Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 học giải nghĩa từ trong môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.1 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
  
Phần I: Mở đầu……………………………………….Trang 2
1. Lý do chọn đề tài……………………................. Trang 2
2. Mục đích nghiên cứu…….…..…….....................Trang 3
3. Đối tượng nghiên cứu …………..……............... Trang 3
4. Phương pháp nghiên cứu……………………… Trang 3
5.Những điểm mới của skkn………………………Trang3
Phần II: Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm……...Trang 3
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm………..Trang 3
2 . Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm…………………………………………………. Trang 4
3. Các giải pháp thực hiện…………………………....Trang 7
Phần 3: Kết luận, kiến nghị……………..…………...Trang 17
1. Kết luận ……………..…...................................Trang 17
2. Đề xuất ………………...….………………….Trang 17

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống ngôn ngữ của mỗi con người, việc sử dụng từ ngữ có vai
trị quyết định sự hiểu biết nhất định của người đó. Nếu như khơng có một
vốn từ ngữ đầy đủ thì con người khơng thể giao tiếp một cách hiệu quả được.
Việc học nghĩa của Từ ở Tiểu học sẽ tạo cho học sinh có năng lực từ thêm
giàu có, tinh tế, trang nhã, uyển chuyển và chuẩn xác. Nó giúp học sinh hiểu
rõ tiếng mẹ đẻ hơn, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi sự diễn đạt
của con người trong giao tiếp, trong văn hoá xã hội và giúp học tốt hơn ở cấp
học tiếp theo. Vốn từ của các em càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn
từ để nói, viết văn càng lớn, càng chính xác và sự trình bày ý tưởng, tình cảm


của các em càng rõ ràng, sâu sắc bấy nhiêu. Ở Tiểu học, nghĩa của từ ngữ
không chỉ được dạy trong các phân môn Tiếng Việt mà nó cịn được dạy trong
tất cả các tiết học của các mơn khác như Tốn, Tự nhiên xã hội, Lịch sử…. Ở
đâu có dạy từ, dạy sử dụng từ, thì ở đó có dạy nghĩa của từ ngữ.
Việc đổi mới phương pháp dạy học môn học Tiếng Việt hiện nay là một
bước tiến quan trọng trong nền giáo dục nước nhà nhằm thực hiện mục tiêu
hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,
đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi. Thông qua dạy và học Tiếng Việt cịn góp phần rèn luyện cho các em các
thao tác của tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng
Việt, về xã hội, về tự nhiên và con người, về văn hố, văn học của Việt Nam
và nước ngồi. Qua đó cịn bồi dưỡng tình u mến tiếng nói của cha ơng,
niềm tự hào về truyền thống văn hóa, cũng như tinh thần trách nhiệm trong
việc “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”.
“Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc”. Câu nói của W. Humboldt càng cho ta
thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Đây là một việc tương đối khó khăn nhưng giáo viên phải làm và làm
được. Nó phù hợp với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn mới là đánh giá học
sinh Tiểu học theo thông tư số: 22/2016/TT-BGDĐT ra ngày 22 tháng 9 năm
2016, đánh của học sinh dựa trên 4 mức độ. Mơn Tiếng Việt có nhiều điểm
mới nhất trong đánh giá, coi trọng việc vận dụng và vận dụng sáng tạo ở các
phân môn đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Phiếu kiểm tra viết của học sinh
cho thang điểm 10, thì phần Tập làm văn kiểm tra viết một bài văn tối đa cho
điểm 8. Quan điểm đó thể hiện việc dạy học mới là gắn những kiến thức lí
thuyết với việc vận dụng chúng vào thực hành.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, bản thân tôi tôi hiểu rất rõ giá trị của
việc dạy giải nghĩa từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ trong lời nói và viết văn
của học sinh Tiểu học được đúng và trang nhã, lịch lãm hơn qua đề tài :
“Phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 học giải nghĩa từ trong môn
Tiếng Việt ”


2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về các hình thức giải nghĩa từ cho học sinh thông qua các môn
học trong trường Tiểu học đặc biệt là môn Tiếng Việt.
Khảo sát thực trạng việc dạy giải nghĩa từ của giáo viên ở môn Tiếng
Việt 4 và việc học của học sinh khối 4 qua các phân môn Luyện từ và câu,
Tập làm văn.
Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới quá
trình học giải nghĩa từ của học sinh.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kết quả học giải nghĩa từ cho
học sinh khi học Tiếng Việt lớp 4 nói chung và các biện pháp giải nghĩa từ
trong giảng dạy môn Tiếng Việt của trường Tiểu học Hà Phong nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng vào nghiên cứu đặc điểm các bài dạy có nội dung dạy giải
nghĩa từ cho học sinh lớp 4 và thực tế dạy Tiếng Việt lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra
Phương pháp thống kê
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phân tích tổng hợp (Phân tích nguyên nhân, tổng hợp kết quả)
Phương pháp so sánh (So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài)
1. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
SKKN đã được áp dụng tại lơp 4A1, 4B1 của trường Tiểu học Thị Trấn đạt
kết quả khả quan.
Có thể áp dụng sáng kiến này dạy cho các lớp cuối cấp Tiểu học.
Phù hợp cho dạy học cả 3 đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực
hố vốn từ cho học sinh nhất là học sinh năng khiếu.

Trong sáng kiến đã nghiên cứu và áp dụng nhiều phương pháp dạy giải
nghĩa từ của các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành về từ vựng như Lê Phương Nga,
Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh, Đinh Hà Triều..
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ có thể định nghĩa: “ Từ là đơn vị ngơn ngữ có cấu tạo chặt chẽ, có thể
dùng trực tiếp để tạo câu”[1]. Từ nào cũng có nghĩa và dùng để tao nên
câu[2]. Từ ln có cấu tạo chặt chẽ, tức là không thể chia cắt mà không ảnh
hưởng đến nghĩa.
“Từ bao giờ cũng có ý nghĩa”. Dạy từ cụ thể thì phải làm cho các em hiểu
nghĩa của từ đó. Nhưng nghĩa của từ là gì? Làm thế nào để các em đi từ chỗ
chưa hiểu có thể đi đến hiểu được nghĩa của từ giáo viên dạy. Nói một cách
đơn giản, nghĩa của từ là cái mà từ nói lên, mà từ chỉ ra. Chúng ta muốn học
sinh biết dùng từ đúng và khoa học thì phải giúp học sinh hiểu được nghĩa của
từ ngữ các em đang dùng. Con đường nào có thể giúp các em học sinh hiểu
3


