Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.05 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GD&ĐT TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG
VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4

Người thực hiện: Lê Thị Loan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Ngọc
SKKN thuộc mơn: Tiếng Việt

THANH HỐ NĂM 2021


MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1


3.2

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
5
17
18
18

19


1

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Theo Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05-5-2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo), mục tiêu của môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học là :
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc,
viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
- Cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên,
xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngồi.
- Bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
(Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục năm 2007)

Trong chương trình Tiểu học hiện hành, môn Tiếng Việt (trừ phần học vần
lớp 1) được chia thành các phân môn Tập đọc, Tập viết-Chính tả, Luyện từ và
câu và Tập làm văn. Mỗi phân môn bên cạnh chức năng chung của môn học
thường đảm nhận một mục đích chính. Phân mơn Tập làm văn là phân môn thực
hành tổng hợp nhằm rèn luyện kĩ năng tạo văn bản nói và viết cho học sinh.
Từ lớp 4, học sinh bắt đầu được hình thành kĩ năng tạo lập văn bản viết
bài văn hoàn chỉnh. Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường
gặp rất nhiều khó khăn. Văn miêu tả là nội dung hoàn toàn mới trong khi đa
phần học sinh chưa nắm vững về cách viết và trình bày bài văn theo bố cục ba
phần, về phương pháp, hướng triển khai viết bài văn cũng như cấu tạo bài văn

miêu tả. Do đặc điểm tâm lí, khả năng chú ý, quan sát chưa tỉ mỉ; vốn ngơn ngữ
cịn hạn chế dẫn đến khi viết văn miêu tả học sinh thiếu vốn từ, vốn hiểu biết về
đối tượng. Đối với giáo viên, đây cũng là dạng bài khó dạy. Khó do yếu tố khách
quan từ phía học sinh mang lại và khó do bản thân giáo viên chưa linh hoạt vận
dụng các phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Vì
vậy, khơng phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả như mong đợi và
không phải giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả.
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung,
dạy học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả nói riêng, tơi đã chọn đề tài : Một số giải
pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
1.2. Mục đích nghiên cứu
* Đối với giáo viên :
Tìm ra biện pháp, phương pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học
phân môn Tập làm văn, thể loại miêu tả.
* Đối với học sinh :
- Hình thành và phát triển cho học sinh lớp 4 kĩ năng viết văn miêu tả,
nâng cao chất lượng bài văn.
- Góp phần nâng cao năng lực tư duy, phân tích tổng hợp, nâng cao chất
lượng học tập của học sinh, tạo tiền đề để học sinh viết văn miêu tả ở lớp 5.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm u thích mơn học, u thiên nhiên,
con người, yêu đất nước Việt Nam.


2

1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
- Các phương pháp dạy Tập làm văn, dạy văn miêu tả.
- Quy trình quan sát, cấu tạo dàn ý, các dạng bài văn miêu tả.
- Ngôn ngữ trong văn miêu tả.

- Các biện pháp nghệ thuật thường dùng trong miêu tả.
- 30 học sinh lớp 4B trường Tiểu học Thọ Ngọc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết : Nghiên cứu, phân tích các tài liệu
dạy học như Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, Sách giáo viên Tiếng Việt 4, Tiếng
Việt 4 nâng cao, Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế : Qua dự giờ, kiểm tra khảo sát
thực tế thu thập thông tin.
- Phương pháp quan sát : Quan sát quá trình học tập, tiến độ phát triển của
học sinh và có biện pháp điều chỉnh kịp thời cho phù hợp.
- Phương pháp đàm thoại : Đàm thoại trong quá trình dạy học. Giáo viên
khéo léo đặt câu hỏi để học sinh căn cứ vào kiến thức đã có, kết hợp với sự
hướng dẫn của giáo viên để làm sáng tỏ vấn đề, tìm ra những tri thức mới, củng
cố những tri thức về miêu tả đã lĩnh hội.
- Phương pháp luyện tập thực hành : Giáo viên ra các bài tập và yêu cầu
học sinh thực hiện sau đó giáo viên sẽ nhận xét, đánh giá kết quả.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm : Giáo viên vận dụng những giải
pháp đề ra vào quá trình tổ chức dạy văn miêu tả.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu : Giáo viên thu thập số liệu qua các
kì kiểm tra đánh giá, tổng hợp dưới dạng bảng số liệu, phân tích số liệu để kiểm
chứng hiệu quả của quá trình dạy học.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm về văn miêu tả
Theo Học giả Đào Duy Anh trong Hán-Việt từ điển thì miêu tả là “lấy nét
vẽ hoặc câu văn để biểu hiện chân tướng sự vật”.
Tiếng Việt 4, tập 1, trang 140 thì đưa ra khái niệm : Miêu tả là vẽ lại bằng
lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật giúp người nghe,
người đọc hình dung được các đối tượng ấy.
Trong hội họa, họa sĩ thường dùng đến những đường nét, màu sắc, hình

ảnh để mơ tả sự vật, hiện tượng. Việc miêu tả trong văn chương có ưu thế riêng.
Ngơn ngữ văn chương có thể miêu tả sự vật trong một quá trình vận động, tả
được âm thanh, tiếng động, hương vị, cảm giác, tâm tư, tình cảm. Dựa trên các
khái niệm, nhận định, ta có thể tóm lại về văn miêu tả :
Một là, văn miêu tả có tính thơng báo, thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của
người viết.
Hai là, văn miêu tả có tính sinh động và tạo hình cao.
Ba là, ngơn ngữ miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh.
2.1.2. Cấu trúc thể loại văn miêu tả trong sách Tiếng Việt 4
- Từ tuần học thứ 14, văn miêu tả được đưa vào chương trình dạy học trong


3

phân môn Tập làm văn lớp 4. Các dạng bài được cấu trúc cụ thể như sau :
Số tiết dạy
Thứ tự
Dạng bài
Học kì I
Học kì II
Cả năm
1
Khái niệm về miêu tả
1
1
2
Miêu tả đồ vật
6
4
10

