Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng làm tốt bài văn miêu tả cho HS lớp 4a trường TH lâm xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.93 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
RÈN KĨ NĂNG LÀM TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC
SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC LÂM XA
HUYỆN BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Lê Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lâm Xa
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HOÁ, NĂM 2021


MỤC LỤC
Tên nội dung
1. MỞ ĐẦU

Trang
1

1.1 Lí do chọn đề tài

1

1.2.Mục đích nghiên cứu


2

1.3.Đối tượng nghiên cứu

2

1.4.Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

2

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2

2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ


5
18

31.Kết luận

18

3.2.Kiến nghị

18


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt là tiếng phổ thơng của dân tộc Việt Nam. Vì vậy dạy học tiếng
Việt trong trường Tiểu học nói chung, và dạy phân mơn Tập làm văn nói riêng là
một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn, môn tổng hợp cao nhất trong
tất cả các phân môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Như chúng ta đã biết phân môn Tập
làm văn ở bậc học Tiểu học là nơi để học sinh thể hiện những kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt cũng như vốn sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học một cách
tổng hợp. Cũng như các thể loại văn nói chung, văn miêu tả có vị trí quan trọng
trong chương trình Tiếng Việt nói chung, Tập làm văn ở Tiểu học nói riêng. Việc
dạy học sinh làm tốt bài văn miêu tả là một vấn đề được đặt ra từ nhiều năm nay.
Trong thực tế ai cũng nhận ra những điều mình đã thấy nhưng làm thế nào để nói
hoặc viết lại những điều đó cho mọi người cùng hiểu hình dung ra sự vật đó thì
mới là điều quan trọng. Vì vậy, dạy học văn miêu tả là một vấn đề thiết yếu.
Văn miêu tả ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng mang tính thơng
báo thẩm mỹ chứa đựng tình cảm của người viết. Mặt khác, thể hiện tính sinh động
và tạo hình. Thơng qua viết bài văn miêu tả các em bộc lộ được cảm xúc và vận

dụng các kiến thức đã học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và
câu, Kể chuyện, …và vốn hiểu biết của mình trong cuộc sống, đồng thời tạo cơ sở
để các em học tốt các thể loại văn khác như văn kể chuyện, tường thuật, tả cảnh
sinh hoạt,… góp phần cùng các mơn học khác giúp phát triển ngôn ngữ, mở rộng
vốn sống, rèn luyện tư duy cho học sinh. Các em có thể “vẽ” lại sự vật, hiện tượng
trong thực tế một cách sinh động thơng qua ngơn ngữ của mình giúp người nghe,
người đọc hình dung được các sự vật, hiện tượng ấy. Từ nhận thức trên cho thấy
các em làm tốt bài văn miêu tả cũng có nghĩa là đã hồn thành tương đối tốt các
phân môn khác. Từ việc miêu tả các em trau dồi ngơn ngữ nói và viết cho mình.
Từ đó phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân
cách cho học sinh.
Qua những năm giảng dạy học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Lâm Xa, tôi thấy
phần đa các em ngại học Tiếng Việt nhất là Tập làm văn, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động giáo dục và chất lượng giáo dục. Hiện tại giáo viên trong tổ nói
riêng và giáo viên trong nhà trường nói chung vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu
để nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh.
Vấn đề này khiến tôi suy nghĩ, trăn trở suốt trong nhiều năm qua, làm sao
để nâng cao chất lượng giảng dạy Tập làm văn, nhằm tháo gỡ những khó khăn của
thầy và trị khi dạy và học mảng kiến thức về viết văn miêu tả. Với mong muốn
nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học, trao đổi những kinh nghiệm trong việc
dạy Tiếng Việt ở Tiểu học đặc biệt là phân môn Tập làm văn, tôi mạnh dạn chọn đề
tài nghiên cứu: “Một số giải pháp rèn kĩ năng làm tốt văn miêu tả cho học sinh
lớp 4A ở Trường Tiểu học Lâm Xa”.
Để hồn thành SKKN này tơi đã áp dụng những kinh nghiệm tích luỹ được
trên chính đối tượng học sinh lớp mình đã và đang phụ trách – lớp 4A trường Tiểu
học Lâm Xa.


2
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Giúp học sinh hình thành các kỹ năng quan sát, phân tích, đưa ra nhận xét,
về các đối tượng mà mình quan sát; biết truyền những cảm xúc của mình vào đối
tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn trong
sáng, rõ về nội dung. Các em biết sử dụng, vận dụng các hình ảnh so sánh, nhân
hóa để bài văn miêu tả được sinh động và phong phú nâng cao chất lượng khi làm
bài. Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương đất nước, vốn sống, vốn
ngôn ngữ và khả năng giao tiếp. Để từ đó giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả
đạt kết quả tốt, viết những bài văn miêu tả có nội dung phong phú, mang tính nghệ
thuật cao và giàu cảm xúc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng : Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Lâm Xa
- Tài liệu : Sách giáo khoa Tiếng Việt, sách hướng dẫn giáo viên, sách nâng
cao Tiếng Việt, các bài văn mẫu …
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp đàm thoại vấn đáp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp xử lý thông tin.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thực nghiệm.
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh
của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại
cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản, cần thiết về khoa học
và cuộc sống. Mặt khác, giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách
tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất
nền móng để các em tiếp tục học tiếp các bậc học cao hơn. Ở Tiểu học, Tiếng việt
là mơn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là cơng cụ để giao tiếp và tư duy. Không
một quốc gia nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu

học. Đó là mơn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe –
nói – đọc – viết. Trong mơn Tiếng Việt thì phân mơn Tập làm văn lại chiếm 1 vị trí
khá quan trọng.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 có 3 dạng bài được thiết kế tổng cộng 62
tiết/năm. Cụ thể như sau:
-Dạng văn Kể chuyện (19 tiết), dạng văn miêu tả (30 tiết), Các loại văn bản
khác (13 tiết) .
Như vậy chiếm phần lớn trong phân môn Tập làm văn ở lớp 4 là văn miêu
tả. Trong đó dạng bài văn tả cây cối thuộc thể loại văn miêu tả gồm 11 tiết chiếm
37% tổng số tiết trong văn miêu tả và chiếm 18,6 % trong tổng số tiết Tập làm văn
của chương trình. Ta thấy sự phân bố các tiết trong văn miêu tả cây cối được trình


3
bày rất lô gic, mỗi tiết được luyện tập một nội dung từ đơn giản đến phức tạp. Số
lượng văn tả cây cối chiếm nhiều tiết so với tổng số tiết văn miêu tả nên việc rèn kĩ
năng viết văn miêu tả nói chung, văn tả cây cối nói riêng là rất quan trọng.
2.2. Thực trạng học sinh của lớp 4A làm bài văn miêu tả khi chưa áp dụng các
giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm này.
2.2.1. Thuận lợi:
Trường Tiểu học Lâm Xa, có đủ điều kiện về CSVC đáp ứng được yêu cầu
dạy và học; đội ngũ CBGV đủ về cơ cấu, số lượng, trình độ đào tạo chuẩn 78,3%;
được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, ủng hộ; phụ huynh đồng
thuận. Trong những năm qua, nhà trường ln hồn thành tốt nhiệm vụ năm học,
được tặng nhiều danh hiệu và hình thức khen thưởng cấp huyện, cấp tỉnh. Đây là
những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường trong năm
học.
2.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh thuận lợi, nhà trường cũng có những khó khăn ảnh hưởng đến việc
thực hiện nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường.