được nghĩa của từ một cách hiệu quả nhất? Việc hiểu nghĩa từ có thể bộc lộ
qua các hình thức sau:
- Đưa vật thật hoặc tranh ảnh thể hiện sự vật từ nói đến.
- Dùng lời lẽ để tả lại sự vật, hiện tượng mà từ biểu đạt( giải nghĩa từ
bằng định nghĩa)
- Đưa từ vào trong một nhóm từ cùng nghĩa, cùng từ loại để dễ nhận diện
từ.
- Xây dụng ngữ cảnh phù hợp để hiểu nghĩa từ……
Nghĩa của từ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Nó có thể có nhiều
nghĩa khác nhau ( từ nhiều nghĩa ở lớp 5). Trước hết, giáo viên phải là người
nắm nghĩa của từ chuẩn xác nhất rồi mới có thể hướng dẫn các em hiểu nghĩa
của từ bằng các hình thức mình lựa chọn sao cho hiệu quả, tối ưu. Trong bài

viết này, tôi xin đưa ra kinh nghiệm: “Phát huy tính tích cực cho học sinh
lớp 4 học giải nghĩa từ trong mơn Tiếng Việt ” để góp một phần nhỏ vào
việc thực hiện nâng cao hiệu quả dạy học.
2. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu trước khi áp dụng sáng kiến
2.2.1.Thực trạng
a. Về chương trình.
Chương trình học hiện nay nói chung, học tiếng Việt nói riêng đang gặp
phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về lí thuyết, thiếu thời gian thực hành
trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống giao tiếp hàng ngày, trình bày
biểu đạt suy nghĩ, tâm tư tình cảm trước tình huống có vấn đề cịn hình thức.
Vốn từ của các em con nghèo nàn, chính vì vậy những lời nói, việc làm đơi
khi bộc lộ nhiều hạn chế.
b. Về nhà trường.
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên trong
công tác giảng dạy. Thiết bị dạy học được trang bị đầy đủ: sách giáo khoa,
sách hướng dẫn, máy tính, đèn chiếu, tranh ảnh phục vụ cho học giải nghĩa từ.
c. Đối với giáo viên.
Thực tế trong trường tơi cơng tác, giáo viên rất tích cực đổi mới
phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả nhất, tạo tiền đề trong việc phát
triển bồi dưỡng những em có năng khiếu mơn Tiếng Việt. Nhưng một số ít
giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến
thức và tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với học sinh, còn lệ thuộc vào
đáp án, gợi ý trong sách giáo viên dẫn đến học sinh ngại học môn này. Việc
phân chia thời lượng lên lớp ở từng tiết dạy còn dàn trải, hoạt động của cơ
(thầy) - trị có lúc thiếu nhịp nhàng, nặng tính hình thức trong học giải nghĩa
từ. Lại có giáo viên cho rằng: Việc dạy giải nghĩa từ ở các tiết học tiếng Việt
thường khơ khan, khó truyền đạt được hết ý, hết mục đích trong bài học. Có
lần dự giờ đồng nghiêp, trong tiết Tập đọc: “Người ăn xin”( trang 30 – tập
đọc lớp 4 tập 1), giáo viên giảng các từ chìa khóa trong phần tìm hiểu bài như
sau: - Thế nào là “lọm khọm” ? hay “tài sản” là gì? “Nhìn chằm chằm” là

như thế nào?
4


Cách hướng dẫn giải nghĩa từ trong tiết học cho học sinh lớp 4 kể trên
rất rời rạc, đơn điệu, nhàm chán với học sinh. Bởi các em khó có thể trả lời
đúng đáp án nghĩa của các từ cô giáo hỏi nếu như nghĩa của từ khơng có trong
chú giải và học sinh không được chuẩn bị trước. Đương nhiên tiết học đó
chưa thực sự hay, chưa thực sự thành công. Giáo viên biết cách chưa thu hút,
lôi cuốn được học sinh học tập một cách tích cực, hiệu quả. Mặt khác, một bộ
phận không nhỏ từ Hán -Việt là từ gốc Hán được đưa vào chương trình lớp 4,
nghĩa của từ được giải nghĩa đôi khi chỉ là nghĩa "thấp thống", khơng theo
một cơng thức nào cả. Người giáo viên khơng thể dùng chữ Hán phân tích từ
tố để giải thích cho học sinh hiểu, làm như vậy sẽ mất đi sự uyển chuyển,
trang trọng về nghĩa của từ cần giải thích. Vì vậy việc học từ ngữ, sử dụng từ
ngữ khi viết văn, đặt câu với tất cả học sinh không phải là việc dễ dàng.
b. Đối với học sinh.
- Do học sinh không nắm được nghĩa của từ nên khi xếp từ theo nhóm
thường bị sai, không hiểu được ý nghĩa của các thành ngữ, tục ngữ, khi viết
đoạn văn ngắn theo chủ đề thường dùng từ khơng chính xác.
- Do trình độ nhận thức của các em học sinh không đồng đều trong một
lớp, một số học sinh yếu trong lớp được tham gia các hoạt động lĩnh hội kiến
thức giống như các bạn nhưng vẫn làm bài sai.
- Do vốn hiểu biết về cuộc sống cịn hạn chế, sự giao lưu học tập nhóm
khơng nhiều, không được tham gia nhiều và thường xuyên vào các câu lạc bộ
Tiếng Việt. Học sinh biết tra Từ điển Tiếng Việt, Từ điển Hán - Việt ít nên
vốn từ của các em rất hạn hẹp. Bên cạnh đó, các em khơng có người thân có
thể hỗ trợ thêm khi gặp những từ lạ, từ mới. Mặt khác, bản thân cha mẹ học
sinh cũng ít hiểu biết về nghĩa của từ đặc biệt là từ Hán - Việt để có thể quan
tâm, giúp đỡ các em. Thậm chí, có phụ huynh khi hướng dẫn con giải nghĩa từ