3
Miêu tả cây cối
11
11
4
Miêu tả con vật
8
8
* Lưu ý: Số tiết thống kê trong bảng không kể đến 3 tiết trong tuần ơn tập
cuối học kì I, giữa học kì II và cuối học kì II.
- Nội dung miêu tả :
+ Miêu tả đồ vật nội dung chủ yếu là tả đồ chơi em yêu thích hoặc đồ
dùng học tập của em.
+ Miêu tả cây cối nội dung chủ yếu là tả cây hoa, cây ăn quả, cây che
bóng mát hoặc vườn cây.
+ Miêu tả con vật nội dung chủ yếu là tả vật nuôi trong nhà hoặc con vật
em u thích (vật ni trong vườn thú, con vật em chợt gặp hay nhìn thấy).
2.1.3. Cơ sở văn học
Phân môn Tập làm văn được đưa vào giảng dạy trong trường tiểu học
khơng nhằm mục đích dạy học sinh sáng tác văn học song mỗi bài văn miêu tả,
kể chuyện hay viết thư của học sinh phần nào đó vẫn là các sáng tác riêng, mang
dấu ấn cá nhân. Mỗi bài văn là một “tác phẩm” độc đáo, không trùng lặp, mang
sắc thái ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong sáng như chính tâm hồn các em. Bài văn
miêu tả của học sinh tiểu học cũng là “sản phẩm” văn chương nên lẽ dĩ nhiên
phải có cái nhìn tinh tế, lối diễn đạt xúc tích, cơ đọng và bố cục chặt chẽ.
2.1.4. Cơ sở tâm lí
Lứa tuổi học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lí ưa quan sát, thích nhận xét,
ham tìm tịi, khám phá, sáng tạo nên học thể loại văn miêu tả là rất phù hợp. Học
văn miêu tả góp phần ni dưỡng mối quan hệ gắn kết giữa các em với thế giới
xung quanh. Trong đó quan trọng nhất là gắn kết với thiên nhiên, con người, góp

phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, lịng u cái đẹp, yêu quê hương, đất nước.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng
* Về phía học sinh
Trong nhiều năm học, tơi được phân cơng dạy học lớp 4. Qua q trình
dạy học, tôi nhận thấy thực trạng dạy học văn miêu tả ở lớp 4 trong trường tôi
diễn ra khá giống nhau (tơi sẽ trình bày cụ thể dưới đây). Trước thực trạng đó,
tơi đã băn khoăn, suy nghĩ, tìm tịi các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học. Tôi đã từng bước áp dụng các giải pháp dạy học mà tôi đề ra và từng bước
rút kinh nghiệm. Năm học 2019-2020, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B với
30 học sinh. Tôi tiếp tục áp dụng các giải pháp dạy học rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 4 mà mình đã đề ra.
Một số ưu điểm và hạn chế chủ yếu mà học sinh thường gặp là :
- Ưu điểm :
+ Học sinh phân biệt được 3 loại bài miêu tả trong chương trình lớp 4 : Tả
đồ vật, tả cây cối và tả con vật.


4

+ Đa phần học sinh biết viết bài văn đúng bố cục 3 phần : Mở bài, thân bài
và kết bài.
+ Một số học sinh bước đầu biết dùng từ ngữ, biện pháp nghệ thuật khi
miêu tả.
- Hạn chế chủ yếu của học sinh:
+ Trình tự miêu tả lộn xộn, nghĩ đâu viết đó, nội dung tả chưa đầy đủ theo
yêu cầu.
+ Tả hời hợt, chung chung, viết không chân thực, sao chép văn mẫu.
+ Vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả ít, vốn từ ngữ nghèo nàn.
+ Chưa phân biệt rõ giữa thể loại văn kể chuyện và văn miêu tả.

+ Chưa biết sử dụng biện pháp nghệ thuật linh hoạt, sáng tạo khi miêu tả.
Ví dụ: Một học sinh viết phần thân bài cho bài văn tả cái cặp như sau:

Cái cặp của em rất đẹp. Nó có dạng hình chữ nhật nằm ngang. Cặp có
một quai xách và hai dây đeo. Bên trong cặp có 3 ngăn. Ngăn thứ nhất, em
đựng sách giáo khoa. Ngăn thứ hai, em đựng vở viết. Ngăn thứ ba, em đựng đồ
dùng học tập như hộp bút, màu vẽ. Ngoài ra bên hơng cịn có hai túi lưới để em
bỏ chai nước hoặc áo mưa. Em sẽ giữ gìn cái cặp thật cẩn thận vì cái cặp như
người bạn cùng em đến trường.
Nhìn chung, trong phần thân bài trên đây, em học sinh đó đã biết tả cái
cặp theo trình tự từ bao quát đến cụ thể, tả từ ngoài vào trong, nêu tác dụng và
cách bảo quản cái cặp. Tuy nhiên, phần thân bài này chưa được phân đoạn một
cách hợp lí. Mỗi bộ phận cần miêu tả đã được nhắc đến dưới dạng liệt kê chứ
chưa mang đậm nét miêu tả. Chẳng hạn tả quai cặp có thể sử dụng từ ngữ miêu
tả kết hợp biện pháp so sánh như sau: Quai xách của cặp cong cong như cái cầu
vồng, được may từ vải thơ có lót một lớp bơng mềm mại bên trong. Hai đường
chỉ xanh óng ánh chần hai bên mép rất chắc chắn. Hai đầu quai được ghim bởi
hai đinh vít sáng bóng, lấp lánh như hai con mắt nhỏ. Mỗi bộ phận của sự vật
được chọn tả cần phải tả tỉ mỉ, sinh động. Đặc biệt khi miêu tả cần linh hoạt sử
dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và các từ láy. Giữa các ý tả bộ phận, cần có sự
chuyển ý một cách nhẹ nhàng, liên tiếp.
* Về phía giáo viên
Trong quá trình cơng tác, tơi đã tìm hiểu và nhận thấy có một thực trạng
khá phổ biến về phía người thầy khi tổ chức dạy học văn miêu tả như sau :


5

- Chưa linh hoạt phối hợp các phương pháp, hình thức tổ chức trong mỗi
tiết dạy.

- Còn làm hộ, làm thay cho học sinh, chưa đem lại sự hứng thú, sáng tạo.
- Giáo viên còn hướng dẫn chung chung, để học sinh tự mày mò.
- Chưa rèn tốt kĩ năng quan sát, kĩ năng diễn đạt cho học sinh.
- Chưa hướng dẫn học sinh tích cực hóa vốn từ.
- Khi phát hiện ra sai sót của học sinh, giáo viên chưa chỉ ra cho học sinh
hướng khắc phục những sai sót đó một cách hiệu quả.
2.2.2. Ngun nhân
- Tơi nhận thấy học sinh chưa hoàn thành kĩ năng viết bài văn miêu tả do
nhiều nguyên nhân :
+ Chưa nắm vững kiến thức về văn miêu tả, kiến thức thực tế về đối tượng
miêu tả còn nghèo nàn.
+ Chưa biết cách quan sát đối tượng, sắp xếp ý trong dàn ý.
+ Chưa biết sử dụng phối hợp các giác quan khi quan sát để miêu tả.
+ Do vốn từ ít, lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc
nên không lột tả được về một sự vật, hiện tượng nào đó.
+ Xem nhẹ việc đọc sách, tích lũy vốn từ.
+ Chưa có động cơ hứng thú, tích cực học tập.
- Người giáo viên trong khi tổ chức dạy học thường chỉ dừng lại ở sách
vở, tranh ảnh mà chưa tạo cơ hội cho các em được trải nghiệm thực tế để được
sờ thấy, nhìn thấy, cảm giác thấy từ đó kích thích trí tưởng tượng, cảm xúc để
viết bài văn.
2.2.3. Kết quả của thực trạng
Tôi tổng hợp kết quả bài kiểm tra (tờ số 3, môn Tiếng Việt) cuối học kì I
năm học 2019-2020 trong bảng dưới đây. Đề bài : “Em hãy tả một đồ dùng học
tập của em.”
Lớp Sĩ số
Hoàn thành Tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL

4B

30

TL%

SL

TL%

SL

TL%

2
6.66
19
63.34
9
30.0
Từ những phân tích về thực trạng, nguyên nhân của thực trạng trên đây,
tôi đã đưa ra một số giải pháp dạy học nhằm góp phần nâng cao chất lượng viết
văn miêu tả của học sinh lớp 4. Tơi xin trình bày trong phần sau.
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
2.3.1. Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh
* Tổ chức trò chơi khởi động
Trước khi bắt đầu mỗi giờ học văn miêu tả, ở phần khởi động, tơi thường
cho học sinh chơi trị chơi “Truyền điện” hoặc “Bắn tên”. Các trị chơi này có
nội dung chính thi đặt câu miêu tả về hình dáng, đặc điểm, tính chất của một đồ
vật, cái cây hay con vật nào đó. Mỗi lần, tơi chỉ lựa chọn tả về một chủ đề nhỏ

hoặc hình dáng, hoặc màu sắc, hoặc lợi ích. Cũng có khi, trị chơi u cầu sử
dụng biện pháp nghệ thuật để tả về một sự vật. Trò chơi giúp các em hứng thú,
lôi cuốn các em vào tiết học văn miêu tả một cách tự nhiên. Để tham gia trò
chơi, yêu cầu mỗi em phải nghĩ ra câu văn của mình sao cho khơng trùng lặp với


6

câu bạn đặt trước đó. Trị chơi giúp các em thi đua đặt câu, và cũng học được
nhiều câu văn hay của bạn khác. Đồng thời qua trò chơi, các em có một cái nhìn
mới mẻ trong quan sát. Cùng một sự vật nhưng với mỗi người, mỗi góc nhìn,
mỗi cảm nhận sự vật đó sẽ được tái hiện khác nhau. Ví như để tả về bộ lơng của
chú gà trống (có hình ảnh minh họa), học sinh đặt các câu khác nhau:
+ Chú gà trống có bộ lơng màu vàng tía rất đẹp.
+ Tồn bộ thân hình chú được phủ một lớp lông màu vàng xen những sợi
lông màu tía óng ánh.
+ Chú gà trống khốc lên mình tấm áo chồng đỏ tía trơng rất hùng
dũng, oai vệ.
* Tạo tình huống khám phá điều thú vị về đối tượng miêu tả.
Tạo tình huống để học sinh thấy được giữa các sự vật có sự tương đồng.
Ví như, cánh hoa phượng có hình dáng, mảnh mai như cánh bướm, nhụy hoa
như râu bướm, mật độ hoa rất dày. Khi tả về cây phượng, giáo viên cho học sinh
quan sát tranh (hoặc cành hoa phượng), hỏi học sinh: Em có liên tưởng gì về đặc
điểm của hoa phượng mà tác giả Xn Diệu trong bài Hoa học trị đã ví “như
mn ngàn con bớm thắm đậu khít nhau” ? Học sinh sẽ phân tích, tìm ra đặc
điểm tương đồng của hoa phượng với hình ảnh mn ngàn con bướm thắm. Qua
việc tìm hiểu rèn cho các em óc quan sát, sự liên tưởng, kích thích tư duy phân tích.
* Lựa chọn đối tượng miêu tả
Khi ra đề bài, giáo viên nên chú ý yêu cầu miêu tả những đối tượng gần
gũi, thân thiết với học sinh để tạo hứng thú, kích thích học sinh cảm nhận, thâm

nhập đối tượng và sáng tạo trong bài viết. Có những sự vật là vật quen thuộc gần
gũi với tất cả học sinh như cái trống trường, cái bàn học, cây bàng, cây phượng.
Nhưng có nhiều sự vật là vật gần gũi, quen thuộc với học sinh địa phương này
nhưng không gần gũi, quen thuộc với học sinh địa phương khác; gần gũi, quen
thuộc với em này nhưng không gần gũi, quen thuộc với em khác.
Ví dụ : Tả cái trống trường : “Bác trống có cái bụng căng trịn, múp míp.
Bác ta ung dung ngồi trên giá gỗ quan sát từng bước đi của đám học trị chúng
tơi.” Bởi cái trống trường là đồ vật rất quen thuộc mà hàng ngày các em đều
nhìn thấy, nghe thấy tiếng trống nên các em có sự liên tưởng, gần gũi dễ dàng.
Tôi thường cân nhắc kĩ càng việc lựa chọn đối tượng miêu tả trước khi ra
đề bài. Đơi khi có nhiều lựa chọn thì tơi ra đề bài dạng mở như “Em hãy tả một
con vật em yêu thích.”. Ra đề bài mở để tránh trường hợp học sinh viết vào bài
văn “Nhà em không nuôi con vật nào cả.”. Với đề bài trên, học sinh sẽ có nhiều
lựa chọn để chọn tả hay nhất, đặc sắc nhất con vật mình u thích.
2.3.2. Rèn kĩ năng quan sát và lập dàn ý cho bài văn
* Rèn kĩ năng quan sát
- Khái niệm và các yếu tố liên quan đến quan sát :
+ Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, 2004) : Quan sát là xem xét
để thấy, để biết rõ sự vật, hiện tượng nào đó.
Nguyễn Trí thì cắt nghĩa : Quan sát là sự vận dụng các giác quan để xem
xét, nhận biết sự vật, hiện tượng nào đó.
(Nguyễn Trí, Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả ở Tiểu học, NXBGD 1996)


7

Nhà văn Tơ Hồi khi cắt nghĩa cuộc sống trong viết văn miêu tả cũng cho
rằng : Muốn hịa mình vào cuộc sống, chúng ta phải tiếp nhận cuộc sống, mở hết
các giác quan để cảm nhận nó và tác động phù hợp.

