiện cho trẻ để cho trẻ tự tìm cách giải quyết theo khả
năng của mình. Trong quá trình trẻ giải quyết một tình huống nào đó, tùy từng
nhóm trẻ mà có thể nâng cao yêu cầu với trẻ cho phù hợp.
- Khi trẻ giải quyết các tình huống giáo viên cần theo dõi cách giải quyết

của trẻ để kịp thời đưa ra những gợi ý cần thiết nhằm hướng dẫn trẻ.
- Để tiến hành với trẻ được các nội dung trên, giáo viên cần phải có vốn
kinh nghiệm sống phong phú về các mối quan hệ xã hội. Đồng thời người giáo
viên phải phát hiện kịp thời những tình huống có vấn đề mà trẻ đang gặp phải.
- Các tình huống tạo ra phải phù hợp với vốn kinh nghiệm, hiểu và hứng
thú của trẻ để có thể tự mình hoặc với sự gợi ý của giáo viên để có thể tự giải
quyết được.
- Các tình huống tạo ra khơng gị bó, áp đặt trẻ. Tình huống phải đảm bảo
tính tự nhiên, gắn liền với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ, phản ánh mối quan
hệ phong phú đa dạng trong xã hội.
- Giáo viên cần tạo sự giao tiếp gần gũi, thân thiện, bình đẳng giữa cơ và
trẻ, giữa trẻ và trẻ và trẻ với nhau.
Ví dụ:
Cơ kể cho cả lớp nghe câu chuyện: “Bạn Mai Hà Anh 5 tuổi, được mẹ đưa
đi chơi ở nhà bóng, lúc ra về mẹ nhớ là để quên túi xách trên nhà bóng và dặn
Mai Anh đứng ở cổng chờ mẹ. Sau khi mẹ đi, có một người lạ đến cho Mai Hà
Anh đồ chơi và nói: Mẹ con bảo chú đưa con về trước mẹ sẽ về sau, con ngoan
cầm đồ chơi rồi đi theo chú về. Đến đây, giáo viên dừng lại và hỏi trẻ: Bạn Mai
Hà Anh có về cùng người lạ đó khơng? Nếu là con thì con sẽ làm gì?
Sau đó, cơ sẽ cho cả lớp thảo luận và đưa ra các câu trẻ lời khác nhau. Khi
nghe xong các bạn nói, cơ sẽ kể tiếp: Bạn Mai Hà Anh nhất định không chịu
nhận đồ chơi và cũng khơng theo người lạ đó, rồi vội vàng chạy vào khu vực
bên trong nhà bóng để tìm mẹ, người lạ nắm lấy áo, kéo bạn Mai Hà Anh, không
cho bạn ấy đi, bạn Mai Hà Anh kêu lên thật to: Cứu cháu với, có người xấu định
bắt cháu! Mọi người xung quanh nghe thấy liền vội chạy lại....


13

Qua câu chuyện này giáo viên có thể giáo dục cho trẻ biết là không được

đi theo người lạ cho dù người đó có cho bất cứ cái gì! Hoặc giáo viên có thể cho
trẻ đóng vai các nhân vật trong các câu chuyện để trẻ khắc sâu, ghi nhớ hơn.
Ví dụ: Ở góc chơi phân vai tơi chỉ đạo giáo viên cho trẻ chơi trị chơi “Gia
đình”, giáo viên nhờ phụ huynh đóng giả một người lạ đến gõ cửa khi trẻ ở nhà
một mình, thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở cửa, phải đợi bố mẹ về đã”.
Giáo viên cho trẻ ở nhóm chơi gia đình cùng đi chợ và đưa ra tình huống:
“Con bị lạc bố mẹ ở chợ” thì trẻ biết ra nhờ cơ bán hàng gọi điện thoại cho bố
mẹ, cháu đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với cô đợi bố
mẹ đón. Giáo viên đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng cô để cô
dắt về với mẹ. Các trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu khơng sẽ bị bắt
cóc đấy”.
Ngồi ra giáo viên có thể đặt nhiều tình huống khác và tổ chức lồng ghép
mọi lúc mọi nơi để trẻ có cơ hội giải quyết và xử lý các tình huống như: Khi ở
nhà một mình (khơng được mở cửa cho người lạ), khi bị lạc (tìm người lớn giúp
đỡ), khi bị các đồ vật nguy hiểm gây thương tích (báo ngay với người lớn)...
Hình ảnh minh họa 5: Trẻ thực hành các bài tập tự bảo vệ bản thân.
Ở phụ lục
* Tình huống khơng chơi ở những nơi gần ao, hồ, sơng:
Ví dụ 1: Các mối nguy hiểm tơi chỉ đạo giáo viên cần giáo dục trẻ biết cách bảo
đảm an toàn cho bản thân như: Nhận biết được một số nguyên nhân gây nguy
hiểm. không chơi gần khu vực gây nguy hiểm như ao, hồ, sông, suối, tránh xa
các ổ điện, gas, bàn là, điện, nước nóng, dao, kéo....
Hình ảnh minh họa 6: Tình huống trẻ chơi ở ngần ao, hồ. Ở phụ lục.
Các mối nguy hiểm có thể xảy ra đối với trẻ, vì thế chúng ta cần chú trọng
giúp trẻ biết tránh xa và không đến gần những mối nguy hiểm đó, mặt khác các
mối nguy hiểm này đều có nguy cơ xảy ra nếu chúng ta khơng giáo dục trẻ kịp
thời để trẻ biết cách phân biệt và tự bảo vệ. Thông qua kỹ năng này nhà trường,
giáo viên và trẻ đã có thể phịng tránh tai nạn, thương tích cho trẻ trong trường
Mầm Non.
* Tình huống không tự ý cắm ổ điện:

Ở lứa tuổi này trẻ rất hiếu động thích làm những việc mình thích đơi khi
khơng cần sự cho phép của người lơn.
Ví dụ: Trẻ chơi ở ngồi cơ thể nóng tốt mồ hơi, trẻ vào nhà tự ý cắm phích quạt
vào ổ điện, ti vi..
Trẻ chưa nhận thức được rằng việc làm đấy sẽ ngây nguy hiểm đến tính
mạng khi trẻ cắm khơng đúng cách hoạc cắm lệch một bên phích cắm ra phía
ngồi ổ điện.
Qua những tình huống giáo viên giáo dục trẻ những hành vi đúng, giáo dục
trẻ nhận thức được sự nguy hiểm khi sử dụng những đồ dùng vật dụng ngây
nguy hiển đến tính mạng, khi khơng có người lớn bên cạnh và hướng dẫn.


14

*Tình huống trẻ lạc khi đi ra đường:
Việc tạo tình huống cho trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm thực tế giúp trẻ
dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Thay vì “Con khơng được làm thế
này, thế kia” thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ
hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào? Từ
những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp trẻ dần có kỹ
năng suy đốn, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình đã có để tìm
cách giải quyết. Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác trong thực
tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ
năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này. Việc xây dựng các tình huống
cho trẻ trải nghiệm giúp giáo viên có cơ hội quan sát cách xử lý của trẻ và đánh
giá mức độ nhận thức của trẻ đến đâu để có biện pháp tác động kịp thời. Mặt
khác cịn giúp cho giáo viên có thêm biện pháp mới trong việc giáo dục trẻ.
Ví dụ: Giáo viên xây dựng tình huống.
Đến giờ về chưa thấy bố, mẹ người thân đến đón trẻ có được tự ý ra về
một mình.

Giáo viên đưa ra một số mội dung tình huống khi trẻ tự ý ra đường một
mình. Như: Khơng nhớ đường về nhà? gặp người lạ dỗ cho q, ngồi đường có
rất nhiều phương tiện giao thông… Cho trẻ suy nghĩ giải quyết các tình huống.
Sau đó giáo viên là người giáo dục trẻ làm gì khi bị lạc. Bị người lạ dẫn đi,
hoặc khi cần sang đường.
Kết quả: Từ những tình huống thực hành vừa giúp phát triển thể chất vừa
rèn cho trẻ được một số kỹ năng thoát hiểm khi gặp kẻ xấu, gặp các trường hợp
nguy hiểm.. Khi áp dụng biện pháp giáo viên thấy 100 % trẻ hứng thú tham gia
tích cực vào hoạt động và hiệu quả mang lại cho trẻ đạt rất cao, trẻ mạnh dạn, tự
tin, tích cực tham gia vào các hoạt động, 100 % trẻ có được kiên thức và kỹ
năng cơ bản kỹ năng tự bảo vệ bản thân trẻ, những cách xử lý sáng tạo khi được
nhập vai tham gia giải quyết các tình huống.
*Đối với giáo viên.
Tơi nhận thấy giáo viên nắm kiến thức, kỹ năng tìm ra các biện pháp đạt
hiệu quả cao vào áp dụng chương trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho
trẻ tại trường.
2.3.5. Giải pháp 5. Chỉ đạo giáo viên thường xuyên sử dụng trị chơi để
kích thích trẻ tích cực tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng tự bảo vệ
bản thân:
- Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua các hoạt động vui
chơi cho trẻ. Vui chơi là hoạt động chủ đạo trong các trường lớp mầm non, qua
vui chơi giúp trẻ phát triển, trẻ em tiếp thu rất tốt khi vui chơi. Trẻ em học hỏi,
tiếp thu hiểu biết và các kĩ năng tự bảo vệ bản thân. Và thói quen tự lập qua các
trị chơi.
- Sử dụng biện pháp trò chơi là tổ chức cho người học chơi một trị chơi
nào đó để thơng qua đó tìm hiểu một vấn đề, biểu hiện thái độ hay thực hiện