còn hiểu sai trầm trọng nghĩa của từ. Vì vậy, việc giúp học sinh hiểu đúng và
giải nghĩa từ đúng nhất là từ Hán -Việt là một vấn đề vô cùng cần thiết.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã mạnh dạn thông qua cuộc họp Cha mẹ học
sinh để đưa ra một số biện pháp khắc phục yếu điểm của học sinh khi học giải
nghĩa của từ trongTiếng Việt. Mục đích của việc làm đó là giúp phụ huynh có
cái nhìn tồn diện hơn về môn Tiếng Việt, tạo cho học sinh hứng thú với môn
học và nắm bắt bài một cách tốt hơn, nâng cao chất lượng, hiệu quả của Tiếng
việt lớp 4 và các môn học khác thông qua các biện pháp dạy giải nghĩa từ ở
lớp 4A, 4B năm học 2020 - 2021.
2. 2.2. Kết quả của thực trạng trên
Qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học Thị Trấn, bản thân tôi thấy
việc giải nghĩa từ, dùng từ viết văn, đặt câu, giao tiếp của học sinh chưa cao.
Chỉ một số học sinh có kĩ năng làm văn hay, sử dụng từ ngữ trong giao tiếp
đúng chuẩn mực và mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Còn phần lớn các em vốn
từ còn hạn chế nên lúng túng khi nói năng. Khi nhận xét, đánh giá về sự việc
các em chưa tự tin, đơi khi có em cịn dùng sai từ khiến người nghe hiểu sai
5


vấn đề. Nhất là sử dụng từ sai khi viết văn thì điều này khơng đem lại kết quả
tốt đẹp được.
Vì vậy, tơi tiến hành khảo sát lần thứ nhất vào tuần 4 (cuối tháng 9) ở
lớp 4A, 4B với nội dung kiểm tra xoay quanh kiến thức đã học lớp 3, đầu lớp
4, kết quả tôi thu được như sau :
Đề bài ( thời gian 35 phút)
Câu 1: Tìm các từ cùng nghĩa, trái nghĩa với từ: trung thực, mơ ước?
Câu 2: Đặt câu với từ: nghị lực, tự tin, trung tâm.
Câu 3: Viết đoạn văn 7 đến 10 câu nói về tình bạn trong đó em có sử dụng
các từ: gần gũi, giúp đỡ, thân thiết, học tập.
Bảng 1:

- Tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa:

Tổng
số
học
sinh
52

Biết tìm đúng, đủ
từ cùng nghĩa, trái
nghĩa với từ đã
cho.
SL
%
21

40,4

Tìm đúng nhưng chưa
đủ các từ cùng nghĩa,
trái nghĩa với từ đã
cho.
SL
%
25

48,07

Chưa tìm được từ
cùng nghĩa, trái

nghĩa với từ đã cho.
SL

%

6

11,53

- Đặt câu với từ đã cho.

6


Tổng
số
học
sinh
52

Biết đặt câu đúng,
câu hay với từ đã
cho.

Biết đặt câu đúng với
từ đã cho nhưng chưa
hay.

Chưa biết đặt câu
hoặc đặt câu thiếu

thành phần ngữ pháp.

SL

%

SL

%

SL

%

20

38,5

26

50

6

11,5

- Viết đoạn văn theo chủ đề chủ điểm đã học:
Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy rằng trong bài làm của học sinh
thiếu hụt kiến thức về từ vựng rất lớn, còn mắc nhiều lỗi về cách dùng từ đặt
câu. Các em viết đoạn văn còn chưa rõ ràng theo chủ đề, dùng từ nhầm lẫn,

chưa làm đúng theo yêu cầu đề bài. Điều đó làm cho tơi thấy trăn trở vê nội
dung nắm từ loại sử dụng từ khi viết đoạn văn của học sinh,
2.3. Các giải pháp thực hiện
Để dạy giải nghĩa từ, theo tôi trước hết thầy cô giáo phải hiểu nghĩa của
từ và biết giải nghĩa từ phù hợp với mục đích bài học, phù hợp với đối tượng
học sinh. Việc dạy giải nghĩa từ là nhiệm vụ sống cịn trong sự phát triển ngơn
ngữ của học sinh. Bởi vậy, trong giảng dạy, tôi sử dụng một số biện pháp sau
đây nhằm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ.
Giải pháp 1: Bằng hình ảnh trực quan giúp học sinh biết giải nghĩa từ.
Giải nghĩa từ bằng trực quan là biện pháp đưa ra các vật thật, tranh ảnh,
sơ đồ v.v…để giải nghĩa từ. Những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng của
trẻ về thế giới xung quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kì việc dạy học nào.
Dạy giải nghĩa từ bằng phương pháp trực quan là một trong những phương
pháp có tính ưu Việt với mơn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đồ dùng trực quan là chỗ
dựa để hiểu sâu sắc bản chất kiến thức, là phương tiện có hiệu lực để hình
thành các khái niệm, giúp học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã
hội.

Tổng Viết đoạn văn có
Viết đoạn văn chưa
số
sử dụng các từ ngữ hay, sử dụng các từ
học
cho trước theo
ngữ cho trước có chỗ
sinh
đúng chủ đề, chủ
chưa hợp lí theo chủ
điểm đã học.
đề, chủ điểm đã học.

52

SL

%

SL

%

23

44,2

21

40,4

Chưa biết viết đoạn
văn, sử dụng các từ
ngữ cho trước chưa
hợp lí theo chủ đề, chủ
điểm đã học, câu văn
mắc nhiều lỗi.
SL
%
8

15,4
7



Ví dụ 1: khi tơi dạy bài tập đọc "Dế mèn bênh vực kẻ yếu" (tuần 1 trang
4 sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – Tập 1) tôi sử dụng ngay hình ảnh trong sách
giáo khoa phóng to, hoặc đưa hình ảnh đó lên giáo án điện tử. Từ hình ảnh đó
giúp học sinh quan sát nhận biết được hình dáng Dế Mèn, hiểu được một số
đặc điểm, tính cách của nhân vật Dế Mèn qua cách miêu tả và kể chuyện của
nhà văn. Để các em có thể hiểu thêm nhà văn Tơ Hồi đã quan sát tinh tế,
miêu tả nhân vật Dế Mèn sinh động ra sao? Và tại sao tác phẩm này lại hay
sống mãi với thời gian, ln được các bạn thiếu nhi đón nhận hào hứng đến
thế?

Đồ dùng trực quan có vai trị rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu
sâu kiến thức về từ ngữ... Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí
nhớ là hình ảnh chúng ta nhận biết thu nhận được bằng trực quan. Khi dạy bài
tập đọc “ Đường đi Sa Pa” trang 102 Tiếng Việt 4 tập 2, tơi sử dụng bản đồ
địa lí Việt Nam cho học sinh nhận biết vị trí của Sa Pa, học sinh nắm được địa
danh Sa Pa nằm ở vùng núi phía Tây Bắc nước ta. Tơi đưa thêm một số tranh
ảnh ruộng bậc thang thơ mộng, cảnh núi non hùng vĩ, cảnh những dèo dốc
nên thơ của vùng đất Sa Pa…Để học sinh thấy Sa Pa quả là món q kì diệu
mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước ta. Giúp học sinh hiểu thêm về giá trị
ngôn từ trong bài văn tác giả đã miêu tả, thêm yêu quê hương đất nước Việt
Nam.