Đó là: Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương cịn khó khăn, học sinh chủ
yếu là người dân tộc; trình độ dân trí và điều kiện kinh tế giữa các phố, trong thị
trấn không đồng đều; nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con cái,
cịn giao phó cho nhà trường, để con cho ông bà đi làm ăn xa; một số học sinh
chưa thật sự chăm chỉ, kết quả học tập chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học
đặc biệt là phân mơn Tập làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung.
2.2.3. Thực trạng:
*Đối với giáo viên:
Qua dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp ở trường Tiểu học Lâm Xa , tôi nhận
thấy giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học, bám sát nội dung trong sách giáo
khoa, biết vận dụng một số hình thức dạy học để học sinh chiếm lĩnh kiến thức.
Nhưng việc vận dụng phương pháp, hình thức dạy học lại chưa linh hoạt, giáo viên
chưa chủ động trong việc tổ chức các hoạt động, các hình thức tổ chức dạy học để
học sinh phát triển năng lực một cách chủ động, giáo viên chỉ chú trọng lí thuyết,
coi nhẹ rèn luyện kĩ năng, chỉ hướng dẫn chung chung đôi lúc cho học sinh đọc
văn mẫu rồi gần như học thuộc, chép lại hoặc để học sinh tự mày mò...Một số giáo
viên chưa thật sự nắm vững chương trình phân mơn Tập làm văn của cấp học; một
số ít giáo viên tuổi cao, ít dạy khối 4,5 xong lại ngại tham khảo thêm các tài liệu...
*Đối với học sinh:
Qua tìm hiểu thực tế việc học văn miêu tả của học sinh lớp 4 trường Tiểu học
Lâm Xa, nhiều em không muốn viết bài văn, đoạn văn, bài tập về đặt câu hoặc có
viết chỉ là mang tính đối phó. Vì vậy đa số các em khi viết bài văn thường mắc
phải một số lỗi sau:
- Cách dùng từ miêu tả không phù hợp bởi vốn sống, thói quen và khả năng
tích lũy vốn hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong tác phẩm văn
học còn hạn chế.
-Lỗi do chưa biết cách quan sát nên các em thấy cái gì thì liệt kê viết ra cái
đó, khơng biết chắt lọc các chi tiết quan sát được.



4
- Lỗi do hạn chế vốn từ nên việc sử dụng từ còn lặp, dùng từ chưa đúng, viết
câu cụt, kể lể, ít hình ảnh.
- Lỗi do sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa một cách tùy tiện, chưa phù
hợp vào viết văn.
- Lỗi do chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong bài.
Từ những thực trạng trên cho thấy việc rèn cho học sinh viết được đoạn văn
đúng về nội dung, đảm bảo về hình thức cũng đã khó chưa kể đến việc cần phải
cho học sinh viết được bài văn có hình ảnh đẹp, có cảm xúc và giá trị nghệ thuật.
Vì vậy trong nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi cũng đã học hỏi, chia sẻ với đồng
nghiệp, nghiên cứu nhiều tài liệu nhưng vẫn chưa thấy tài liệu nào có cách hướng
dẫn cụ thể học sinh viết được bài văn miêu tả hay, sinh động. Từ thực tế đó tơi đã
suy nghĩ, trăn trở phải làm thế nào để các em có hứng thú, say mê học Tiếng Việt
nói chung, Tập làm văn nói riêng; giúp các em viết được bài văn hay và sinh động.
Tôi đã thưc hiện như sau:
Khi nhận lớp được một thời gian, tôi tiến hành khảo sát, cho học sinh viết
đoạn văn tả cây, tả con vật, kể về các nhân vật, kể về các việc làm tốt... Qua chấm
các bài làm của học sinh ở tất cả các thể loại văn, tôi nhận thấy điểm yếu nhất của
học sinh lớp tôi là viết đoạn văn tả. Vì vậy tơi mạnh dạn đưa ra một vài cách kiểm
tra để tìm nguyên nhân, hướng giải quyết.
- Kiểm tra lại kiến thức kĩ năng của các em ngay tại lớp qua kiểu bài văn
miêu tả đồ vật mà các em đã được học ở tuần 14 .
Đề bài : Em hãy tả lại một đồ vật của em (hoặc bạn em) mà em thích nhất.
Với đề bài này tơi đã tiến hành kiểm tra khả năng làm bài văn miêu tả của
học sinh lớp 4A tôi dạy và lớp 4B lớp đối chứng. Kết quả đạt được như sau:
Lớp
4A
4B

Số học

sinh được
kiểm tra
23 em
17 em

Hoàn thành tốt
Số bài
2
1

%
8,7
5,9

Hoàn thành
Số bài
9
10

%
39,1
58,8

Chưa hoàn
thành
Số bài
%
12
52,2
6

35,3

Qua kết quả bài làm của học sinh, tỉ lệ học sinh chưa hồn thành khá cao vì
vậy tơi đã tiến hành khảo sát để xem học sinh nắm kiến thức lí thuyết như thế nào
qua một số câu hỏi sau:
+ Để làm tốt bài văn miêu tả trước hết ta cần phải làm gì?
+ Khi quan sát các em cần chú ý điều gì?
+ Bài văn miêu tả gồm mấy phần? Đó là những phần nào?
+ Để viết được câu văn, bài văn miêu tả hay, sinh động ta thường dùng
những biện pháp nghệ thuật nào?
Với các câu hỏi khảo sát như trên đa số học sinh có bài mức Hoàn thành và
Hoàn thành tốt được kiểm tra đều trả lời một cách trôi chảy. Từ thực trạng trên tơi
đã tiến hành tìm hiểu ngun nhân những điểm yếu trong bài làm của học sinh để
tìm giải pháp khắc phục.


5
Có thể nói có nhiều ngun nhân xong tơi đã tìm ra một số nguyên nhân cơ
bản sau:
- Các em chưa có thói quen đọc sách, đọc truyện để tích lũy vốn từ, nếu đọc chỉ là
đọc truyện tranh ngôn ngữ cộc lốc; một số ít học sinh đã chuẩn bị bài trước khi đến
lớp nhưng lại không thực hiện đầy đủ các yêu cầu của bài tập.
- Chưa biết tự khám phá kiến thức mới vì vậy khi làm bài chưa có kỹ năng vận
dụng kiến thức lí thuyết vào thực hành. Cụ thể là :
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành tốt: Tuy học sinh đã nắm vững yêu cầu
và nội dung miêu tả, biết lồng cảm xúc của mình khi miêu tả nhưng sử dụng biện
pháp nghệ thuật đặc trưng như so sánh, nhân hố cịn rất hạn chế.
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành: Các em chưa sử dụng biện pháp nghệ
thuật đặc trưng, chưa lồng được cảm xúc của mình vào bài văn miêu tả, hệ thống
từ gợi tả, gợi cảm cịn ít dẫn đến bài văn thiếu sinh động.