Như vậy, khi quan sát cần xác định các yếu tố :
. Mục đích: nhìn, nghe và cảm nhận.
. Đối tượng quan sát : sự vật, hiện tượng khách quan.
. Phương tiện quan sát là các giác quan : thị giác, xúc giác, khứu giác,
thính giác, vị giác.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả quan sát là :
. Đối tượng quan sát là các sự vật, hiện tượng được quan sát.
. Thời điểm và vị trí quan sát : Thời điểm và vị trí quan sát khác nhau sẽ
cho ra kết quả quan sát khác nhau.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài thơ Dịng sơng mặc áo đã ghi lại sự
thay đổi của dịng sơng vào các thời điểm khác nhau trong ngày :
Dịng sơng mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha
Trưa về trời rộng bao la
Áo xanh sông mặc như là mới may
Chiều trôi thơ thẩn áng mây
Cài lên màu áo hây hây ráng vàng…
(Tiếng Việt 4, tập 2, trang 118)

Dòng sông trong đoạn thơ trở nên sống động, điệu đà như một cô gái mới
lớn. Trong một ngày, vào các thời điểm khác nhau, dịng sơng đã khốc lên mình
những bộ áo khác nhau. Buổi sáng áo hoa, buổi trưa áo xanh, chiều đến lại
khoác lên bộ cánh ráng vàng.
Cũng vẫn là sự thay đổi nhưng là sự thay đổi về vị trí quan sát, đoạn văn
sau cho ta thấy rõ sự thay đổi của cảnh vật :
“Ngay thềm lăng, mười tám cây vạn tuế tượng trưng cho một hàng quân
danh dự đứng trang nghiêm. Hướng chính lăng, cạnh hàng dầu nước thẳng tắp
những đóa hoa ban đã nở lứa đầu.
Sau lăng, những cành đào Sơn La khỏe khoắn vươn lên, reo vui với nhành
sứ đỏ của đồng bằng Nam Bộ. Trên bậc tam cấp, hoa dạ hương chưa đơm bông,

nhưng hoa nhài trắng mịn, hoa mộc, hoa ngâu kết chùm đang tỏa hương ngào
ngạt.”
(Cây và hoa bên lăng Bác, Tiếng Việt 2, tập 2, trang 111)

+ Phương pháp và phương tiện quan sát:
. Về phương pháp, phương pháp trực quan là phương pháp quan trọng khi
quan sát. Khi quan sát trực quan, ta thấy được bầu trời, mặt đất, cỏ cây, hoa lá.
Bên cạnh phương pháp trực quan, giáo viên còn phải biết kết hợp các phương
pháp khác như : Phương pháp gợi mở-vấn đáp, phương pháp thuyết trình, ...
. Về phương tiện quan sát, phương tiện đắc lực nhất là các bộ phận mắt,
tai, mũi, tay, lưỡi. Trong đó đặc biệt là mắt. Mắt cho ta thấy được màu sắc, hình
dáng, hoạt động. Tai nghe thấy âm thanh, giọng nói. Mũi ngửi thấy mùi hương.


8

Lưỡi cho ta biết vị đắng, cay, ngọt, bùi. Qua việc tiếp xúc, làn da cảm nhận được
cái nóng, lạnh, cứng, mềm.
- Hướng dẫn học sinh quan sát :
Tôi cho các em quan sát trực tiếp đồ vật, cây cối, con vật. Nếu điều kiện
quan sát trực tiếp ở lớp khơng thuận lợi thì trong tiết học trước đó tơi định
hướng để các em quan sát khi ở nhà. Bởi khi quan sát trực tiếp thì hiệu quả tốt
hơn rất nhiều so với quan sát qua hình ảnh. Tuy nhiên, đơi khi buộc phải quan
sát qua hình ảnh thì tơi đặt đồ vật, cây cối, con vật đó trong những bối cảnh nhất
định và khơi gợi cho các em tưởng tượng thêm về âm thanh, ánh sáng, mùi, vị.
Tôi hướng dẫn học sinh quan sát qua các bước:
Bước 1 : Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan thị giác,
thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác để quan sát.
Bước 2 : Hướng dẫn học sinh trình tự quan sát :
Khi miêu tả đồ vật, con vật, cây cối người ta có thể quan sát bao quát

trước rồi đến từng bộ phận; hoặc quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ
trái qua phải (từ phải qua trái). Ngồi ra, cũng có thể quan sát sự vật theo trình
tự thời gian, quan sát ở những thời điểm khác nhau.
Bước 3 : Tìm ra những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm
xúc mạnh nhất để tả kĩ, để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
Ví dụ : Tả cái đồng hồ báo thức
Bước 1 : Giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng giác quan thị giác để quan sát
màu sắc, hình dáng, kích thước của các bộ phận. Dùng thính giác để nghe âm
thanh khi đồng hồ chạy. Dùng xúc giác để xem mặt đồng hồ nhẵn hay không.
Bước 2 : Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự từ bao quát
đến từng bộ phận.
. Bao qt hình dáng, chất liệu, màu sắc, kích thước.
. Từng bộ phận: Mặt đồng hồ; kim đồng hồ; mặt sau đồng hồ; nút điều
khiển; hộp dùng để đựng pin; chân đồng hồ.
Bước 3 : Đặc điểm nổi bật nhất, thu hút nhất của đồng hồ là các kim.
. Kim giờ mập mạp, lùn tịt nhất.
. Kim phút cao lớn, hoạt bát.
. Kim giây thanh mảnh, nhanh nhẹn.
. Kim báo thức thì đứng im ở vị trí cố định nào đó.
- Tổ chức một số trò chơi khi quan sát:
+ Trò chơi: Ai tinh mắt ?
Bước 1 : Giáo viên cho học sinh quan sát 2 bức tranh khơng giống nhau
hồn toàn.


9

Bước 2 : Chia học sinh theo nhóm thực hiện nhiệm vụ tìm những điểm
khác nhau trong hai bức tranh rồi báo cáo kết quả.
Bước 3 : Giáo viên đưa ra đáp án, khen ngợi những nhóm thắng cuộc.

Ý nghĩa : Trò chơi giúp học sinh nắm bắt những đặc điểm riêng biệt của
sự vật, hiện tượng khi quan sát. Khi phát hiện được những đặc trưng riêng của
từng sự vật các em sẽ miêu tả sự vật theo cái tự nhiên vốn có của nó.
+ Trị chơi : Ai nhớ, ai nhớ ?
Bước 1 : Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát một cây cụ thể trong sân
trường. Theo định hướng ghi trong phiếu học tập.
Bước 2 : Học sinh trả lời các câu hỏi trong phiếu học tập:
. Cây đó là cây gì ?
. Cây có những bộ phận nào ?
. Mỗi bộ phận của cây có đặc điểm gì ? Nêu cụ thể các đặc điểm của từng
bộ phận ?
. Em ấn tượng với đặc điểm nào của cây ?
Bước 3 : Giáo viên nhận xét, đánh giá, tun dương người chơi tích cực,
kết thúc trị chơi.
Ý nghĩa : Trò chơi này giúp học sinh nâng cao sức tập trung, quan sát tỉ
mỉ sự vật, hiện tượng; biết chọn lựa chọn những chi tiết ấn tượng cần tập trung
khi miêu tả.
+ Trò chơi : Hãy tưởng tượng nào !
Bước 1 : Quan sát cây, con vật, đồ vật (thực tế, tranh ảnh)
Bước 2 : Học sinh đố nhau. Chẳng hạn : Bạn nghe cây bàng nói gì nào ?
Bước 3 : Học sinh bày tỏ ý kiến : Cành lá thì thầm với nhau, trị chuyện
cùng chim chóc, ong bướm, trị chuyện với con người.
Bước 4 : Giáo viên nhận xét, tuyên dương những học sinh có sự tưởng
tượng thú vị.
Ý nghĩa : Trị chơi giúp học sinh tăng cường óc tưởng tượng về các sự vật
để từ đó làm cho các sự vật trở nên sống động qua việc dùng các biện pháp nghệ
thuật như nhân hóa, so sánh.
Việc tổ chức trị chơi đã tạo hứng thú cho học sinh quan sát đối tượng. Đó
là động lực, cảm hứng tốt cho học sinh viết bài văn miêu tả.
* Lập dàn ý cho bài văn miêu tả