8


9



Hay khi dạy bài tập đọc:“Ăng –co -vát” trang 123 Tiếng Việt 4 tập 2,
tôi sử dụng bản đồ thế giới, bản đồ Việt Nam cho học sinh biết địa danh nước
bạn Cam-pu-chia. Tơi cho học sinh quan sát hình ảnh ngơi đền Ăng –co - vát
trên tranh phóng to ở sách giáo khoa hay trên giáo án điện tử. Học sinh sẽ dễ
dàng nhận biết được sự kì vĩ về kiến trúc điêu khắc tuyệt diệu của ngôi đền
nước bạn Cam-pu-chia, giúp các em biết yêu, biết trân trọng cái đẹp.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm hiểu nghĩa từ,
đồ dùng trực quan cịn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và
ngôn ngữ của học sinh. Phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian. Khi sử dụng
đồ dùng trực quan để giải nghĩa từ, tơi thường tính tốn kĩ để đưa ra hình ảnh,
vật thật phù hợp với thời lượng đã quy định. Nếu sử dụng đồ dùng trực quan
không khéo sẽ làm phân tán chú ý của học sinh, dẫn đến học sinh không lĩnh
hội được những nội dung chính của bài học. Khi sử dụng đồ dùng trực quan,
đặc biệt là khi quan sát tranh ảnh, các phim điện ảnh, phim video, tôi luôn
định hướng cho học sinh quan sát nội dung liên quan đến từ ngữ cần giải thích
sau đó cất ngay tranh ảnh, hình ảnh, vật thật, tránh tình trạng học sinh chú ý
sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng. Tương ứng với các giải
pháp giải nghĩa từ bằng trực quan tôi thường đưa ra các bài tập giải nghĩa từ
cũng góp nâng cao chất lượng hiểu từ cho học sinh như:

10


Ví dụ 2: Bài tập yêu cầu học sinh: Hãy nhìn vào tranh và chỉ xem đâu là
“cuống hoa, đài hoa, nhị hoa, cánh hoa”? (Khi dạy bài Tập làm văn: Quan
sát cây cối, trang 39 Tiếng việt 4 tập 2) hoặc đưa tranh yêu cầu học sinh:
“Dựa vào hình vẽ, em hãy nói xem “xe buýt” là loại xe dùng để làm gì?”.
Giải pháp 2: Dùng từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa để dạy giải
nghĩa từ.
Dạy giải nghĩa từ bằng phương pháp dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa là

một trong những phương pháp làm tích cực hóa vốn từ của học sinh ngay từ
những lớp đầu cấp Tiểu học. Tôi không thể cung cấp ngay định nghĩa về từ
đồng nghĩa, trái nghĩa như ở lớp 5 được. Với học sinh lớp 4 tơi vẫn cho các
em tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa với từ đã cho. Từ đưa ra cho học sinh tìm từ
cũng nghĩa, trái nghĩa phải có nhiều khả năng tìm được từ cùng nghĩa trái
nghĩa dễ nhất. Cách dạy như vậy nhằm khích lệ tinh thần học tập của các em,
giúp các em biến kiến thức trừu tượng thành cái quen thuộc dễ hiểu, dễ làm.
Và việc học nghĩa của từ đã đẩy lùi những suy nghĩ tiêu cực, ngại phát biểu ý
kiến của học sinh. Những vốn từ học sinh thường ít sử dụng vì chưa hiểu rõ
nghĩa và cách sử dụng thì nhờ phương pháp dạy học này mà tôi đã giúp học
sinh biết sử dụng từ một cách thận trọng và chuẩn xác. Các em đã tự tin trả lời
câu hỏi liên quan đến giải nghĩa từ một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng hơn.
Tuy nhiên, chương trình lớp 4 có các bài tập liên quan đến tìm từ đồng nghĩa,
trái nghĩa cũng trừu tượng, phong phú hơn các lớp đầu cấp. Vấn đề ở đây địi
hỏi học sinh cũng phải có vốn từ và vốn hiểu biết cao hơn, khả năng lưu nhớ
và sử dụng từ tinh tế hơn các lớp đầu cấp.
11


Ví dụ 1 : Khi tơi dạy học sinh tìm các từ cùng nghĩa với từ “Siêng năng”
tức là các em phải tìm được từ “chăm chỉ, cần cù” (dùng từ đồng nghĩa).
- Hay “ gọn gàng” là “không lộn xộn”(dùng từ trái nghĩa).
- “xinh đẹp” là “xinh tươi, xinh xắn, xinh xinh”(dùng từ gần nghĩa)
Tương ứng với cách giải nghĩa này tôi đưa ra các bài tập yêu cầu giải
nghĩa từ bằng tìm từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa.
Ví dụ 2: Khi giải nghĩa từ “ngày khai trường” tơi hỏi: “Ngày khai trường
cịn gọi là ngày gì?”,“bố cịn gọi là gì?”, hoặc tìm từ cùng nghĩa với “lạnh”,
“chạy”,“ăn”,“chết” ( Tôi đã dựa vào những từ cùng nghĩa với nhau nhưng
sắc thái biểu cảm khác nhau).
Hoặc: Tìm các từ chỉ hình dáng của con người?

Mẫu: cao (Học sinh có thể tìm từ: cao ráo, dong dỏng, thanh thanh).
Hay: Tìm từ trái nghĩa với từ: hiền lành, khôn khéo, um tùm?
Với cách dạy học trên, trong một số trường hợp, ở mỗi bài học giúp học
sinh mở rộng và tích cực hóa vốn từ, giúp các em hiểu rõ nghĩa của từ và
dùng từ chuẩn xác, cảm thấy yêu thích môn học.
Giải pháp 3: Dạy giải nghĩa từ bằng sử dụng từ điển Tiếng Việt
Với học sinh lớp 4, tôi yêu cầu tất cả học sinh phải có từ điển Tiếng Việt
khi học tiết mở rộng vốn từ. Vì đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất,
là biện pháp giải nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập giải nghĩa từ khác
nhau. Giải nghĩa từ bằng từ điển tức là giáo viên hoặc học sinh nêu nội dung
nghĩa của từ bằng một định nghĩa mà các em tra được trong từ điển Tiếng
Việt.
Ví dụ 1: - “ Bà ngoại” là mẹ của mẹ em.
- “Tự tin” là tin vào bản thân mình.
.
Ở chương trình lớp 4 các em đã làm quen với cuốn từ điển Tiếng Việt
trong các giờ luyện từ và câu để tìm từ, hiểu nghĩa của từ. Hình thức giải
nghĩa từ này có 3 dạng bài tập được kể ra theo thứ tự từ dễ đến khó như sau:
a) Mức thấp nhất là cho sẵn cả nội dung (tức là nghĩa của từ ) và tên gọi
(tức từ) yêu cầu học sinh phát hiện sự tương ứng giữa chúng. Đây là dạy bài
nối một ô ở cột nọ với một ô tương ứng ở cột kia sao cho hợp nghĩa:
Ví dụ 2:
A
B
Tự tin
Tự kiêu

Khơng tin vào khả năng của bản thân mình.
Đánh giá mình quá cao và coi thường người
khác.