15


hành động, việc làm. Trong đó trị chơi học tập và đóng vai của trẻ mẫu giáo rất
thích hợp để giúp trẻ rèn luyện nhận thức và thực hành kỹ năng.
- Sự trải nghiệm trong môi trường chơi phong phú, hấp dẫn tạo cơ hội cho trẻ
tiếp cận sâu rộng hơn với thế giới hiện thực của người lớn và được gia nhập vào đó
thơng qua lăng kính của trẻ từ đó các kỹ năng được hình thành và phát triển.
Tơi chỉ đạo giáo viên thực hiện các trị chơi như sau:
- Trị chơi học tập:
Hình thức trị chơi này giúp trẻ nhận biết được kỹ năng bảo vệ qua việc
tiến hành các hành động nhận thức để phân loại các hành vi đúng sai, nên và
khơng nên. Từ đó trẻ sẽ có kinh nghiệm thực tế để có thể giải quyết trong tình huống
cụ thể.
Ở lứa tuổi mầm non, trẻ chơi nhiều hơn là học, những nhiệm vụ trí tuệ đặt
ra cho các em khơng trị chơi học tập cần có độ khó vừa phải.
Bên cạnh đó, đồ dùng, đồ chơi chuẩn bị cho trẻ chơi, học tập ở lứa tuổi này
cần phải bắt mắt, đẹp đẽ để thu hút sự chú ý của các em. Khi hướng dẫn trò
chơi, giáo viên phải trực tiếp làm mẫu 2- 3 lần thì các em mới có thể nắm bắt
được cách chơi và luật chơi.
Một số trò chơi học tập cho lứa tuổi mầm non là: Bù chỗ khuyết, hãy xếp
theo thứ tự, kể theo yêu cầu của cô, ai đúng - ai sai, ghép lại cho đúng, vẽ, nối khuôn
mặt cười cho hành vi đúng.
+ Cách tiến hành trò chơi:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trị chơi.
Bước 2: Hướng dẫn trẻ tham gia chơi.
Tổ chức lớp thành các nhóm chơi. Cả lớp có thể có thể chia thành 4 nhóm
thi đua tương ứng 4 tổ hoặc 2 nhóm, hoặc chơi theo cá nhân...
Giới thiệu luật chơi và các dụng cụ phục vụ trò chơi.
Giáo viên nên làm mẫu hoặc cho một vài trẻ lên chơi thử.
Bước 3: Trẻ thực hiện trò chơi dưới sự giám sát của giáo viên.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá sau khi chơi.
- Trị chơi đóng vai:

Đóng vai chính là hình thức tổ chức cho trẻ thực hành, làm thử một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là biện pháp giúp trẻ suy
nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà trẻ
quan sát được. Đồng thời tạo hứng thú cho trẻ và điều đặc biệt là trẻ có thể cảm
nhận thấy những tác động của lời nói và việc làm của các nhân vật mà trẻ đóng
vai, từ đó dẫn đến thay đổi thái độ hoặc hành vi của mình trước một tình huống
bất kỳ.
Ví dụ: Tình huống “Bị lạc mẹ trong siêu thị đơng người thì sẽ làm gì? Trẻ làm
gì khi bị lạc bố mẹ khi đi du lịch”...
+ Cách tiến hành:
Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, u cầu đóng vai cho
từng nhóm. Quy định thời gian chuẩn bị, thời gian diễn của mỗi nhóm.
Các nhóm thảo luận, luyện tập chuẩn bị đóng vai.


16

Các nhóm diễn.
Cả lớp nhận xét, thảo luận. Thơng thường thảo luận bắt đầu về cách ứng
xửa cảu các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, sau đó mở rộng
phạm vi thảo luận sang những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề mà vở diễn
chứng minh.
- Trước khi tổ chức thực hiện các trò chơi, giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ
các phương tiện cần thiết cho trị chơi học tập hoặc đóng vai: Các bài tập chơi,
đồ dùng, số lượng đủ số trẻ hoặc các tình huống đóng vai phù hợp với chủ đề,
nội dung, mục tiêu mong muốn.
- Giáo viên nên khích lệ để cả lớp cùng tham gia.
* Kết quả: 100% số trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động, trẻ
hiểu được nội dung, có kiến thức và kỹ năng chơi các trị chơi cách chơi. Chính
vì vậy sự phát triển toàn diện của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào nội dung giáo dục.