+ Những bài văn đạt ở mức chưa hoàn thành các em chưa nắm được phương
pháp quan sát, tìm ý, bố cục chưa rõ ràng, chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật, khi
viết câu; dùng từ chưa hợp lý; chưa biết xác định nội dung bài văn miêu tả; chưa
bộc lộ được cảm xúc trong bài văn miêu tả; nội dung sơ sài.
Vì vậy, luyện kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh là rất cần thiết và cấp
bách.
2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng cho học sinh lớp 4A làm tốt văn miêu tả:
2.3.1. Đối với giáo viên đứng lớp:
Cần tìm hiểu và nắm vững chương trình sách giáo khoa toàn cấp học để giúp
các em củng cố lại kiến thức đã học về văn tả ở lớp 2, văn kể chuyện ở lớp 3. Qua
từng tiết học đối với từng bài cụ thể để từ đó các em vận dụng kiến thức đã học vào
viết bài văn miêu tả.
Mặt khác, giáo viên cần tham khảo thêm tài liệu, sách hướng dẫn giảng dạy, tạp
chí giáo dục của Bộ Giáo dục, tạp chí Giáo dục Thanh Hố để chọn ra phương
pháp thích hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
2.3.2. Đối với học sinh:
Các em cần có thói quen chuẩn bị bài ở nhà, tích cực xây dựng bài, rèn tính
độc lập, tự giác, sáng tạo trong các giờ học.
Tổ chức học nhóm để cùng trao đổi những điểm vướng mắc.
Tham khảo một số bài văn miêu tả ở các tài liệu. Sưu tầm các đoạn văn, bài
văn miêu tả hay để cùng nhau tham khảo.
Bồi dưỡng cho mình tình u văn học bằng thói quen đọc sách và đọc có
chọn lọc. Hiểu được nội dung văn bản và biện pháp nghệ thuật của bài thơ, bài văn
đó; biết ghi chép những chi tiết, những hình ảnh, những đoạn thơ, đoạn văn đặc
sắc; biết lắng nghe và chắt lọc những ý của bạn, của thầy cô. Biết tổng hợp kiến
thức để bổ sung thêm cho vốn kiến thức của mình.
+ Có thể nói kĩ năng làm văn, đặc biệt là kĩ năng viết bài văn miêu tả của học sinh
còn nhiều hạn chế. Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng
dạy và học địi hỏi giáo viên phải có những giải pháp hợp lí.



6
* Giải pháp 1: Dạy học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả:
Điều kiện cơ bản và cũng là phương pháp cơ bản để làm tốt bài văn miêu tả là
phải biết quan sát và chọn lọc những chi tiết quan sát được. Mọi kết quả quan sát
được thể hiện trong bài văn miêu tả. Quan sát kĩ, thấu đáo bài viết sẽ đặc sắc, hấp
dẫn. Quan sát hời hợt phiến diện bài viết sẽ khô khan, nông cạn. Đặc biệt trong văn
miêu tả, khi quan sát đồ vật, cây cối hay con vật thì học sinh được rèn luyện cách
quan sát, đối tượng quan sát có quan hệ gần gũi giữa người và vật, giữa người và
thiên nhiên từ đó làm cho các em có tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với
người và vật xung quanh trẻ...
Một số học sinh do chưa nắm được phương pháp quan sát dẫn đến bài văn
có nội dung sơ sài, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Đối với những học
sinh này cần hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát. Kỹ năng quan sát chủ
yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thường khi học tiết quan sát, tìm ý, các
em khơng tự giác, hoặc quan sát sơ lược, đơn giản,… Để khắc phục điều này tôi
hướng dẫn học sinh ra sân trường quan sát thực tế từng loại cây và hướng dẫn học
sinh cách quan sát. Đó là khi quan sát, các em cần chọn cho mình một vị trí quan
sát thích hợp và khơng nhất thiết phải là một vị trí cố định. Có thể là từ xa rồi đến
gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên, …Đặc biệt khi quan sát nên
dùng tối đa các giác quan như: Thị giác(mắt) quan sát vóc dáng, kích thước, màu
sắc. Xúc giác (tay) xoa trên thân cây, trên mặt lá, Thính giác (tai) nghe tiếng gió,
tiếng chim, tiếng lá thầm thì, Thị giác (mũi) ngửi hương thơm của hoa và vị giác
(lưỡi) để nếm vị ngọt, chua của quả, …

Hình ảnh học sinh lớp 4A quan sát cây hoa ở sân trường.
Khi học sinh đã biết quan sát tốt giáo viên cần lưu ý cho học sinh là khi
quan sát cần ghi chép lại các ý vào vở nháp. Ý đi liền với từ để diễn đạt. Bước này
chưa yêu cầu các em diễn đạt thành câu văn hay có hình ảnh xong các em đã phải
biết lựa chọn ý, lựa chọn từ ngữ thích hợp để diễn đạt ý. Kết quả cuối cùng của



7
việc quan sát là học sinh tìm được các ý, các chi tiết cần thiết chuẩn bị cho bài văn
miêu tả.
Đối với những học sinh khá, giỏi cần đi vào trọng tâm của đối tượng được
miêu tả nhằm rèn luyện sự tinh tế trong quan sát đó là phát hiện ra những điểm đặc
sắc ít người thấy.
Ví dụ: Nhìn chiếc lá bàng rơi có học sinh nhận ra cái dáng "lìa cành chênh
chếch bay nghiêng", hay những chiếc lá bàng mới đâm chồi nhỏ xíu trơng như
những bàn tay em bé vẫy vẫy chào đón em tới trường . Hay sự chuyển màu của lá
vào các mùa từ xanh nhạt, xanh đậm, rồi màu đồng hun của lá bàng mùa đông...
* Giải pháp 2: Lập dàn ý chi tiết bằng cách vẽ “sơ đồ tư duy’’ xây dựng nội
dung bài văn miêu tả:
Qua thực hành quan sát, ghi chép, thu thập được các ý học sinh cần phải lựa
chọn ý, sắp xếp ý để xây dựng dàn bài cho bài văn miêu tả.
- Phần lập dàn bài cũng là một bước quan trọng để viết bài văn đầy đủ nội
dung và đủ ý, không lộn xộn. Để gây hứng thú cho học sinh khỏi nhàm chán mà
các em lại có cơ hội phát huy tối đa sự sáng tạo bài văn của mình. Cũng là dịp để
các em phát triển cân bằng bán cầu não trái và bán cầu não phải (Một phương
pháp dạy học đang được các nhà Sư phạm quan tâm) .Tôi cho học sinh lập Sơ đồ
tư duy. Sau đó, cho học sinh trình bày dàn ý trên sơ đồ tư duy này. Đây cũng chính
là bước làm văn miệng.