Tự ti

Tin vào bản thân mình

Khi hướng dẫn giải bài tập này, tơi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa của
từng yếu tố ở hai cột để thấy sự tương ứng của từng cặp. Các em sẽ lần lượt
12


lấy một từ ở cột A ghép thử với một từ ở cột B xem có tương ứng khơng, cặp
nào có sự tương ứng sẽ được nối lại với nhau.
b) Mức thứ hai là cho sẵn nội dung từ (các nét nghĩa của từ ) yêu cầu học
sinh tìm tên gọi (từ) hoặc xếp các từ cho sẵn vào các nhóm nghĩa khác nhau.
Ví dụ: Bài tập u cầu học sinh điền tiếp vào chỗ trống trong các câu:
“Người làm nghề cày ruộng, trồng trọt trên ruộng đồng gọi là………”
( Từ học sinh cần điền là “nông dân”)
* Hoặc dạy bài tập xếp các từ có tiếng “lạc” trong ngoặc đơn thành 2 nhóm
(Lạc quan, lạc hậu, lạc điệu, lạc đề, lạc thú ):
- Những từ trong đó “lạc” có nghĩa là vui mừng:………………………
- Những từ trong đó “lạc” có nghĩa là sót lại, sai:…………………………
Khi làm bài tập này giáo viên gợi ý để học sinh liên hệ thực tế. Tìm từ
hoặc dựa trên nghĩa của từng từ cụ thể để suy xét và đưa thành từng nhóm
thích hợp với nghĩa đó cho.
c. Mức cao nhất là tơi cho sẵn từ, yêu cầu học sinh xác lập tương ứng. Phổ
biến nhất là kiểu bài tập tôi đưa ra câu hỏi trực tiếp: Em hiểu tiết kiệm là gì?
hoặc: Hoa văn là gì? ( trong bài Tập đọc: Trồng đồng Đơng Sơn)
Đây là dạng bài tập tuơng đối khó đối với học sinh tiểu học. Để làm
được bài tập này học sinh phải có kỹ năng định nghĩa. Giải nghĩa bằng định
nghĩa sẽ làm cho ngôn ngữ và tư duy của các em trở nên rõ ràng và sâu sắc

hơn. Càng bắt đầu dạy cho học sinh định nghĩa sớm bao nhiêu thì các em
càng biết tư duy chính xác và nói năng đúng đắn bấy nhiêu. Nhưng khơng
phải lúc nào tôi cũng cho học sinh ôm khư khư cuốn từ điển khi gặp từ mới
cần giải nghĩa. Tôi cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà, phải tra từ điển để nắm
được nghĩa của từ mới nhưng không phải lúc nào các em cũng nhớ được
nghĩa của từ mà mình đã chuẩn bị. Vậy làm thế nào học sinh vẫn giải được
nghĩa của từ mà không phải phụ thuộc tất cả vào từ điển? Tôi dạy học sinh
hiểu nghĩa của từ được định nghĩa dựa trên những nghĩa đơn giản, đảm bảo
đúng bản chất của từ đó và tránh sự luẩn quẩn rườm rà. Các thành tố nghĩa
của từ được định nghĩa cần đầy đủ nhưng tổ hợp các thành tố của nghĩa không
quá lớn. Với những câu hỏi trực tiếp bằng định nghĩa đơi khi học sinh khó trả
lời, vì vậy tơi đưa các câu hỏi hàm chứa một phần nội dung trả lời như sau:
Ví dụ 3: Khi giải nghĩa từ “ngăn nắp” tôi hỏi: - Một người làm việc như
thế nào là ngăn nắp ?
Hay: - Phong cảnh như thế nào gọi là thắng cảnh ?
Thay cho các câu hỏi : ““ngăn nắp là gì?”, “Thắng cảnh là gì?”
Giải pháp 4: Dạy giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh.
Hình thức dạy học giải nghĩa từ bằng đối chiếu so sánh mới nghe ta dễ
nhầm tưởng với cách giải nghĩa từ ở biện pháp 2. Tuy nhiên khi dạy học sinh
giải nghĩa từ bằng bằng đối chiếu, so sánh, tơi sử dụng linh hoạt các hình thức
dạy học, đôi khi phải kết hợp cả trực quan lẫn so sánh, đối chiếu mới giúp học
sinh giải được nghĩa từ.
13


Ví dụ: Khi tơi hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ “hồ” bằng cách so sánh
“hồ” với “ao” ao và hồ là vùng trũng sâu chứa nước ở trong đất liền, hồ rộng
hơn ao chứa lượng nước tương đối lớn. [3]
- Giải nghĩa từ “sách” với “vở” tôi làm bằng cách so sánh, đối chiếu chúng
với nhau: “sách có chữ in dùng để đọc; vở là tập giấy trắng đóng lại dùng để