Giáo viên biết xây dựng sử dụng các trò chơi phù hợp với nội dung và hình thức
tổ chức cho trẻ chơi, hoạt động này đã góp một phần quan trọng trong việc hình
thành và phát triển kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
2.3.6. Giải pháp 6. Chỉ đạo giáo viên luôn tạo cơ hội để trẻ được tương
tác, được trải nghiệm:
Để giáo dục và phát triển các kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ thì điều quan trọng
nhất là phải ln tạo cơ hội để trẻ được thực hành, luyện tập các hành vi thường
xuyên, mọi lúc, mọi nơi có như vậy trẻ mới hình thành kỹ năng một cách bền vững.
Kỹ năng của trẻ khơng thể được hình thành qua việc chỉ ngồi nghe giảng,
việc giảng giải mới giúp trẻ có nhận thức về một vấn đề nào đó. Trẻ chỉ hình
thành kỹ năng khi trẻ được cùng tham gia làm chứ khơng chỉ nói về kỹ năng.
Hình thành kỹ năng cho trẻ được thông qua việc tương tác với người lớn, với
bạn cùng học. Trong khi tương tác trẻ được thể hiện các ý tưởng của mình, được
trải nghiệm, được đánh giá, xem xét về những kinh nghiệm mà mình đã có trước
đây. Hơn nữa, việc tổ chức cho trẻ trải nghiệm những tình huống thực tế sẽ vừa
tạo hứng thú cho trẻ, đồng thời nhiều kinh nghiệm quý báu được hình thành, kể
cả khi trẻ chưa thực hiện đúng trong quá trình thao tác.
Việc tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có thể được tiến hành thơng qua việc
xây dựng tình huống và tổ chức các hoạt động phù hợp, cũng có thể được thực
hiện bằng cách cho trẻ quan sát trong thực tế. Giáo viên phải tin tưởng vào trẻ và
năng lực của trẻ.
Chỉ đạo cho giáo viên các nhóm lớp tạo các hoạt động, cơ hội để trẻ được
trải nghiệm, thực hành mọi lúc, mọi nơi qua các hoạt động tại trường: giờ học,
hoạt động vui chơi, dã ngoại ngồi trời...
Ví dụ: Cơ đóng giả là kẻ bắt cóc ơm và bế bé trên tay trẻ sẽ hành động như thế
nào?
+ Trẻ sẽ phản kháng lại người bắt cóc, tấn cơng lại đối tượng bằng mọi
cách như la hét, vùng vẫy, đẩy tay, đá vào phần giữa hai chân, cắn hoặc dùng tay
ấn vào mắt đối tượng và chạy thật nhanh tới nơi đông người.



17

Kết quả: Trẻ được tương tác cùng cô, cùng bạn trẻ sẽ khắc sâu được kiến
thức, kỹ năng, mạnh dạn tự tin tự bảo vệ bản thân trong mọi tình huống xảy ra.
100% trẻ hứng thú tham gia tích cực hoạt động đạt 95% trẻ xử lý được các tình
huống.
(Hình minh họa ảnh 7: Trẻ tương tác cùng cô. Ở phụ lục)
2.3.7. Giải pháp 7: Chỉ đạo giáo viên rèn kỹ năng tự bảo vệ bản thân
cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Thấy được tầm quan trọng của kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ ở trường
mầm non là vơ cùng quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy tôi đã lên kế hoạch để
cho giáo viên lồng ghép kỹ năng này vào hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi cho trẻ.
Hoạt động ngồi trời:
Trong giờ chơi vì ở ngồi trời, trẻ rất ham chơi nên có thể gặp các tai nạn
như: Chấn thương phần mềm, rách da, gãy xương... nguyên nhân thường do trẻ
đùa nghịch, xô đẩy nhau, hoặc chạy nhảy va vào các bậc thềm gây chấn thương.
Vì vậy trước khi cho trẻ ra hoạt động ngồi trời cơ chú ý đếm trẻ, kiểm tra khu
vực sân khi cho trẻ quan sát có chủ đích, cơ phải luôn bao quát ở bên trẻ để đảm
bảo trẻ vui chơi mà vẫn an tồn.
Ở thang dây, xích đu, cầu trượt: Khi trẻ chơi cô nhắc nhở trẻ không
chen, xơ đẩy nhau, chú ý an tồn cho trẻ để khi trẻ tiếp đất được an tồn, khơng
bị trầy xước khi va vào nền gạch.
(Hình ảnh minh họa 8: Trẻ chơi thang dây mất an toàn. Ở phụ lục)
Hoạt động ăn: Khơng ép trẻ ăn, dục trẻ khi trẻ cịn khóc dễ bị hóc, sặc
cơm, thức ăn vào đường thở... Thận trọng khi cho trẻ uống thuốc, đặc biệt là các
thuốc dạng viên.
Ví dụ: Với chủ đề bản thân tơi chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ có một số kỹ năng
tự bảo vệ bản thân.
Dạy trẻ cách bảo vệ bản thân để tránh xảy ra tai nạn thương tích trong ăn