8
Dưới đây là hình ảnh em Ngơ Thái Bảo đang trình bày dàn bài miêu tả con vật
trên Sơ đồ tư duy.

Em Phạm Kiến Bình học sinh lớp 4A đang trình bày dàn ý tả cây cối bằng Sơ đồ

tư duy.
Sau khi học sinh trình bày xong tơi cho học sinh dựa vào Sơ đồ tư duy phát
triển từng ý nhỏ. Nhìn vào từng nhánh để phát triển ý nhỏ hơn theo khả năng từng
học sinh. Ví dụ ở nhánh thứ nhất trên sơ đồ tư duy là: Tả bao quát các em có thể trả
lời các câu hỏi như:
- Nhìn từ xa, tầm cao, ngọn và lá cây như thế nào?
- Đến gần, mặt đất, dưới gốc, cành to, rễ phụ ra sao ,trơng giống cái gì?
Sau khi xây dựng xong ý tả bao quát tôi hướng dẫn các em tả chi tiết từng bộ
phận của cây. Chú ý đến sự liên kết giữa các bộ phận được miêu tả.
Giáo viên hỏi: Em sẽ tả những bộ phận nào của cây?
Học sinh nêu, giáo viên cho học sinh hỗ trợ bổ sung ý kiến cho nhau. Sau đó
tơi chốt lại:
- Chọn một số bộ phận và tả chi tiết các bộ phận đó như: Gốc, thân, lá, hoa,
quả,...
Bên cạnh nội dung trên tơi cịn lưu ý học sinh tả khung cảnh thiên, hoạt động
của người hay vật có liên quan đến cây.
Các chi tiết liên quan đến sự vật : mưa xuân, nắng mùa hạ, gió mùa thu, chim
chóc, ong bướm, âm thanh của tiếng chim,…Đặc biệt là con người cùng những
tình cảm gắn bó với cây, sự chăm sóc, bảo vệ cây,..
- Cây có ích lợi gì ? (cho bóng mát, cho ta quả, bảo vệ bầu khơng khí trong
lành.)
Như vậy mỗi em mỗi ý, mỗi ‘‘vẽ” khác nhau nhưng vẫn đảm bảo đủ ý chính.


9
Tuy nhiên, nếu chỉ đủ ý chính thì bài văn chưa đạt, một bài văn hay cần phải phong
phú về nội dung. Do đó tơi cho các em tuỳ chọn nội dung viết theo yêu cầu của đề
bài.
Với việc làm như trên thì học sinh đã lập được dàn ý một cách dễ dàng và học
sinh có kĩ năng lập dàn ý tốt.

Ví dụ: Hãy tả một cây hoa mà em thích nhất”. Có học sinh chọn tả cây hoa
hồng, có học sinh chọn tả cây hoa Cúc, có học sinh chọn tả cây hoa đào… Như
vậy, nội dung bài của học sinh vừa đủ ý, vừa phong phú về nội dung và đảm bảo
đúng trọng tâm.
*Giải pháp 3: Dạy học sinh cách diễn đạt bài văn miêu tả có nghệ thuật:
a. Hướng dẫn cách thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại:
Xây dựng nội dung bài văn miêu tả ở trên mới là “Một sườn bài” đủ ý. Để
bài văn sinh động có nghệ thuật các em phải trau dồi qua tiết làm văn luyện tập xây
dựng đoạn.
Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng dẫn các em trả lời bằng
nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngơn ngữ chính xác, gợi hình ảnh. Hướng dẫn các
em quan sát bức tranh cùng vui chơi và trả lời câu hỏi “Hai bạn học sinh chơi cầu
như thế nào?” (bạn này làm gì? bạn kia làm gì?). Nếu các em nói “Hai bạn đang
chơi đá cầu” thì đây là nhận xét sơ lược, kết quả của sự quan sát hời hợt hoặc thiếu
phương pháp. Giáo viên khơng bằng lịng với câu trả lời này mà cần gợi ý thêm
“Các em quan sát kỹ xem mỗi bạn đang làm gì?”. Nếu học sinh trả lời “Hai bạn
đang đá cầu. Một bạn đá cầu đi, bạn kia chuẩn bị đón quả cầu”. Câu trả lời chi tiết
hơn nhưng chưa cụ thể. Giáo viên gợi ý thêm “Em quan sát và nhận xét rõ hơn
động tác từng bạn”. Để học sinh có thể trả lời cụ thể hơn “Hai bạn đang đá cầu.
Bạn bên trái hơi khom người đá mạnh chân về phía trước. Quả cầu bay lên vạch
đường đi trong khơng khí. Bạn bên kia hơi ưỡn người đưa chân về phía sau chuẩn
bị tung ra đón quả cầu khi nó bay tới”.
Ở mức độ cao hơn giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào trọng tâm của cảnh
vật, con người…
b. Hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh:
Ngồi việc hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ miêu tả như động từ, tính
từ, hệ thống các từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình để diễn đạt câu văn sinh
động, có hình ảnh. Tơi hướng dẫn các em lựa chọn hình ảnh, sử dụng một số biện
pháp tu từ như so sánh, nhân hoá, … trong khi làm văn miêu tả. Nhờ vận dụng
những biện pháp này mà tư duy, trí tưởng tượng của trẻ cũng được rèn luyện.

Trong các tiết dạy tôi hướng dẫn học sinh thông qua việc trả lời câu hỏi
nhằm mục đích giúp học sinh phát hiện những câu văn miêu tả có sử dụng các biện
pháp nghệ thuật.
Ví dụ: Khi "Tả cái trống trường em" tơi hỏi về hình dáng, mặt trống, thân
trống thì học sinh đã biết vận dụng những biện pháp so sánh, nhân hố để tả như:
- Bác trống có thân hình vạm vỡ, to lớn trông bệ vệ oai nghiêm. Bác luôn
ngự trên giá gỗ.
- Mặt trống được làm bằng da trâu, căng ở hai mặt trên dưới nhìn tựa như bề
mặt nồi tráng bánh cuốn.


10
Hay như khi “Tả con mèo của em” tôi hỏi: Hình dáng (đầu, mình, chân, …),
tính nết hoạt động của con mèo có thể tả bằng những câu văn có sử dụng biện pháp
so sánh (hoặc nhân hóa) như:
- Mình chú to gần bằng cái phích.
- Chú khốc trên mình chiếc áo màu xám.
- Đầu chú tròn và to như quả cam sành .
- Mắt chú long lanh như ngọc và trịn xoe như hai viên bi.
- Bình thường chú nhõng nhẽo như một cô nàng tiểu thư.
- Khi thấy chuột cơ rón rén đến gần nhanh như một tia chớp, lao tới chộp
gọn lấy cổ tên chuột nhắt.
Những câu hỏi gợi ý, cách diễn đạt của học sinh tôi thường theo dõi trong
khi học sinh làm miệng, nếu học sinh chưa sử dụng được biện pháp nghệ thuật thì
tơi gợi ý để học sinh khác bổ sung, sửa lại.
Ví dụ:
Trong bài văn tả cây cối có em nêu: “Cây bàng này thật chẳng có gì đặc biệt.
Vỏ nó xù xì. Tán xoè rộng che mát cả một sân trường”. Khi học sinh nêu miệng tôi
nhận xét nội dung đúng, câu văn ngắn gọn, rõ ý nhưng để sinh động hơn ta có thể
trình bày như thế nào?