Để viết hồn chỉnh một bài văn thì bước lập dàn ý vô cùng quan trọng.
Dàn ý bài văn như một khung xương nâng đỡ toàn bộ cơ thể. Thường học sinh
tiểu học rất ít khi lập dàn ý trước khi viết bài. Sau khi đọc đề bài, các em sẽ bắt
tay vào viết bài văn ngay. Chính vì thế, bài văn của học sinh thường thiếu ý,
miêu tả không theo trình tự hợp lí, nhớ đâu viết đấy. Để khắc phục hạn chế này,
tôi đặc biệt chú trọng hướng dẫn học sinh lập dàn ý. Bước đầu là dàn ý khái
quát. Tiếp sau, là dàn ý chi tiết hơn. Cuối cùng, học sinh dựa trên dàn ý để viết
hoàn chỉnh bài văn theo yêu cầu. Chẳng hạn, từ những quan sát chiếc đồng hồ,
học sinh lập dàn ý chi tiết như sau :
Mở bài : Giới thiệu chiếc đồng hồ định tả : đồng hồ báo thức.
Thân bài :


10

. Tả bao quát : Chiếc đồng hồ dạng hình hộp chữ nhật nằm ngang, được
làm từ nhựa cao cấp, có hình mặt chú lợn màu hồng với hai cái tai dựng đứng
như hai chiếc lá.
. Tả từng bộ phận :
Mặt đồng hồ : Mặt đồng hồ bóng sáng, trong suốt, khơng vết xước, sờ vào
nhẵn thín. Bên trong là các con số từ 1 đến 12 xếp thành vòng xinh xắn theo
đúng thứ tự.
Ba kim đồng hồ : Đồng hồ có ba kim được ghim một đầu ở chính giữa
mặt đồng hồ. Kim giờ, kim phút, kim giây đều màu đen và kim báo thức thích
nổi bật nên khốc trên mình chiếc áo màu đỏ. Kim giờ to nhất rồi đến kim phút,
kim giây nhỏ, dài.
Phía sau đồng hồ có hai nút điều khiển. Một nút đặt báo thức, một nút
chỉnh giờ và có một hộp nhỏ dùng để đựng pin.
Chân đồng hồ xòe rộng, đứng vững chãi.
. Tả đặc điểm, hoạt động :

Lắp pin vào đồng hồ kêu tích tắc, nhịp nhàng.
Anh kim giờ mập mạp, lùn tịt nhất nên chạy rất chậm.
Bác kim phút cao lớn nên tốc độ nhanh hơn.
Cô kim giây thanh mảnh luôn chạy nhanh nhất.
Ngày này qua tháng khác, tuy chậm chạp nhưng anh kim giờ ln kiên trì,
bám đuổi theo bác kim phút, cơ kim giây.
Em út kim báo thức thì đứng im ở vị trí 5 giờ và có nhiệm vụ nhắc nhở
bác chuông reo vang mỗi sáng.
Kết bài : Nêu lợi ích, tác dụng của chiếc đồng hồ. Tình cảm của em với
chiếc đồng hồ.
Sau khi lập được một dàn ý chi tiết, các em chỉ cần phát triển ý đó thành
câu, thành đoạn trong bài văn.
Ví dụ : Phần mở bài trong dàn ý bài văn tả cái đồng hồ báo thức : Giới
thiệu chiếc đồng hồ định tả : đồng hồ báo thức.
Từ ý này học sinh có thể phát triển theo nhiều cách để viết mở bài :
. Nhân dịp đầu năm học mới, mẹ mua cho em một chiếc đồng hồ báo
thức.
. Người bạn luôn giúp em thức dậy mỗi buổi sáng đúng giờ là chiếc đồng
hồ báo thức. Đó là món quà bố tặng nhân dịp sinh nhật em tròn 10 tuổi.
Cứ theo hướng phát triển đó, từ dàn ý chi tiết đã lập được, học sinh sẽ
hoàn thành được bài văn theo yêu cầu. Nhưng để viết được bài văn hay, học sinh
còn cần đến vốn từ, vốn kiến thức thực tế.
2.3.3. Giúp học sinh làm giàu vốn từ trong văn miêu tả
* Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn trong môn
Tiếng Việt.
- Phân môn Tập đọc, đặc biệt là những bài tập đọc thuộc thể loại miêu tả
như: Cánh diều tuổi thơ, Rất nhiều mặt trăng (Tiếng Việt 4, tập 1); các bài : Sầu
riêng, Hoa học trò, Con chuồn chuồn nước, (Tiếng Việt 4, tập 2). Sau khi tìm
hiểu bài, tơi thường u cầu các em tìm từ ngữ gợi tả, xác định thể loại, bố cục
và trình tự miêu tả của tác giả để học sinh thấm nhuần về văn miêu tả.



11

Ví dụ : Trong bài “Sầu riêng” (Tiếng Việt 4, tập 2, trang 34) các em tìm
hiểu được :
. Từ ngữ gợi tả đặc sắc như : mùi thơm đậm, hương ngào ngạt xông vào
cánh mũi, thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của
trứng gà, ngọt cái ngọt của mật ong già hạn (tả quả sầu riêng); gió đưa hương
thơm ngát, hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà, cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao
hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa (tả hoa); thân
nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn (tả dáng cây).
. Thể loại : Văn tả cây cối.
. Trình tự miêu tả : Tả từng bộ phận của cây.
Trong bài “Con chuồn chuồn nước” (Tiếng Việt 4, tập 2, trang 127), các
em cũng tìm hiểu được :
. Tác giả đã tả con chuồn chuồn nước bằng các từ gợi tả và biện pháp so
sánh làm cho chú chuồn nổi bật lên thật đẹp : Màu vàng trên lưng chú lấp lánh.
Bốn cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu trịn và hai con mắt long lanh như thủy
tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.
. Thể loại : Văn tả con vật.
. Trình tự miêu tả : Tả hình dáng, tả thói quen và hoạt động bay của con
chuồn chuồn.
Qua những tiết học Tập đọc như vậy, tôi luôn nhấn mạnh về cách dùng từ
ngữ, cách thể hiện cảm xúc hay những quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả để các
em tích lũy thêm vốn từ, kiến thức về văn miêu tả.
- Phân môn Luyện từ và câu có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhanh
nhất. Các bài học Mở rộng vốn từ, có các bài tập rất cụ thể như tìm từ, tạo từ
ghép, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ cùng nhóm miêu tả ngoại hình, nhóm từ