uống như sặc cơm, sặc cháo, các dị vật trong ăn uống.... Trong sinh hoạt đảm
bảo an toàn trong trường học, trong gia đình và mọi lúc mọi nơi, đây cũng là tạo
cho trẻ có ý thức tự giác và khả năng tự bảo vệ bản thân.
Dạy trẻ các kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân trước những tình huống nguy
hiểm như: Khơng chơi đồ vật nguy hiểm, không làm một số việc gây nguy hiểm,
không chơi ở những nơi mất vệ sinh, nguy hiểm, không đi theo, không nhận quà
của người lạ khi chưa được người thân cho phép, biết kêu cứu và chạy khỏi nơi
nguy hiểm.
Hoạt đông giờ ngủ: Khi trẻ chuẩn bị lên giường giáo viên chú ý xem trẻ
còn ngậm thức ăn trong miệng khơng, kiểm tra tay, túi quần áo xem có vật nhỏ
lạ, các loại hạt, kẹo cứng, đồ chơi trên người trẻ tránh trường hợp khi ngủ trẻ
trêu ghẹo nhét vào miệng, mũi, tai. Để dị vật rơi vào đường thở gây ngạt thở.
+ Phịng ngủ phải được thơng thống tránh trường hợp khi trẻ ngủ trẻ hít
phải khí độc từ các nguồn gây ô nhiễm không rất dễ bị ngộ độc.
+ Giáo viên luôn bao quát trẻ không để trẻ ngủ lâu trong tư thế nằm sấp
xuống đệm, úp mặt xuống gối sẽ thiếu dưỡng khí gây ngạt thở.


18

Giờ chơi tự do trong lớp: Khi chơi trong lớp, trẻ có thể gặp các tai nạn
như dị vật mũi, tai do trẻ tự nhét đồ chơi (hạt cườm, con xúc sắc, các loại hạt
quả, đất nặn...) vào mũi, tai mình hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Trẻ hay ngậm
hoặc chọc đồ chơi vào mồm gây rách niêm mạc miệng, hít vào gây dị vật đường
thở, nuốt vào gây dị vật đường ăn. Vì vậy cơ khơng cho trẻ cầm các đồ chơi quá
nhỏ, tránh trường hợp trẻ cho vào miệng mũi.
+ Trẻ chơi tự do trong nhóm, giáo viên không cho trẻ chạy, xô đẩy nhau
tránh va vào thành bàn, cạnh ghế, mép tủ...có thể gây chấn thương
+ Khơng nên để trẻ một mình vào nơi chứa nước kể cả xô chậu nước, khi
dùng xong giáo viên cần đổ hết nước, úp xô, chậu, đảm bảo các xô, thùng không

chứa nước trong nhà vệ sinh. Giám sát khi trẻ đi vệ sinh, khi trẻ chơi gần khu
vực có chứa nguồn nước.
Kết quả: Ở lứa tuổi mầm non trẻ dễ nhớ cũng như chóng qn, thơng qua
lồng giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân trong các hoạt động hàng ngày trẻ tiếp
thu kiến thức, kỹ năng một cách nhẹ nhàng nhưng mang lại hiệu quả cao.
2.3.8. Giải pháp 8. Chỉ đạo giáo viên thường xuyên phối hợp gia đình
trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ:
Song song với việc chỉ đạo giáo viên sử dụng các giải pháp giáo dục trẻ
trên lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa giáo
viên gia đình và nhà trường. Trên thực tế nhiều cha mẹ trẻ chưa chú ý đến việc
rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho trẻ. Chính vì vậy mà tơi đã chỉ đạo giáo viên
phải tuyên truyền đến cha mẹ trẻ để họ hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục,
rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho trẻ đặc biệt là kỹ năng tự bảo vệ bản thân
cho trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái,
tự nhiên.
Giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự bảo vệ nói riêng cho trẻ là
việc hết sức quan trọng địi hỏi có sự tham gia của cả gia đình, nhà trường và xã
hội. Ơng bà, bố mẹ, các cô giáo hãy luôn là tấm gương sáng để các bé noi theo.
Cần phải gần gũi, chia sẻ, tâm sự, động viên và cùng các bé tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc. Tuyệt nhiên khơng so sánh, áp đặt trẻ theo ý kiến chủ quan
của mình.
Việc giáo viên tích cực trao đổi với cha mẹ trẻ vào các giờ đón, trả trẻ giúp
giáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình của trẻ, hiểu được tính cách, hồn cảnh sống
của trẻ, từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động phối hợp với
gia đình trẻ trong việc rèn luyện trẻ đúng phương pháp.
Nhận thức được điều này, ngay từ đầu năm học trong cuộc hội nghị vơi các
bậc cha mẹ trẻ tồn trường, tơi đã tham mưu với Hiệu trưởng, đưa nội dung giáo
dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ để giáo viên các nhóm lớp trao đổi để
cha mẹ trẻ hiểu và thống nhất biện pháp phối hợp cùng với giáo viên tại lớp.
Chúng tôi nhấn mạnh để cha mẹ hiểu rằng đây là một q trình lâu dài và địi