viết”.
- Hay khi hướng dẫn học sinh giải nghĩa “ông bà nội”, “ông bà ngoại”
bằng cách đối chiếu: ông bà nội là những người sinh ra bố, ông bà ngoại là
những người sinh ra mẹ. Cách giải nghĩa này tôi thường xây dựng thành các
bài tập giải nghĩa kiểu: “Sách và vở có gì khác nhau?”, “hồ và ao khác nhau
như thế nào?”, hoặc phân biệt họ nội với họ ngoại, hoặc so sánh mức độ khác
nhau về nghĩa của các từ: vui vui, vui vẻ, vui mừng, vui vầy… ( mức độ mạnh
hơn, mức độ nhẹ hơn so với tiếng vui)
Giải pháp 5: Dựa vào ngữ cảnh cụ thể để dạy giải nghĩa từ.
Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ,
một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Tơi khơng phải giải thích nghĩa của
từng từ trong câu mà phải đặt nghĩa của từ cụ thể ở từng ngữ cảnh.
Ví dụ: Để giải nghĩa từ “nơ nức”, tôi đưa ra câu :“Nhân dân nô nức đi
trẩy hội mùa xuân.” hoặc để giúp học sinh hiểu nghĩa của từ “nhỏ nhoi” gần
nghĩa với từ “nhỏ bé”, tôi đưa ra bài tập :
Có thể thay từ “nhỏ nhoi’’ trong câu: “Suốt đời, tôi chỉ là một chiếc lá
nhỏ nhoi bình thường” bằng từ nào dưới đây:
a) Nhỏ nhắn
b) nhỏ xinh
c) nhỏ bé
Hoặc là dạng bài: Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn thích hợp với mỗi chỗ
trống trong đoạn văn sau:
“ Ai cũng khen bạn Minh, lớp trưởng lớp em, là con ngoan trò giỏi.
Minh phụ giúp bố mẹ nhiều việc nhà, nhưng luôn luôn đi học đúng giờ, làm
bài đầy đủ, chưa bao giờ để ai phiền trách điều gì. Cơ chủ nhiệm lớp em
thường bảo: “Minh là một học sinh có lịng ..............” Là học sinh giỏi nhất
trường nhưng Minh không .............Minh giúp đỡ các bạn học kém rất nhiệt
tình và có kết quả, khiến những bạn hay mặc cảm,.......... nhất cũng dần dần
thấy................... hơn vì học hành tiến bộ. Khi phê bình, nhắc nhở những bạn
mắc khuyết điểm, Minh có cách góp ý rất chân tình, nên không làm bạn

nào ........... . Lớp 4A chúng em rất..............về bạn Minh”.(Từ để chọn: tự
trọng, tự kiêu, tự ti, tự tin, tự ái, tự hào)( Trang 62 Tiếng Việt 4 tập 1)
Nếu có học sinh điền từ chưa chính xác, tôi gọi cho học sinh khác nhận
xét và nêu phương án điền khác của các em. Cuối cùng tôi dựa trên phương
án trả lời đúng nhất để chốt kết quả của bài.
Giải pháp 6: Dựa vào các từ cùng nhóm nghĩa, cùng đặc điểm từ
loại, để dạy giải nghĩa từ ( cịn gọi là tìm từ lạc).
Đây là biện pháp giải nghĩa từ mới, thường được sử dụng trong một số
trò chơi, hội thi dành cho học sinh tiểu học mà ta đã gặp trên truyền hình, hay
trong các sân chơi trí tuệ. Giải pháp giải nghĩa từ bằng cách tìm từ “lạc” là
14


đưa ra một số từ (Khoảng 4 – 5 từ ) trong đó có một từ khơng cùng nghĩa với
các từ cịn lại, u cầu học sinh phải tìm ra từ “lạc nghĩa” đó .
Ví dụ: Trong các từ sau từ nào khơng cùng nhóm nghĩa với các từ cịn lại ?
a.tài ba
b. khuyến tài
c. tài tình
d. giỏi giang
Đáp án là từ : “khuyến tài”.
Hoặc bài tập: Từ nào trong mỗi dãy từ dưới đây khơng cùng nhóm với các
từ còn lại ?
a. Học tập, suy nghĩ, chen chúc, tự tin, lo lắng.
b. Nhân ái, nhân vật, nhân nghĩa, nhân hậu .
c. Nhân quả , nhân tố, nhân chứng, nguyên nhân .
Đáp án:
Câu a: tự tin.
Câu b: nhân vật.
Câu c: nhân chứng.

Khi dạy bài tập dạng này, sau khi học sinh nêu kết quả tôi chốt kết quả
đúng và mở rộng nghĩa để các em hiểu rõ nghĩa của từng nhóm từ. Trong dãy
từ a: học tập, suy nghĩ, chen chúc, tự tin, lo lắng, từ khơng cùng nhóm với các
từ cịn lại là tự tin vì tự tin là tính từ, các từ cịn lại là động từ.
c. trong dãy từ: nhân quả, nhân tố, nhân chứng, nguyên nhân, từ “nhân
chứng” (người làm chứng) có tiếng“nhân” khơng cùng nghĩa với các từ còn
lại. Các từ nhân quả, nhân tố, nguyên nhân, tiếng “nhân” có nghĩa là “cái
sinh ra kết quả”.
Giải pháp 7: Dạy giải nghĩa từ bằng chiết tự( giải nghĩa bằng từ tố)
Giải nghĩa từ bằng chiết tự nghĩa là phân tích các từ thành các từ tố
(tiếng). Biện pháp giải nghĩa từ này thường được sử dụng trong khi dạy các từ
Hán Việt. Qua khảo sát cho thấy từ Hán -Việt chiếm gần 60% từ Tiếng Việt.
Ngay từ đầu cấp Tiểu học từ Hán-Việt được đưa ra với mức độ ít. Đến lớp 4
từ Hán -Việt được đưa ra nhiều hơn, tuy nhiên không được dạy thành những
bài riêng như trung học cơ sở mà được dạy tích hợp trong các phân mơn khác
nhau đặc biệt là các phân môn tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm
văn. Tơi thống kê chương trình lớp 4 mơn Tiếng việt tuần nào cũng có từ Hán
Việt mới xuất hiện. Đầu tiên là xuất hiện trong các bài tập đọc, mỗi bài có
khoảng 3 đến 5 hoặc 7 từ, sau đó được cung cấp mở rộng thêm trong các tiết
Luyện từ và câu (mở rộng vốn từ theo chủ điểm). Học sinh được làm quen và
hiểu khoảng hơn 200 từ Hán-Việt mới ở chương trình lớp 4.
Ví dụ1: Tiết Tập đọc bài “Trống đồng Đông Sơn” (Tập đọc 4 tuần 20)
các từ Hán Việt là: chính đáng, hoa văn, vũ công, nhân bản v.v..
Khi giải nghĩa các từ gốc Hán, tôi tách từ thành từng yếu tố để giải
nghĩa rồi hợp nghĩa các yếu tố đó lại sẽ giúp học sinh hiểu sâu nhớ kĩ nghĩa
của từ: -Vũ công (Vũ: múa; công: người biểu diễn), vũ công là người biểu
diễn nhảy múa, diễn viên múa. Nhân bản: nhân là người, bản là: cái gốc, cái
nền tảng. Nghĩa chung của từ nhân bản là yêu thương và đề cao con người.
15