ngữ miêu tả đặc điểm sự vật, nhóm miêu tả hoạt động.
Ví dụ :
Bài tập 2 : (Tiếng Việt 4, tập 1 trang 124) Hãy tìm các từ ngữ miêu tả mức
độ khác nhau của các đặc điểm sau : đỏ, cao, vui.
- Cách 1 (tạo từ láy, từ ghép với tính từ đỏ) đo đỏ, đỏ rực, đỏ tía, đỏ
thắm, đỏ chon chót, đỏ hon hỏn, ...
- Cách 2 (thêm các từ rất, quá, lắm vào trước hoặc sau tính từ đỏ): rất
Đỏ
đỏ, đỏ lắm, đỏ quá, ...
- Cách 3 (tạo ra phép so sánh) đỏ hơn, đỏ nhất, đỏ như son, đỏ như gà
chọi, ...
- cao cao, cao chót vót, cao vút, cao vòi vọi, cao vời vợi, ...
Cao - rất cao, cao quá, quá cao, cao lắm, ...
- cao hơn, cao nhất, cao như núi, cao bằng trời, ...
- vui vui, vui vẻ, vui sướng, sướng vui, vui mừng, mừng vui, ...
Vui - rất vui, vui lắm, vui quá, ...
- vui hơn, vui nhất, vui như Tết, vui hơn Tết, ...
Bài tập 3 : (Tiếng Việt 4, tập 2, trang 54) Tìm các từ ngữ miêu tả mức độ
cao của cái đẹp.


12

Từ ngữ miêu tả mức độ cao của cái đẹp là: tuyệt vời, tuyệt diệu, tuyệt
trần, mê hồn, kinh hồn, mê li, khôn tả, không tả xiết, không tưởng tượng được,
như tiên, ...
Đặt câu : Phong cảnh Vịnh hạ Long đẹp tuyệt vời (tuyệt đẹp, đẹp mê li,
đẹp vô cùng, đẹp khơng tả xiết).
Ngồi ra, tơi cịn giao cho các em làm thêm một số bài tập tìm từ ngữ để
củng cố thêm vốn từ cho các em như :

Bài tập 1 : Tìm những từ ngữ miêu tả khơng gian.
a) Tả chiều rộng : bao la, mênh mông, bát ngát, thẳng cánh cò bay, …
b) Tả chiều dài (xa) : tít tắp, tít mù, xa tít, xa xa, mn trùng, mù khơi,
ngút ngát, …
c) Tả chiều cao : cao vút, vời vợi, cao cao, chót vót, chất ngất, …
d) Tả chiều sâu : hun hút, hoăm hoắm, sâu thẳm, thăm thẳm, …
Bài tập 2: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước.
a) Tả tiếng sóng : ì ầm, ì oạp, rì rầm, ầm ầm, ào ào, lao xao, …
b) Tả làn sóng nhẹ : lăn tăn, li ti, mơn man, nhấp nhơ, lững lờ, …
c) Tả đợt sóng mạnh : cuồn cuộn, ào ạt, trào dâng, điên cuồng, dữ dội, …
Qua những bài tập tìm từ như vậy, học sinh sẽ tích lũy thêm được rất
nhiều vốn từ với các sắc thái, mức độ miêu tả khác nhau.
* Làm giàu vốn từ qua các nguồn tài liệu sách, báo, truyện
- Tôi cùng học sinh xây dựng “Thư viện lớp em” ở cuối lớp học. Tơi kêu
gọi học sinh có sách, báo, tài liệu tham khảo mang cho thư viện lớp mượn. Tôi
cũng vận động Hội cha mẹ học sinh trích quỹ mua tài liệu tham khảo cho các
em. Hàng tuần, tôi mượn thêm sách, báo từ thư viện nhà trường về cho các em
đọc. Cách tổ chức đọc, tôi cử ra Ban thư viện trông coi, ghi chép và cho mượn
sách, báo. Vào mỗi giờ ra chơi hoặc 15 phút đầu giờ (ngày thứ 3 và thứ 5 hàng
tuần), Ban thư viện sẽ tổ chức cho các bạn đọc sách.
- Tơi khuyến khích các em tự tìm kiếm và đọc sách, báo, truyện để tích
lũy thêm vốn từ. Những cuốn truyện cổ tích, truyện văn học hay những tờ báo
Nhi đồng, báo Văn tuổi thơ là những cẩm nang không thể thiếu trong cặp của
các em. Các em đọc hăng say. Bạn này truyền tay cho bạn kia mượn đọc, rồi
cùng nhau chia sẻ những câu chuyện, đoạn văn mà các em ấn tượng. Sau đó, học
sinh ghi chép chắt lọc những từ ngữ, hình ảnh, đoạn văn hay, ấn tượng vào sổ
tay. Việc làm này đã góp phần củng cố thêm vốn từ, kiến thức cảm thụ văn học
cho các em.
* Hướng dẫn học sinh dùng từ ngữ gợi tả khi đặt câu, viết văn
- Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, tơi giúp học sinh cách sử

dụng từ ngữ trong miêu tả. Tôi lưu ý cho các em, khi miêu tả, người ta thường
dùng từ ngữ gợi tả là những từ láy, tính từ đặc biệt là tính từ chỉ mức độ tuyệt
đối kết hợp với các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hố)
Ví dụ : Học sinh viết câu : Những tia nắng xuyên qua kẽ lá.
Tôi gợi ý học sinh viết : Những tia nắng chói chang xuyên qua kẽ lá./
Những tia nắng dịu dàng xuyên qua kẽ lá.
Hoặc học sinh viết : Cánh đồng lúa rộng như mặt biển.


13

Tôi gợi ý học sinh viết : Cánh đồng lúa rộng mênh mông như mặt biển
xanh thẳm.
Việc sử dụng từ ngữ gợi tả kết hợp với những biện pháp nghệ thuật làm
cho câu văn mềm mại, tinh tế, giàu hình ảnh hơn.
- Để sử dụng từ ngữ hiệu quả, từ mỗi đặc điểm của sự vật tôi cho các em
đặt nhiều câu khác nhau. Ví như tả thân cây xà cừ, mỗi em sẽ tạo một câu bằng
vốn từ ngữ của mình : Thân cây xà cừ nứt nẻ như cánh đồng mùa khơ hạn./ Vỏ
cây nứt tốc, bong tróc như lớp vảy của con tê tê./ Mùa đông, lớp vỏ cây sần
sùi, thô ráp như lớp da người già./... Mỗi câu mang một dấu ấn riêng. Nhiều câu
như thế sẽ tạo nên sự phong phú, sinh động, hấp dẫn để các em lựa chọn cách
viết phù hợp vào bài văn.
- Tơi cũng lưu ý học sinh, trong tả có kể và ngược lại trong kể có tả. Trong
khi miêu tả nên có lời kể xen kẽ để bài văn thêm phần thu hút nhưng tránh kể lể
quá nhiều bài văn sẽ khơng cịn là bài văn miêu tả nữa. Chẳng hạn, trong đoạn
văn tả các bộ phận của cái cặp trong ví dụ ở trên (Phần thực trạng), em học sinh
đó đã lần lượt liệt kê các bộ phận quai xách, dây đeo, các ngăn của cặp mà quên
chú ý tả các bộ phận đó nên đoạn văn trở nên khô khan, rời rạc. Sau khi được
hướng dẫn, học sinh đã viết được đoạn văn tả bên ngoài của cái cặp như sau :
Cái cặp của em rất đẹp, phù hợp với sở thích của em. Cặp được làm bằng