hỏi giáo dục rèn luyện phải được thực hiện ở cả trường và gia đình mới có hiệu
quả cao. Chính vì vậy chúng tôi mạnh dạn đề nghị cha mẹ trẻ thường xuyên trao
đổi với cô giáo trên lớp, đọc bảng thông tin cha mẹ cần biết và gần gũi với trẻ để


19

tìm hiểu các nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân trẻ trên lớp. Đồng
thời phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ ở nhà và phản ánh kết quả qua lại cả hai
phía để cùng hiểu trẻ hơn.
Ví dụ: Trong chủ đề “Bản thân”: khi giới thiệu về các bộ phận trên cơ thể, giáo
viên giáo dục: “Khơng ai được chạm vào vùng kín trên cơ thể bé”.
Ví dụ: 1 chú nói: Để chú xem cho cháu đau ở đâu? Không được... mẹ cháu dặn
không ai được đụng vào người cháu.
Cô cho trẻ xem tranh minh họa trên ti vi và nói cho trẻ biết ngoại trừ bố
mẹ khi giúp các con tắm rửa hay bác sĩ, y tá khi thăm khám cho các con, còn lại
không ai được tùy tiện chạm vào cơ thể trẻ, đặc biệt là những vùng nhạy cảm.
Ví dụ: bạn trai, bạn gái mặc đồ bơi và dạy trẻ các vùng riêng tư của mỗi người
là miệng, ngực, mông và vùng giữa 2 đùi, ngồi miệng ra thì những vùng mà các
con mặc đồ bơi là những vùng riêng tư của các con, khơng được để người khác
nhìn thấy hoặc đụng chạm ngồi bố mẹ và cơ giáo khi cần vệ sinh cho con hoặc
bác sĩ khám bệnh cho con khi có bố mẹ ở cùng.
Ví dụ: Chủ đề “Gia đình”: giáo dục trẻ khi sử dụng các đồ dùng trong gia đình
như: xem ti vi, cắm quạt.. phải có người lớn hướng dẫn, hay nhờ bố, mẹ, ông
bà.. cắm hộ, khơng tự ý làm sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng.
Buổi chiều khi cha mẹ trẻ đến đón các cơ giáo trao đổi với cha mẹ trẻ ở lớp
trẻ được giáo dục các kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Thông qua việc phối hợp dạy
trẻ ở nhà trường và gia đình giúp trẻ nhớ lâu hơn. Cho phụ huynh xem tranh ảnh
mà trẻ được học ở trường để tuyên truyền với phụ huynh.
(Hình ảnh minh họa 9: Tuyên truyền với phụ huynh về kỹ năng tự bảo vệ