Hay khi giải nghĩa từ tâm sự (Tâm: lòng; sự: nỗi), tâm sự là một từ ghép
gốc Hán có nghĩa là nỗi lòng. Hoặc nếu học sinh hiểu nghĩa của từ “siêu” (là
vượt lên, vượt qua một, vượt hẳn) thì sẽ hiểu được nghĩa các từ: siêu nhân,
siêu tốc, siêu thị, siêu hình, siêu đẳng…
Dạy học sinh giải nghĩa từ Hán-Việt là một vấn đề khó và dài lâu, để tạo
cảm hứng cho các em học tập đôi khi tôi nói cho các em hiểu mỗi cái tên của
các em mang biết bao mơ ước, niềm tin, hồi bão, tình cảm của ơng bà, cha
mẹ.....dành cho các em. Từ đó các em có cảm hứng với học tập, thích tìm hiểu
khám phá nghĩa của từ Hán-Việt.
Ví dụ 2: Tên Khơi Nguyên là mong muốn con mình sau này đỗ đạt, học
giỏi, đỗ đầu các kỳ thi.
- Tên Đan Tâm: tấm lịng son sắt, thủy chung, tình nghĩa.
- Tên Hà Anh : có nghĩa dịng sơng tinh t, trong sáng.
- Tên Vân Du (rong chơi như mây): con sau này sẽ có cuộc sống thảnh thơi,
nhàn hạ...
- Tên Bảo Châu: với ý nghĩa con là viên ngọc quý.
- Tên Gia Bảo: với ý nghĩa vật q của gia đình . …v.v...
Nói chung cách nói chuyện về tên của chính học sinh sẽ gây hứng thú,
sự tò mò, ham hiểu biết của các em về từ Hán – Việt. Qua đó các em vơ tình
đã có kiến thức về từ Hán – Việt đặc biệt kích thích hứng thú, sự tự học của
học sinh. Có thể lấy ví dụ về những cái tên mà các bậc tiền nhân đã mang
như:- Nguyễn Ái Quốc: Người u nước.
- Võ Chí Cơng: Người hết lịng hết sức vì việc cơng khơng vì việc riêng …
Nhìn chung khi dạy từ Hán- Việt tơi ln có thái độ mềm dẻo, khơng
tuyệt đối hố, phiến diện, cứng nhắc khi dạy giải nghĩa từ. Lời nói, câu từ
trong giờ học phải dễ hiểu gần gũi với học sinh. Nếu học sinh đặt câu chưa
hay, chưa chính xác tơi phải kiên trì, tránh nóng vội cho sai rồi bỏ qua mà
phải hướng dẫn chỉ ra cho các em thấy rõ nên dùng từ này, không nên dùng từ
kia sẽ không phù hợp. Đôi khi tôi cũng kể chuyện cho các em nghe về nguồn

gốc một cái tên người, tên tựa đề câu chuyện có từ Hán –Việt, đó là tơi đã
giúp các em giải nghĩa từ Hán –Việt. Các em có thể ghi nhớ từ bằng nhiều
cách như dùng sổ tay chép lại từ và nghĩa của từ, thành ngữ tục ngữ hoặc nhớ
từ, như thành ngữ tục ngữ ngay tại lớp. Cách dạy này không chỉ mở ra một
chân trời mới cho học sinh học từ Hán –Việt mà cịn giúp tạo hứng thú, u
thích mơn Tiếng Việt trong các giờ học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau thời gian thực hiện đưa ra các biện pháp dạy giải nghĩa từ như đã
nêu, vốn từ của các em đã có nhiều hơn và sử dụng tốt hơn rất nhiều. Điều
đáng mừng là trong các tiết học luyện từ và câu, tập làm văn, tập đọc lớp 4 mà
tôi đã dự giờ học sinh hào hứng hơn, tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài
hơn. Học sinh biết chăm chú lắng nghe, biết chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, thực
hành làm các bài tập Tiếng Việt từ dễ đến khó một cách hồn chỉnh. Trong
học nhóm, các em tích cực hợp tác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Đặc
16


biệt học sinh tự tin, cố gắng vươn lên, rất nhiều học sinh tiến bộ khi dùng từ,
đặt câu, viết văn và giao tiếp.
Kết quả thu được qua cuộc thi “Vốn từ của em” Thời điểm khảo sát
Tháng 2 - năm 2021 như sau:
Đề bài (Thời gian 35 phút).
Câu 1. Tìm các từ cùng nghĩa, trái nghĩa với từ: tài năng, nhân hậu?
Câu 2. Đặt câu với từ : vô tâm, mộc mạc, trung tâm.
Câu 3. Viết đoạn văn 5 đến 7 câu nói về một danh nhân hoặc một người có
tài mà em biết.
Bảng 2
- Tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa:
- Đặt câu với từ đã cho.
- Viết đoạn văn theo chủ đề chủ điểm đã học:


Tổng
số
học
sinh

52

Viết đoạn văn có sử
dụng các từ ngữ cho
trước theo đúng chủ
đề, chủ điểm đã học.
SL

%

42

84,6

Tổng Biết tìm đúng, đủ
số
từ cùng nghĩa, trái
học nghĩa với từ đã cho.
sinh
SL
%
52
45
86,5


Tổng
số
học
sinh
52

Biết đặt câu đúng,
câu hay với từ đã
cho.
SL
46

%
88,5

Viết đoạn văn chưa
hay, sử dụng các từ
ngữ cho trước có
chỗ chưa hợp lí
theo chủ đề, chủ
điểm đã học.
SL
%
8

15,4

Chưa biết viết đoạn
văn, sử dụng các từ

ngữ cho trước chưa
hợp lí theo chủ đề, chủ
điểm đã học, câu văn
mắc nhiều lỗi.
SL
%
0

Tìm đúng nhưng chưa
đủ các từ cùng nghĩa,
trái nghĩa với từ đã
cho.
SL
%
7
13,5

Chưa tìm được từ
cùng nghĩa, trái
nghĩa với từ đã cho,
hoặc tìm sai từ.
SL
%
0

Biết đặt câu đúng với
từ đã cho nhưng chưa
hay.