chất liệu ni lông tổng hợp, màu xanh rêu, sợi tơ óng ánh như pha kim tuyến. Tay
em chạm vào, em có cảm giác mát lạnh như da em bé. Phía trên, quai xách của
cặp cong cong như cái cầu vồng, được may từ vải thơ có lót một lớp bông mềm
mại bên trong. Hai đường chỉ xanh biêng biếc chần hai bên mép rất chắc chắn.
Hai đầu quai được ghim bởi hai đinh vít sáng bóng, lấp lánh như hai con mắt
nhỏ. Cặp cịn có hai dây đeo phía sau. Hai dây đeo được nhà sản xuất đặc biệt
chú trọng. Phần dây để đeo trên vai cũng được lót lớp bông mềm nên khi đeo
em không bị đau vai. Phần dây dưới cịn có hai cái chốt để em có thể điều chỉnh
dây đeo sao cho thoải mái nhất.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết
văn miêu tả
Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học có hai biện pháp nghệ thuật được
đưa vào giảng dạy đó là biện pháp nghệ thuật nhân hóa và biện pháp nghệ thuật
so sánh. Khi dạy phân môn Tập làm văn nói chung, thể loại văn miêu tả ở lớp 4
nói riêng, tơi cũng hướng cho học sinh sử dụng hai biện pháp nghệ thuật này.
Tôi hướng dẫn như sau :
* Tập đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật
Đầu tiên, tôi hướng dẫn học sinh tìm biện pháp nghệ thuật đã được sử
dụng trong các đoạn văn, bài văn. Tôi đọc cho học sinh nghe một số đoạn văn,
bài văn của học sinh các lớp trước hoặc do tôi sưu tầm được. Tiếp theo, tơi cho
các em đặt câu, viết đoạn văn có dùng các biện pháp nghệ thuật. Mới đầu, học
sinh có thể còn vụng về trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật. Chẳng hạn các
em so sánh nhưng làm mất đi nét đẹp vốn có của sự vật : Dịng sơng như con
rắn uốn lượn./ Mỗi búp non như một mũi tên bắn lên trời./ Thật ra, sự liên tưởng
trong phép so sánh này của các em có nét tương đồng giữa các sự vật. Tuy
nhiên, do các em thiếu cảm xúc nên sự liên tưởng làm cho cảnh vật trở nên mất


14


đi tính thẩm mĩ. Tơi đã định hướng cho các em, khi ta so sánh hay nhân hóa
thường sẽ làm cho cảnh vật thêm đẹp, thêm sống động và tôi lấy một số ví dụ để
học sinh cảm nhận : Mỗi búp non như một ngọn nến xanh./ Mỗi búp non như
đang thắp lửa cho cây. Sau nhiều lần hướng dẫn, các em đã làm được. Một vài
câu văn của học sinh có sử dụng biện pháp nhân hóa :
+ Chị gió lướt nhẹ nhàng đến thăm vườn cây vào chiều thu đầy nắng.
+ Những tia nắng nhảy nhót trên cành hồng ngồi ban cơng.
+ Gió khẽ nói với hoa rằng : “Hoa ơi, hãy tỏa hương thơm ngào ngạt cho
trời xuân thêm nồng.”
* Hướng dẫn cách dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh vào
viết văn miêu tả
Xuất phát từ kiến thức về phép nhân hóa và so sánh mà học sinh đã được
học từ lớp 3, tôi hướng dẫn cho học sinh các cách nhân hóa, so sánh trong bài
văn tả đồ vật, tả cây cối hay tả con vật như sau :
- Biện pháp nhân hóa
+ Nhân hóa bằng cách gọi các đồ vật, cây cối, con vật, hiện tượng bằng
những từ ngữ để chỉ người. Chẳng hạn, gọi là “cô Chổi”, “cậu Ấm”, “bác Nồi”,
“anh chàng Trống”, “bác Phượng già”, “cậu Vàng”, ... Với cách gọi như vậy sẽ
làm cho đối tượng được miêu tả trở nên sống động, gần gũi với con người.
+ Nhân hóa bằng cách dùng các từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính chất, hoạt
động của con người để tả đồ vật, cây cối, con vật. Tôi hướng dẫn học sinh khai
thác ngữ liệu từ những bài đọc trong sách giáo khoa, hay tư liệu tham khảo rồi
sau đó vận dụng linh hoạt.
. Nhân hóa để tả hình dáng : Tác giả Trần Hoài Dương đã tả con lạch
nước “lúc trườn trên mấy tảng đá trắng, lúc luồn dưới mấy gốc cây ẩm mục”
(Tiếng Việt 4, tập 1). Học sinh có thể vận dụng một cách sáng tạo để tả đối
tượng như “Dịng sơng uốn mình ngang lưng làng tơi.” hoặc “Cây đa cao khỏe,
vam vỡ như chàng lực sĩ tuổi hai mươi.”.
. Nhân hóa để tả hoạt động : Tơi hướng dẫn học sinh khai thác qua ví dụ
qua bài Tre Việt Nam của tác giả Nguyễn Duy. Chẳng hạn câu thơ:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ơm, tay níu tre gần nhau thêm
Những hành động “ơm”, “níu” đã thổi hồn Việt cho cây tre. Học theo cách
này, học sinh có thể tả về hành động của cây bàng như “dang tay vẫy gọi chúng
em đến trường” hoặc hành động của mẹ gà “ôm ấp, vỗ về, bảo vệ cho bầy con
thơ non nớt”.
. Nhân hóa để tả tâm trạng : Nhà văn Vũ Tú Nam trong bài Cây Gạo
(Tiếng Việt 4, tập 2) đã viết : “Hết mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo chấm
dứt những ngày tưng bừng ồn ã, lại trở về với dáng vẻ xanh mát, trầm tư.” Hoặc
trong bài Cái trống trường em (Tiếng Việt 2, tập 1) nhà thơ Thanh Hào viết :
“Chắc thấy chúng em/ Nó mừng vui quá !/ ... Vào năm học mới/ Giọng vang
tưng bừng”.
. Nhân hóa để tả tính cách :
Dịng sơng mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha.