Học sinh khác trả lời: Có thể sửa là: “Cây bàng này thật chẳng có gì đặc biệt.
Vỏ nó xù xì, phồng rộp và dày như bánh đa nướng. Tán bàng xoè rộng như một cái
ơ che mát cả một góc sân trường”.
Hoặc khi tả rễ cây bàng có em viết: “Qua một trận mưa to đất ở chỗ cây
bàng trôi hết để lại bộ rễ ngoằn ngoèo trên mặt đất”.
Để có câu văn hay hơn tơi hỏi các em:
- Bộ rễ bị ngoằn ngoèo trên mặt đất gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh gì?
Học sinh trả lời. Giáo viên yêu cầu học sinh sửa lại câu văn,và học sinh đã
sửa: “Trận mưa hôm trước đã làm cho đất ở gốc cây trôi hết để lộ bộ rễ ngoằn
ngoèo trên mặt đất trông như những con rắn hổ mang”.
Với cách dạy như vậy, tôi thấy hầu như các em đều biết sử dụng và còn
hứng thú sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, cách diễn đạt của
các em khi viết văn ngày càng tiến bộ, hay hơn, sinh động và phong phú hơn.
* Giải pháp 4: Hình thành kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả:
Bài văn miêu tả hay, không thể thiếu cảm xúc. Nếu thiếu cảm xúc bài văn sẽ
trở nên khô khan thiếu sinh động, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà
còn thể hiện trong từng câu văn, từng đoạn của bài văn.
Điều này tôi thường gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài văn.
Ví dụ: "Hãy nêu cảm nghĩ của em khi phải rời xa mái trường, xa bác trống
trường?". Trong bài tả cái trống trường học sinh trả lời: Bác trống trường thực sự là
bạn đồng hành của thời học sinh chúng em. Mai đây chúng em lớn lên, có thể đi
đến bất cứ nơi nào trên Tổ quốc, xong mãi mãi tiếng trống trường vẫn văng vẵng
trong kí ức, …
Hay “ Đứng dưới gốc phượng em có cảm nghĩ gì ?”.


11
Học sinh trả lời: Đứng dưới gốc phượng em thấy yêu sao cây phượng đã tô
thêm vẻ đẹp của ngôi trường, góp phần cho Tổ quốc thêm xanh, cho bầu khơng khí
thêm dịu mát...

Khi gần gũi với chú chó em có cảm giác thế nào? “Chó đã trở thành người
bạn thân của em từ lúc nào không rõ. Em thường để dành cho nó những con tơm,
con cá câu được ở sông, …”.
Tương tự như vậy tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc,
nhận xét trước một sự vật, đối tượng miêu tả. Bài văn miêu tả của học sinh tránh
được những điểm khô khan liệt kê các bộ phận miêu tả. Thấm đượm cảm xúc của
người viết.
Kết hợp các yếu tố tìm ý cho bài văn, xây dựng nội dung miêu tả, diễn đạt
bài văn miêu tả có nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc sẽ làm cho bài văn miêu tả của
học sinh trở nên sinh động, đạt kết quả cao. Tạo tiền đề để các em học tốt các thể
loại văn khác như kể chuyện, tường thuật, tả cảnh sinh hoạt, …
Tất cả những điều tơi đã trình bày trên đây là những vấn đề khái quát bao
trùm cả quá trình dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả. Để thực hiện vấn đề đó
phải phát huy vai trị chủ đạo của thầy và chủ động của trị trong q trình dạy học.
Cụ thể là:
Đối với giáo viên:
- Khâu chuẩn bị đầu tiên là thiết kế bài hợp với 3 đối tượng học sinh, để học
sinh cả lớp được làm việc, chiếm lĩnh kiến thức của bài.
- Quá trình lên lớp đây là quá trình làm việc đầy sáng tạo của thầy và trò trên
lớp. Thầy với vai trò hướng dẫn, học sinh với vai trò chủ động, giáo viên nắm
vững năng lực, trình độ của học sinh để thực hiện phương pháp “Lấy học sinh làm
trung tâm”. Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học qua những buổi tham
quan, quan sát, thực tế để tìm tư liệu cho bài viết. Hướng dẫn các em sử dụng sách
giáo khoa và vở bài tập một cách khoa học. Luôn trân trọng ý kiến học sinh, quan
tâm hơn đến những học sinh chưa hoàn thành với những câu hỏi gợi mở xem các
em vướng mắc ở chỗ nào để hướng dẫn, sửa chữa kịp thời, với những học sinh
hoàn thành và hồn thành tốt thì cần khuyến khích những nét sáng tạo trong bài
làm của em.
Tôi luôn kiểm tra, đánh giá và khen ngợi kịp thời sự tiến bộ của học sinh qua
từng tiết học, từng bài viết để uốn nắn bổ sung những điểm còn yếu, phát huy

những nét sáng tạo tiến bộ của học sinh.
Từ thực tế trình độ học sinh của lớp mình, tơi vừa chú ý rèn chung cho cả
lớp vừa quan tâm đến chất lượng mũi nhọn để có đội tuyển dự thi giao lưu câu lạc
bộ Tiếng Việt do huyện tổ chức vào tháng 3. Song song với việc bồi dưỡng cho câu
lạc bộ tôi chăm lo đến trình độ chung của học sinh để nâng dần chất lượng của bài
văn miêu tả nói riêng và phân mơn tập làm văn nói chung.
Mặt khác trong khi dạy các môn học khác tôi luôn nhắc nhở các em tích lũy
vốn kiến thức để viết bài văn miêu tả.
Với cách làm này khi viết bài văn các em đã bộc lộ được cảm xúc của mình
rất rõ rệt khi viết bài văn miêu tả làm cho bài văn của các em sinh động, rất giàu
cảm xúc.


12
*Giải pháp 5: Hình thành kỹ năng tích lũy vốn từ ngữ thông qua các phân
môn khác:
Như chúng ta đã biết mỗi mơn học đều có mục tiêu riêng. Xong các em phải
làm gì để đạt được mục tiêu ấy ngồi mục tiêu chính đó ra, nếu người giáo viên
biết khai thác để mở rộng kiến thức cho học sinh thì ta thấy tất cả các mơn học đều
bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Nhất là trong môn Tiếng Việt thì phân mơn Tập
làm văn lại là sự “tích hợp” kiến thức của tất cả phân mơn cịn lại. Các em học tốt
các phân môn như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, … thì các em sẽ học tốt
phân mơn Tập làm văn. Vì thế thơng qua từng phân môn của môn Tiếng Việt tôi
đều chú ý giúp các em khai thác tốt nội dung này.
a. Thơng qua phân mơn Tập đọc:
Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng. Việc giúp học sinh
tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và sử dụng vốn từ ngữ đó một cách chính xác, hợp lý là
vấn đề quan trọng của mọi giáo viên. Trong các bài tập đọc thuộc thể loại văn miêu
tả thì số lượng từ miêu tả rất phong phú, cách sử dụng rất sáng tạo. Tài liệu hướng
dẫn học Tiếng việt 4 thì các loại bài tập đọc lại được biên soạn theo tuần, theo chủ

điểm. Thường thì ứng với mỗi chủ điểm là các dạng Tập làm văn mà các em đang
học. Vì vậy thơng qua các bài tập đọc tôi giúp các em chỉ ra các từ ngữ miêu tả
hay, đã được chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả chọn một vài
trường hợp đặc sắc để phân tích kỹ giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của các
nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Sầu riêng, trong lúc phân tích đoạn 1, tơi giúp các em
hiểu rằng để tả hương vị đặc biệt của quả sầu riêng tác giả đã sử dụng các điệp
từ: “ thơm mùi thơm”,“béo cái béo”,“ ngọt cái vị ngọt”. Đến lúc phân tích đoạn 3
tôi giúp các em nhận thấy tác giả sử dụng hàng loạt các từ ngữ đã được chọn lọc,
nghệ thuật so sánh:“Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột - Lá nhỏ
xanh vàng, hơi khép lại tưởng như lá héo”.....
.
Qua đó, tơi giúp học sinh hiểu rằng người ta có thể mượn hình ảnh này để ca
ngợi một hình ảnh khác ( mượn cái khơng đẹp của thân cây sầu riêng để làm tăng
thêm hương vị của trái sầu riêng).
Ví dụ 2: Khi dạy đến bài “Hoa học trị” , trong phần tìm hiểu bài tơi giúp các
em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu. Để giúp
người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp. Tác giả đã sử
dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó:“Phượng khơng phải là một
đóa, không phải vài cành. Phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời
đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa
hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xịe ra như mn ngàn
con bướm thắm đậu khít nhau”
Để giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp nhiều
giác quan. Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me
non.” Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt (xanh um),
xúc giác ( mát rượi), vị giác ( ngon lành). Như vậy các từ ngữ miêu tả trong các
bài tập đọc rất đa dạng và phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây
ấn tượng. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các bài Tập đọc cũng rất là