Chưa biết đặt câu

hoặc đặt câu thiếu
thành phần ngữ
pháp.
SL
%

SL
6

%
11,5

17


Sau khi kiểm tra khảo sát, đối chiếu bảng 1 với bảng 2, tôi nhận thấy
rằng bài làm của học sinh có sự chuyển biến tốt đẹp. Là một giáo viên được
dạy các phân môn Tiếng Việt, bản thân tôi nhận thức rõ vai trò của dạy giải
nghĩa từ. Vận dụng các biện pháp giải nghĩa từ đã trình bày ở phần nội dung,
các tiết học tơi dạy có nội dung dạy giải nghĩa từ nhẹ nhàng hơn, học sinh
không phải gị mình vào việc hiểu nghĩa của từ một cách khô khan, cứng
nhắc. Những vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất là học sinh đã nắm được nghĩa của
từ và sử dụng từ đúng, có sự tiếp cận tốt đến các từ khó như từ Hán –Việt, các
em còn mạnh dạn tham gia vào câu lạc bộ Tiếng Việt do nhà trường tổ chức.
Tuy rằng có những từ, những câu một số học sinh làm chưa tốt hoặc chưa hay
như những học sinh khác. Điều đó khơng phải là các biện pháp đã đề ra khơng
có tính hiệu quả cao mà nó thể hiện rõ tiến trình của việc dạy học. Trong
khoảng thời gian ngắn thì khơng thể làm thay đổi toàn bộ hoặc bù đắp cơ bản
những chỗ thiếu hụt về kiến thức cho tất cả mọi học sinh yếu kém hay giải
nghĩa đến “chân tơ kẽ tóc” những từ đưa ra giải nghĩa được. Cách làm này

cũng cần có một q trình với sự kiên trì, tận tâm của giáo viên giảng dạy.
Nhờ thực hiện tốt các giải pháp dạy học từ nói trên chất lượng học tập môn
Tiếng việt lớp 4 trường tôi được nâng lên một cách khả quan. Tất cả học sinh
sử dụng từ linh hoạt hơn. Các em mạnh dạn hơn trong các hoạt động tập thể
của trường tổ chức.
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Giải nghĩa từ là một biện pháp nêu ra những đặc điểm, đặc tính, vẻ đẹp
của từ. Trong khi giải nghĩa từ giáo viên cần linh hoạt sử dụng dấu hiệu của từ
mà học sinh sẽ chú ý khi làm quen với từ. Một từ nhiều khi được dạy nghĩa
nhiều lần, giáo viên cần giúp học sinh dần dần mở ra tất cả nghĩa của từ .
Việc phân chia thành các biện pháp và các bài tập giải nghĩa từ chỉ là
tương đối. Trong thực tế, người ta thường kết hợp các biện pháp khác nhau
vừa dùng trực quan, vừa dùng từ đồng nghĩa, dựa vào ngữ cảnh hay sử dụng
biện pháp định nghĩa. Khi dạy nghĩa từ, ngoài việc xác định những từ sẽ dạy,
biện pháp giải nghĩa từ, giáo viên cần phải xác định sẵn những từ nào mình sẽ
giải nghĩa và những từ nào để học sinh giải nghĩa dưới hình thức thực hiện
các bài tập giải nghĩa từ.
Việc lựa chọn các biện pháp giải nghĩa và hình thức bài tập giải nghĩa từ
tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi nhiệm vụ học tập
(từ sẽ đưa vào vốn từ tích cực hay tiêu cực), bởi đặc điểm của từ ( trừu tượng
hay cụ thể, danh từ hay động từ, tính từ, thuần Việt hay Hán Việt), bởi trình
độ của học sinh ( trước đó đó được chuẩn bị để nắm nghĩa như thế nào?)Để
đạt hiệu quả cao trong dạy giải nghĩa của từ cho học sinh thông qua phân mơn
của Tiếng Việt thì bản thân giáo viên phải là người có vốn từ phong phú, hiểu
được đặc điểm đối tượng học sinh mình đang dạy để đưa ra các hình thức dạy
học đạt hiệu quả nhất. Giáo viên phải chuyên sâu nghiên cứu mục tiêu, nội
18



dung, phương pháp, thiết kế kế hoạch dạy học, làm đồ dùng dạy học phù hợp
với từng bài dạy và đạt được mục tiêu chung. Giáo viên phải có tâm huyết,
kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp.
Giáo viên luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham
gia tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp để phát triển tốt hơn
khả năng giao tiếp, khả năng bộc lộ vốn từ. Tôi nghĩ nếu học sinh đã hứng thú
trong học tập thì các em sẽ tự học thêm, tìm hiểu thêm các từ mới.
3.2. Đề xuất
a. Với giáo viên:
- Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chun mơn, nghiên cứu tìm
tịi, học hỏi để có phương pháp giảng dạy tối ưu.
- Nghiên cứu chuẩn bị bài chu đáo, lôgic để dẫn dắt học sinh theo đúng trình
tự nội dung bài dạy.
- Trong quá trình dạy học giáo viên nên áp dụng các trị chơi, hình thức dạy
học một cách linh hoạt để học sinh có thể tiếp thu kiến thức đạt hiệu quả cao
nhất.
- Chuẩn bị đồ dùng, trò chơi sáng tạo, không dập khuôn.
Cần không ngừng làm giàu vốn từ của bản thân và nắm vững nghĩa của từ.
Hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người, tôn trọng và kiên nhẫn,
nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ để các em có cơ
hội phát triển vốn từ một cách tồn diện.
b. Với nhà trường:
- Mua bổ sung thêm trang thiết bị phục vụ dạy học như: đèn chiếu, sách
giáo viên Tiếng Viêt, sách tham khảo, sách thành ngữ tục ngữ Việt Nam, tranh
ảnh liên quan đến học giải nghĩa từ.
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề liên quan đến dạy giải
nghĩa từ cho học sinh Tiểu học.
Để đạt được kết quả nêu trên phần lớn là nhờ sự quan tâm sát sao của
các cấp thuộc ngành giáo dục, sự chỉ đạo thống nhất, khoa học của Ban Giám
hiệu nhà trường. Với thời gian, điều kiện và năng lực có hạn nên trong phần

trình bày của tơi khơng thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự giúp
đỡ, góp ý của bộ phận chun mơn các cấp để sáng kiến của tơi được hồn
thiện, áp dụng có hiệu quả hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thị Trấn, ngày 18 tháng 03 năm 2021
ĐƠN VỊ
CAM KẾT KHÔNG COPY
NGƯỜI VIẾT:

Đặng Thị Nguyệt
19


Tài liệu tham khảo
  
[1] - Tài liệu dạy học Từ ngữ ở Tiểu học- Tác giả: Phan ThiềuLê Hữu Tỉnh - Nhà xuất bản Giáo dục
[2] -Tiếng Việt Lớp 4 Tập 1, 2- Nhà xuất bản Giáo dục
[3] - Nguồn tin trên mạng internet
4 - Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng
5 - Tiếng Việt Nâng cao 4 – GS- TS Lê Phương Nga ( chủ biên)
6 - Sách giáo viên Tiếng Việt 4 tập 1,2 - Nhà xuất bản Giáo dục
7 - Nâng cao khả năng học từ Hán – Việt- tác giả: Đinh Hà
Triều

20


21




×