bản thân cho trẻ. Ở phần phụ lục)
Kết quả: Giải pháp trên đã làm cha mẹ trẻ quan tâm nhiều đến các con,
ln tích cực phối hợp với giáo viên để giáo dục kỹ các năng tự bảo vệ bản thân
cho trẻ tại gia đình và nhà trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Qua một năm tiến hành thực hiện các giải pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng
tự bảo vệ bản thân cho trẻ tại trường mầm non tôi nhận thấy đa số cháu trở nên
nhanh nhẹn, chủ động trong mọi hoạt động rõ rệt, bước đầu trẻ đã được trang bị
các kiến thức về kỹ năng tự bảo vệ bản thân mình, vững vàng, chủ động, có bản lĩnh
trong mọi tình huống.
Đối với giáo viên: 100% đã nhận thức được vai trò và sự cần thiết của kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Hiện nay, tại trường tôi kỹ năng này đã được
thực hiện lồng lép vào chương trình GDMN. Đặc biệt là được lồng ghép vào các
chủ đề thích hợp, trong các buổi sinh hoạt, các hoạt động vui chơi. Sau khi
nghiên cứu và áp dụng đề tài này tại trường tôi nhận thấy rằng, để giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ thì khơng chỉ giáo dục bằng lời, lý thuyết suông
mà cần tạo nhiều cơ hội cho trẻ thực hành và trải nghiệm nhờ vậy kỹ năng của
trẻ mới bền vững và hiệu quả.
Đối với cha mẹ trẻ: Các gia đình yên tâm, thường xuyên trao đổi và cùng


20

phối kết hợp với giáo viên để giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ và rất
tin tưởng các cô tại trường, bởi họ đã nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con em
mình. Hầu hết cha mẹ trẻ đã nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng tự bảo vệ
bản thân cho trẻ tại gia đình.
Đối với trẻ: Sau một năm học, với sự cố gắng nghiên cứu, áp dụng đề tài
và kinh nghiệm của bản thân, được sự ủng hộ nhiệt tình của tập thể giáo viên

nhà trường, đặc biệt là sự ủng hộ, phối hợp rất tích cực của phụ huynh trong
trường đã giúp tơi đạt được mục đích đề ra và mang lại hiệu quả cao trong việc
rèn kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
Kết quả sau khi thực hiện các giải pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản
thân cho trẻ trong trường cho thấy kết quả như sau
Kết quả. Ở phụ lục 2:
Kết quả khảo sát thực trạng tháng 4/2021 trên trẻ)
Đối với nhà trường: Đã xây dựng được nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo
vệ bản thân cho trẻ theo hướng tích hợp với các hoạt động học, hoạt động vui
chơi và các hoạt động khác. Bồi dưỡng được kiến thức cho cán bộ giáo viên về
phương pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ. Xây dựng được các
tiết học lồng ghép vào hoạt động theo các chủ đề. Cơ sở vật chất trang thiết bị,
môi trường hoạt động cho trẻ ln được kiểm tra rà sốt bổ sung thường xuyên
và đảm bảo an toàn cho trẻ. Từ đầu năm học đến nay 100% trẻ mẫu giáo lớn nói
riêng và tất cả trẻ tồn trường nói chung đều được đảm bảo an toàn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Trong thời kỳ xã hội hiện nay, kỹ năng tự bảo vệ bản thân là một
trong những kỹ năng đang được quan tâm hàng đầu, khơng chỉ có các bậc làm
cha mẹ mà cịn là một mối quan tâm lớn của các nhà trường. Có được kiến thức
và những kỹ năng này mang lại rất nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục và cả
văn hóa xã hội, giúp các bé có cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như
thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân,
sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho
cộng đồng.
Qua thực tế sau khi chỉ đạo giáo viên áp dụng các giải pháp vào giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ trong trường mầm non tôi đã rút ra những kết luận
như sau:
- Giáo viên tích cực tìm hiểu, nghiên cứu tìm ra các biện pháp rèn kỹ năng

tự bảo vệ bản thân cho trẻ và ứng dụng linh hoạt, thích hợp có hiệu quả.
- Tích hợp các nội dung tự bảo vệ bản thân cho trẻ vào trong các hoạt động
hàng ngày tại trường. Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi lành
mạnh.
- Tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ.
- Giáo viên phải phối hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ để giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ diễn ra thường xuyên và liên tục.


21

- Giáo viên phải là người gương mẫu trong mọi hành vi, cách ứng xử.
- Giúp trẻ vận dụng những kiến thức đã được học vào trong các tình huống
hàng ngày, từ đó hình thành nên kỹ năng cho trẻ.
3.2. Kiến nghị:
- Để chỉ đạo giáo viên thực hiện một cách có hiệu quả thì ban giám hiệu
nhà trường cần phải luôn chú ý xây dựng kế hoạch hướng dẫn giáo viên tổ chức
giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ phù hợp với tình hình của lớp và
yêu cầu của từng độ tuổi.
- Tăng cường cho giáo viên đi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp của
các đơn vị bạn.
- Kiểm tra thường xuyên để nắm bắt tình hình giáo viên thực hiện nội dung
đã được chỉ đạo để kịp thời góp ý giúp giáo viên khắc phục ngay những vấn đề
cịn thiếu sót, khơng để thực hiện thành thói quen rồi mới sửa đổi.
- Tham mưu với Phòng GD&ĐT Nga Sơn, mở các buổi tập huấn chuyên
môn đi sâu vào “Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi”, những
phương pháp, cách thức để tiến hành áp dụng tại trường.
- Cung cấp những tài liệu chuyên môn đi sâu và chuyên đề cho giáo viên
mầm non.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến cha mẹ trẻ về tầm quan trọng của

việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
- Nâng cao chất lượng giáo dục, tổ chức cho trẻ thăm quan, dã ngoại, để
mở rộng tầm hiểu biết, cung cấp thêm các kiến thức, từ đó hình thành kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ.
Trên đây là kinh nghiệm chỉ đạo về một số giải pháp giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ tại trường Mầm non Nga Bạch, huyện Nga Sơn mà bản
thân đã đúc rút trong năm học 2020 - 2021. Tuy tơi đã có nhiều cố gắng song
khơng tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của các bạn đồng nghiệp của các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi được
hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga bạch, ngày 09 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người Viết

Hoàng Thị Lương


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Diệu Hà - Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo thơng qua trị chơi đóng vai có chủ đề ở trường mầm non, Luận văn
Thạc sĩ.
2. Lê Xuân Hồng -Phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ mầm non,
Nxb Giáo Dục.

1- Chương trình giáo dục trẻ mầm non ban hành kèm theo thông tư 28/2016/TTBGD, ngày 30/12/2016 của Bộ giáo dục đào tạo (Mục tiêu giáo dục mầm non;
Trang 3): “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng
sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả
năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học
tập suốt đời ”
4. Vũ Thị Ngọc Minh, Nguyễn Thị Nga - Giúp bé có kỹ năng nhận biết và
phịng tránh một số nguy cơ khơng an tồn, Nxb Dân Trí.
5. Bạch Băng - Tuyển tập“Những câu chuyện vàng về khả năng tự bảo vệ
mình”, Nxb Kim Đồng.


23

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Lương
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Phó Hiệu trưởng – Trường Mầm Non Nga Bạch

TT

1

2

3


4

Tên đề tài SKKN
Một số biện phát năng cao
chất lượng Giáo dục dinh
dưỡng và VSATTP trong
trường mầm non Nga Lĩnh
Một số biện phát năng cao
chất lượng chăm sóc trẻ
trong trường mầm non Nga
Lĩnh
Một số biện phát năng cao
chất lượng chăm sóc trẻ
trong trường mầm non Nga
Lĩnh
Một số biện phát năng cao
chất lượng chuyên môm
cho đội ngũ giáo viên trong
trường mầm non Nga Bạch

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh…)

Kết quả
đánh giá xếp
loại (A,B,
hoặc C)


- Phòng GD&ĐT
huyện Nga Sơn

-B

2011 - 2012

- Phịng GD&ĐT
huyện Nga Sơn

-A

2012- 2013

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
- Phịng GD&ĐT
huyện Nga Sơn

-C

-B

Năm học
đánh giá xếp
loại

2012- 2013


2015 - 2016


24

PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng khảo sát chất lượng đầu năm
Đối với giáo viên

Tổng
số
GV

15

Tốt
Kiến thức , kỹ năng

Khá

Số
lượng

- Kiến thức về chuyên
đề lồng ghép giáo dục
kỹ năng tự bảo vệ bản
thân
- Hình thức tổ chức,
phương pháp lồng
ghép vào các hoạt

động của trẻ.
- Xây dựng mơi
trường giáo dục có
lồng ghép giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản
thân
Kĩ năng xử lý các tình
huống khi lồng ghép
giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân vào
các hoạt động học của
trẻ.

Xếp loại
TB

Yếu

Tỉ
Tỉ
Tỉ
Tỉ
Số
Số
Số
lệ
lệ
lệ
lệ
lượng

lượng
lượng
(%)
(%)
(%)
(%)

0

0

3

75

1

25

0

0

0

3

75

1


25

0

3

75

1

25

0

2

50

1

25

0

1

25

Đối với trẻ


Nội dung khảo sát
Tránh những nơi nguy hiểm
Tự bảo vệ khi gặp người lạ
Cách xử lý khi đi lạc
An toàn khi đi đường, đội mũ bảo hiểm
khi ngồi trên xe máy.
Biết tự bảo vệ tránh các hành vi xâm
hại bản thân.

Tổng Đã biết cách Chưa biết cách
tự bảo vệ
tự bảo vệ
số
trẻ Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ
132
59
45%
73
55%
132
65
49%
67
51%
132
41
30.8%
91
69%

132

81

61%

51

39%

132

47

36%

85

64%

(Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng tháng 10/2020 trên trẻ)


×