13
sáng tạo. Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích lũy thêm vốn từ và học cách sử
dụng chúng, đồng thời thông qua các bài tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu thêm
rằng để một bài băn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp
lý.
b. Thông qua phân môn Luyện từ và câu:
Mục tiêu chính của luyện từ và câu là giúp học sinh mở rộng vốn từ; cách sử
dụng từ chính xác, cách viết câu đủ ý. Khi dạy về các nội dung mở rộng vốn từ
theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa của các từ ngữ, các thành ngữ,
các câu tục ngữ thuộc chủ điểm đó. Từ đó sẽ giúp các em sử dụng các từ ngữ đó
chính xác, hợp lý. Để tích lũy vốn từ cho học sinh tơi cho học sinh tìm thêm các từ
đồng nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa.
Ví dụ: Khi miêu tả cần sử dụng các tính từ các em cần thành thạo việc tạo ra
mức độ của nó bằng cách tạo ra từ ghép, từ láy như tính từ “ đỏ” dùng để miêu tả
hoa hồng (hoa phượng) ta có thể tạo ra: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như
son, đỏ như lửa, … tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ
nào cho phù hợp.
Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngồi việc dạy các
em cách viết câu đúng, tơi ln tìm cách dạy các em cách viết câu văn có hình ảnh.
Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý bên cạnh
một câu văn vừa đủ ý vừa có hình ảnh để các em so sánh.
Ví dụ: Tả hình dáng của một cây bàng cổ thụ, tôi đưa ra hai câu:
- Câu 1: Cây bàng cao lớn.
Câu 2: Nhìn từ xa, cây bàng cao lớn như một chiếc ô màu xanh khổng lồ
xoè rộng che mát một khoảng sân trường.
- Câu 3: Từ xa, cây cao lớn như toà nhà khổng lồ màu xanh mát.
Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả lời là
câu 2,3 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể nó cao lớn đến chừng
nào. Với giải pháp này, tôi đã rèn cho học sinh kỹ năng viết câu văn có hình ảnh,

đủ ý.
c. Thơng qua phân mơn Chính tả:
Như ở phần thực trạng tơi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi chính tả
rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc. Vì vậy trong tất cả các tiết chính tả,
tơi ln chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng chính tả (đây cũng là mục tiêu
của phân mơn Chính tả). Ngồi ra thơng qua giờ chính tả, tơi cũng giúp các em tích
lũy thêm vốn từ ngữ miêu tả và cách sử dụng chúng.
Ví dụ: Khi dạy đến bài chính tả tuần 21, trong phần bài tập có bài: “ Chọn
những tiếng thích hợp trong ngoặc đơn để hồn chỉnh bài văn sau”. Sau khi cho
học sinh thực hiện theo yêu cầu của bài, tôi gọi học sinh đọc lại bài văn. Sau đó tơi
đưa ra một số câu hỏi mở rộng nhằm mục đích có thể vận dụng nó vào việc học
phân mơn Tập làm văn.
- Bài văn thuộc thể loại văn gì? Kiểu bài gì? ( Bài văn thuộc thể loại văn miêu tả,
kiểu bài tả cây cối).
- Tác giả đã quan sát cây theo trình tự nào? (Từng bộ phận của cây).


14
- Trong bài văn này tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Lấy ví dụ minh
họa ( nghệ thuật so sánh, ví dụ như: thân thẳng như thân trúc. Năm cánh đài đỏ tía
như ức gà chọi, đỏ suốt từ đời hoa sang đời kết trái. Trái kết màu chín đậm, óng
ánh như những hạt cườm, …)
- Em học tập được gì qua bài văn này? (Học được cách miêu tả, cách dùng từ, sử
dụng các biện pháp nghệ thuật).
Qua tất cả các phân môn này, người giáo viên có thể khéo léo khai thác để
làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả) và giúp học sinh biết cách sử
dụng chúng một cách hợp lý. Song do đặc trưng của môn học, mỗi giờ học chỉ
thiên về một mặt nào đó. Nó chỉ hỗ trợ để học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm
văn. Vì thế người giáo viên khơng thể lạm dụng để biến nó thành một giờ dạy Tập
làm văn chính.

d.Thơng qua việc đọc thêm sách báo, truyện đọc có lựa chọn. Đưa học sinh
đến với các tác phẩm văn học có nội dung miêu tả.
Đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học là nhiệm vụ đầu tiên trong các
giải pháp rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Tâm lí học sinh Tiểu học nói chung
các em chỉ thích đọc các câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết và thích
khám phá những điều mới lạ, khơng thích đọc những bài văn có nội dung miêu tả
đơn thuần, đặc biệt là tả về những loài cây mà các em đã biết. Song nội dung
chương trình dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4 lại yêu cầu các em tả về một số đồ
vật, cây cối, con vật quen thuộc. Để tạo hứng thú cho học sinh tôi đã nhẹ nhàng
đưa các em đến với tác phẩm văn học có nội dung miêu tả bằng cách: Làm giàu
thư viện lớp học, khuyến khích động viên các em đọc truyện, đọc báo trong giờ ra
chơi, các tiết học ngoại khố ở khn viên rộng, thoải mái tạo cho các em sự hứng
thú,...

Trên đây là hình ảnh học sinh đọc báo ở sân trường giờ giải lao.
* Giải pháp 6. Rèn kĩ năng viết bài văn cho học sinh.
Viết bài văn là sản phẩm cuối cùng của học sinh. Phần này tôi tiếp tục cho
học sinh quay lại Sơ đồ tư duy để các em hình dung tồn bộ bài viết của mình.
a) Rèn kĩ năng viết mở bài:


15
Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Khơng nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho
các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của
từng em. Khi viết theo kiểu mở bài nào cũng cần phải thổi được cái hồn cho bài
văn. Khi giảng dạy, tôi cho học sinh viết nhiều lần với những mở bài khác nhau đối
với cùng một đề bài sau đó rút ra những vấn đề chung:
- Cách mở bài trực tiếp: Giới thiệu con vật /cây cối/đồ vật gì? Ở đâu? Có từ
bao giờ? Vì sao có? …

- Mở bài gián tiếp: Giới thiệu con vật /cây cối/đồ vật thông qua một câu
chuyện, một kỷ niệm, một sự kiện, một bài hát, một đoạn thơ, nêu cảm xúc… về
đối tượng sẽ tả.
Với cách làm này thì HS đã biết viết mở bài thành thạo với nhiều đề bài
khác nhau và nhiều em đã có những mở bài rất hay, xúc tích lơi cuốn được người
đọc.
Sau khi hướng dẫn viết đoạn mở bài tôi tiến hành cho học sinh thực hành
viết, nhiều em đã nắm được cách viết và viết tốt đoạn mở bài.
Dưới đây là một số đoạn mở bài của học sinh.

b) Rèn kĩ năng viết thân bài:


16
Thông thường, khi làm văn, học sinh viết theo ba phần : Mở bài, thân bài,
kết bài. Do đó, ứng với ba phần là ba đoạn văn, mở bài và kết bài ngắn, thân bài
dài, dù nội dung văn nghèo nàn hay phong phú, dù lượng văn dài hay ngắn, dù đối
tượng miêu tả ít hay nhiều cũng chỉ một đoạn. Đây là hạn chế đáng tiếc mà ta bắt
gặp trong bài làm của học sinh. Vì vậy tơi đã giúp học sinh khắc khục tình trạng
này bằng cách:
Điều trước tiên tôi hướng dẫn học sinh phải xác định những ý cần triển khai
trong nội dung bài văn miêu tả để chia thân bài thành các đoạn văn tương ứng và
tôi đã hướng dẫn các em chia đoạn theo các cách sau:
Cách thứ nhất: Chia đoạn theo trình tự thời gian: tôi cho học sinh đặt đối
tượng miêu tả vào các khoảng thời gian khác nhau trong một năm thì theo bốn
mùa: xn, hạ, thu, đơng; trong một ngày thì có : sáng, trưa, chiều, tối.
Cách thứ hai: Chia đoạn theo trình tự khơng gian: tơi cho học sinh quan sát
đối tượng từ nhiều góc độ, nhiều hướng khác nhau: Từ xa nhìn lại, từ ngồi nhìn
vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn phía trước, phía
sau, nhìn tồn bộ hay nhìn chi tiết…

Cách thứ ba: Chia đoạn theo đối tượng miêu tả: hướng các em tả các bộ
phận, có thể tả một hoặc hai bộ phận một đoạn.
Tiếp theo tôi hướng dẫn các em cách mở rộng ý theo những hướng sau:
+ Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với
những đối tượng khác hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các mối quan hệ với
đối tượng xung quanh.
+ Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đặc điểm
về đường nét, hình dáng và màu sắc của đối tượng.
+ Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn tả là những câu văn nêu
cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét hay liên tưởng tới một kỉ niệm nào đó.
+ Mở rộng ý bằng cách miêu tả đặc điểm với lời giới thiệu về giá trị, về công
dụng, ích lợi của cây được tả.
Sau khi thực hiện được các công việc trên, tôi thấy học sinh đã viết được thân
bài hoàn chỉnh theo các đoạn miêu tả tương ứng. Như vậy tôi đã rèn được cho các
em kĩ năng viết phần thân bài đạt kết quả.
c) Rèn kĩ năng viết kết bài.
Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi
đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu
tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết
luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài
không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người
đọc. Vì vậy tơi đã gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng
cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng qua những câu hỏi mở, sau đó cho các
em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ
bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy tơi đã
hướng dẫn học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên
tục, từ tiết đầu tiên của mỗi dạng bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn,



17
tiết viết bài và ngay cả trong tiết trả bài, sau khi nhận xét bài làm của học sinh tôi
đã cho một số em viết phần kết bài chưa hay viết lại đoạn kết bài thì thu được kết
quả như sau:

Khi đã được giáo viên nhận xét, góp ý các em đã viết được đoạn kết bài hay
hơn giàu cảm xúc hơn.
* Giải pháp 7: Hình thành kỹ năng tự kiểm tra và đánh giá .
Với giải pháp này tôi áp dụng phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá kết quả
học tập môn Tiếng Việt theo hướng phát triển Phẩm chất và Năng lực (Chương
trình 2018). Cụ thể là đánh giá, chấm điểm đoạn văn, bài văn (đánh giá bằng
rubric, Bồi dưỡng thường xuyên Modun 3)
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Do đó
trong giảng dạy, và đặc biệt là tiết trả bài giáo viên cần đưa (công cụ đánh giá là
rubric ) và đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình dung, hiểu rõ cách làm. Vì
vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét và hướng dẫn học sinh chữa lỗi, tôi
chọn những bài văn hay, đạt điểm cao của học sinh trong lớp để biểu dương, sau đó
đọc cho cả lớp cùng nghe. Đọc xong, tôi đặt ra một số câu hỏi để các em trả lời.
Ví dụ:
- Các em có nhận xét gì về bài làm của bạn?
- Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào?
- Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?
Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập được
chính bạn của mình. Ngồi ra trong q trình dạy học, tơi tích lũy được nhiều bài
văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi cho lần lượt các em đọc cho cả
lớp nghe rồi cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn.
Ngoài các giải pháp trên, tơi khuyến khích các em lập sổ tay văn học và hướng dẫn
các em cách sử dụng sổ tay văn học để ghi những từ ngữ miêu tả, những câu văn
hay, giàu hình ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, mà các
em đọc được trong sách báo, sách tham khảo, trong cuộc sống hàng ngày và trên

các phương tiện thông tin đại chúng. Mỗi ngày, các em tích lũy một từ hay một câu
văn hay cứ làm như vậy vốn từ ngữ của các em sẽ ngày càng giàu lên. Việc tự đánh
giá các bài văn của mình, của bạn giúp các em khơng ngừng tích lũy vốn từ để


18
học tốt hơn phân mơn Tập làm văn nói chung và kiểu bài miêu tả đồ vật, miêu tả
cây cối, miêu tả con vật nói riêng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục , với bản
thân , đồng nghiệp và nhà trường .
Qua hai năm giảng dạy và áp dụng những giải pháp trên tôi thấy chất lượng
làm văn miêu tả của học sinh lớp tôi chủ nhiệm đã được nâng lên rõ rệt so với lớp
4B. Tất cả các các em đều hứng thú, thích học, thích làm văn. Đặc biệt hơn trong
đó có em Ngơ Thái Bảo, Hà Hạnh Như đầu năm chỉ thích học Tốn các em rất ngại
viết văn đặc biệt là viết bài văn miêu tả. Vậy mà sau khi tôi áp dụng các giải pháp
trên các em là một trong những học sinh có thành tích Xuất sắc .Trong đợt giao lưu
Câu lạc bộ Tiếng Việt vừa qua các em đã đạt giải Nhất, giải Nhì. Điểm bài văn gần
như tuyệt đối. Câu lạc bộ Tiếng Việt lớp tôi được chọn tham gia giao lưu Câu lạc
bộ cấp cụm đạt giải Ba, xếp thứ năm toàn huyện.

Sau đây là kết quả đối chứng chất lượng làm văn đầu năm và kì II năm học 2020 2021 lớp 4A do tôi dạy và lớp đối chứng 4B bằng đề khảo sát chất lượng.
Đề bài: Hãy tả lại một loại cây mà em yêu thích.
Kết quả đạt được như sau:
Bảng số liệu kiểm tra kì II
Lớp

Hồn thành tốt

Hồn thành


Chưa hồn
thành


19

4A
4B
Lớp
4A
4B

Số học
sinh được
kiểm tra
23
17
Số HS được
kiểm tra
23
17

SL

Tỷ lệ
(%)

SL

Tỷ lệ

(%)

7
30,4
15
65,3
3
17,6
12
70,6
Bảng số liệu kiểm tra đầu năm
Hoàn thành tốt
Số bài
%
2
8,7
1
5,9

Hoàn thành
Số bài
%
9
39,1
10
58,8

SL
1
2


Tỷ lệ
(%)
4,3
11,8

Chưa hoàn thành
Số bài
%
12
52,2
6
35,3

Từ thực tế kết quả bài làm của học sinh, tôi nhận thấy vốn từ ngữ miêu tả
của các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử dụng
từ của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, các từ láy, các điệp từ ...Giờ học sơi
nổi hẳn lên, học sinh trong lớp có nhiều cách viết khác nhau, không trùng nhau mà
đều hay. Cụ thể: Số em hoàn thành tốt tăng lên 5 em, chiếm 30,4%, Số em hoàn
thành tăng thêm 6 em, chiếm 26,1% .. So với kết quả kiểm tra đầu năm thì kiểm tra
cuối học kì II cao hơn nhiều. Đặc biệt là số em mắc lỗi được giảm rõ rệt. Điều
đáng mừng là chỉ cịn 1em chưa hồn thành vì em này gặp khó khăn trong học tập
mơn Tiếng Việt (Đặc biệt là rất khó phát âm) và lại nhiều em chữ viết đẹp, bài làm
tốt, nhiều hình ảnh hay, sinh động và rất giàu cảm xúc. Điều đó chứng tỏ những
giải pháp mà tôi áp dụng đã thực sự góp phần "Nâng cao chất lượng viết văn miêu
tả cho học sinh lớp 4".
- Nhìn vào bảng số liệu trên thì thấy rất rõ, kết quả kiểm tra của lớp 4A do
tôi chủ nhiệm cao hơn hẳn so với lớp 4B.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

3.1. Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy mơn Tiếng Việt nói chung, phân
mơn Tập làm văn nói riêng, đặc biệt là dạy học sinh viết tốt bài
văn miêu tả ở lớp 4, mỗi giáo viên cần phải luôn luôn nghiên cứu,
sáng tạo ra những giải pháp hữu hiệu nhất để giảng dạy cho học
sinh. Ln ln chú trọng đến điểm tích hợp của chương trình
trong quá trình giảng dạy. Bằng những kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy, sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi
đã rút ra bài học sau:
* Đối với giáo viên :
+ Nắm vững chương trình của bộ mơn tồn cấp và từng lớp học. Nắm vững
kiến thức và dạy đúng phương pháp bộ môn, gây hứng thú trong giờ học.
+ Cần phải phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học, thường
xuyên kiểm tra, động viên, đánh giá kịp thời.


20
+ Cần phải chú ý hai yếu tố cơ bản đó là: phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học và nội dung dạy học.
Về phương pháp, hình thức dạy học giáo viên phải vận dụng
sáng tạo trò chơi học tập ở Tiểu học vào các tiết học phù hợp với từng
nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ
trách.
Về nội dung để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh
giáo viên phải chú ý rèn các kỹ năng lựa chọn từ ngữ, lựa chọn
hình ảnh, sử dụng hình ảnh đối lập, các biện pháp nghệ thuật
nhân hóa, so sánh, đảo ngữ, điệp ngữ khi miêu tả.
Ngoài các yếu tố trên, giáo viên phải chú ý khắc phục các lỗi
viết văn của học sinh cả về nội dung và hình thức trình bày như
lỗi về chính tả, lỗi viết câu, lỗi về ngữ pháp, lỗi về bố cục, lỗi diễn

đạt, lỗi trình bày… Hình thành cho học sinh thói quen tích lũy
những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong tác
phẩm văn học bằng cách giao việc về nhà sưu tầm, quan sát, lắng
nghe rồi viết những điều quan sát, nghe thấy trong cuộc sống .
Việc hướng dẫn học sinh viết văn miêu tả đạt kết quả cao
không phải là một sớm, một chiều, một tiết học nhất định. Vì thế
người giáo viên phải có lịng kiên trì và sự say mê nghiên cứu văn
học.
* Đối với học sinh:
- Các em phải có ý thức tự học, tự rèn luyện, đặc biệt là học
viết văn để tiếp tục học các bậc học trên.
- Đặc biệt các em phải trau dồi cho mình lịng say mê, u
thích văn học.
- Chăm chỉ tìm tịi và đọc nhiều loại sách để bồi dưỡng thêm
kiến thức về văn học và mở mang sự hiểu biết về thế giới tự nhiên và
thế giới xung quanh.
3.2. Kiến nghị:
Đề xuất với nhà trường:
- Tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên về chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm.
- Bổ sung và tăng cường sử dụng các tài liệu tham khảo về văn học ở tiểu học.
- Tạo điều kiện cho tôi được triển khai sáng kiến để được áp dụng rộng rãi trong
toàn trường.
Đề xuất với phòng GD&ĐT:
- Đối với những sáng kiến kinh nghiệm của những đồng chí giáo viên trong
ngành có giá trị áp dụng trong giảng dạy phòng giáo dục in ấn thành tập san để các
trường được học tập những kinh nghiệm q báu ấy.
- Có sự khuyến khích động viên đối với những giáo viên có những sáng
kiến kinh nghiệm hay.
- Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết được trong q
trình cơng tác tại trường Tiểu học Lâm Xa. Do thời gian và khả năng có hạn,

chắc chắn khơng thể tránh khỏi những hạn chế. Kính mong BGH nhà trường và


21
cấp trên góp ý để tơi tiếp tục hồn thiện sáng kiến để góp phần nâng cao nâng
cao chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh và góp phần thực hiện thành
công mục tiêu giáo dục Tiểu học của huyện nhà nói riêng và mục tiêu giáo dục
Tiểu học nói chung.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Cành Nàng, ngày 10 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung

của người khác.
Người thực
hiện

Lê Thị Lan

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu : Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, sách hướng dẫn giáo viên, sách
nâng cao Tiếng Việt, các bài văn mẫu …
2.Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả ở Tiểu học(Tài liêu tham
khảo dành cho giáo viên Tiểu học , sinh viên Sư phạm Tiểu học và cha mẹ học
sinh )
4.Phương pháp dạy Tiếng Việt Tập 1 (Giáo trình đào tạo Giáo viên Tiểu học)
5. Đọc và nghiên cứu thêm các tài liệu chuyên sâu, các tạp chí, chuyên đề giáo
dục, phương pháp dạy học văn miêu tả, những bài văn mẫu.
6.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phổ thông cốt cán Môdun 1,2,3 (Trương Đại học

Vinh)
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên -Ttrường Tiểu học Lâm Xa, huyện Bá
Thước.
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Một số biện pháp giúp học
Phịng
sinh lớp 2 học tốt phân mơn GD&ĐT Bá

Năm học
đánh giá xếp
loại
2006-2007



22
Luyện từ và câu.

Thước

C

2.

Một số biện pháp giúp
Phòng
học lớp Một học tốt mơn
GD&ĐT Bá
Tốn phần số học
Thước

C

2013-2014

3.

Một số biện pháp tạo hứng
Phòng
thúcho học sinh để nâng cao
chất lượng giảng dạy phân GD&ĐT Bá
Thước
môn kể chuyện lớp 3

C


2017-2018

4.

Một số giải pháp rèn kĩ năng
Phòng
làm tốt bài văn miêu tả cho
học sinh lớp 4 Trường Tiểu GD&ĐT Bá
Thước
học Lâm Xa

B

2020-2021



×