15
(Dịng sơng mặc áo - Nguyễn Trọng Tạo)

Nét điệu đà đã góp phần tơ điểm cho sự dun dáng của dịng sơng và qua
đó ta cũng thấy được tình cảm gắn bó đặc biệt của tác giả với dịng sơng quê
hương. Để thổi hồn cho những cái cây, con vật, đồ vật và thể hiện tình cảm gắn
bó của mình với mỗi đối tượng ấy, học sinh của tôi cũng đã sử dụng phép nhân
hóa để tả tính cách của đối tượng. Những câu văn như “Nàng hồng e ấp, thẹn
thùng trong buổi sớm mai”, “Cậu Vàng chừng mực, từ tốn chiêm ngưỡng phần
thức ăn của mình chứ khơng hộc tốc, tham lam như con Tô.” đã làm cho bài văn
miêu tả của các em hay hơn, mềm mại hơn, giàu cảm xúc hơn.
+ Nhân hóa bằng cách trị chuyện, xưng hô với sự vật như đối với người.
Từ xưa, trong bài ca dao Trâu ơi ta bảo trâu này ông cha ta đã xem trâu

như là một người bạn đồng hành nên thân thiết gọi “Trâu ơi ta bảo trâu này/ Trâu
ra ngoài ruộng trâu cày với ta”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng gọi trăng một
cách thân thiết “Trăng ơi... từ đâu đến ?”. Cách nói chuyện ấy đã làm cho những
sự vật tưởng như xa lạ trở thành người bạn, người thân của chúng ta. Tôi đã
hướng dẫn cho học sinh dùng cách trò chuyện này để nói chuyện với những đối
tượng miêu tả của mình trong bài văn. Học sinh đã viết vào bài những câu văn
đầy cảm xúc : “Bác phượng ơi, rồi đây chúng cháu sẽ tạm xa bác, bác buồn lắm
nhỉ ? Bác hãy chờ chúng cháu nhé !” hay “Cậu Vàng, ta tự hào về cậu lắm !”.
- Biện pháp so sánh
So sánh được hiểu là biện pháp đối chiếu sự vật, sự việc, hiện tượng này
với sự vật, sự việc, hiện tượng khác có nét tương đồng để tăng thêm sự lơi cuốn,
gợi cảm, gợi hình cho biểu đạt. Có hai mức độ so sánh là so sánh ngang bằng (từ
ngữ so sánh như, giống như, tựa như, ...) và so sánh không ngang bằng (từ ngữ
so sánh kém, hơn, chẳng bằng, không bằng, ...). Tôi hướng dẫn cụ thể với học
sinh một số kiểu so sánh thường vận dụng trong miêu tả :
+ So sánh sự vật với sự vật
Ví dụ :
Trông xa, cây bàng như một chiếc ô xanh khổng lồ.
Bộ lông của Cún như chiếc khăn bông xồm êm ái.
+ So sánh sự vật với con người
Ví dụ :
Chú gà trống như một chàng dũng sĩ kiêu hãnh.
Cây phượng như người bảo vệ luôn canh giữ ngôi trường cho chúng em.
+ So sánh đặc điểm của hai sự vật
Ví dụ :
Mùa đơng, bàng thay lá chỉ cịn những cành cây khẳng khiu như những
ngón tay quều quào, run rẩy trong gió lạnh.
Bộ lơng ấy mềm mại hơn cả sự mềm mại của tấm thảm nhung mà bóng
mượt hơn cả mái tóc óng ánh.
+ So sánh âm thanh với âm thanh

Ví dụ :
Tiếng trống dồn vang như tiếng nhạc.
Tiếng lá cây xào xạc như tiếng trò chuyện râm ran.
+ So sánh hoạt động với hoạt động


16

Ví dụ :
Cành bàng đu đưa như vẫy gọi chúng em đến trường.
Những bước chạy huỳnh huỵnh như đoàn quân chạy duyệt binh. (Tả bước
chạy của chú gà trống)
Việc sử dụng biện pháp so sánh giúp làm nổi bật một khía cạnh nào đó
của sự vật. Qua đó, học sinh lột tả đặc điểm của đối tượng cần miêu tả.
Sau đây là đoạn văn em Anh Thư đã viết trong bài văn tả con mèo tam
thể. Trong đoạn văn, em đã biết cách sử dụng biện pháp nghệ thuật một cách tự
nhiên, làm cho chú mèo Nhím trở nên rất đáng yêu :

Với thân hình to hơn quả mướp một chút, Nhím khốc lên mình bộ trang
phục màu vàng óng, mượt mà như nhung, đôi chỗ lốm đốm điểm đen, điểm
trắng làm cho Nhím ta càng thêm nổi bật. Cái đầu tròn xoe như nắm tay người
lớn. Trên đỉnh đầu là hai cái tai nhỏ xinh xinh như hai nửa bánh quy. Đặc biệt,
trên khuôn mặt, nổi bật với đôi mắt như hai hịn bi ve. Vào ban đêm, đơi mắt
Nhím lại như hai tia la-de xun thấu mọi ngóc ngách tìm lũ chuột nhắt. Hai
bên khóe miệng, những sợi ria mép nhỏ dài như sợi cước. Mẹ em bảo, bộ ria
mép đó chính là ra đa để Nhím bắt sóng truy tìm bọn chuột tội phạm.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh viết hoàn chỉnh bài văn
* Viết mở bài
Mở bài trong bài văn miêu tả như một lời mời chào cảm xúc của người
đọc. Còn với người viết, viết được mở bài hay chính là khởi điểm cảm xúc để

viết một bài văn hay. Học sinh lớp 4 đã biết về hai cách mở bài : mở bài trực tiếp
và mở bài gián tiếp. Khi dạy học, tôi vẫn giới thiệu cho học sinh có thể chọn một
trong hai cách để mở bài. Song, với những học sinh đã viết được bài văn trọn
vẹn, tôi định hướng cho các em lựa chọn cách mở bài gián tiếp.
Ví dụ : Hai cách mở bài cho bài văn tả con chó.
- Nhà bà ngoại em ni rất nhiều lồi vật như gà, vịt, mèo, chó... Em đặc
biệt thích chú chó tên Lu Lu.
- Nói đến chúa sơn lâm chắc chắn bạn nghĩ đến lồi sư tử. Nói đến chúa
tể rừng xanh khơng phải đó là lồi hổ sao ? Vậy lồi vật nào được mệnh danh
là người bạn trung thành của con người ? Đó chính là lồi chó. Nhà em có một
chú chó Míc Ki rất đẹp !


17

Với cách mở bài gián tiếp, người viết dẫn dắt người đọc và gây được bất
ngờ cho người đọc. Đồng thời bản thân người viết cũng tự tạo cho mình cảm
xúc để viết tiếp bài văn cho thật sinh động.
* Viết thân bài
Phần thân bài trong bài văn miểu tả đồ vật, cây cối và con vật có thể viết
thành nhiều đoạn, tùy người viết lựa chọn mà viết thành hai, ba hay bốn đoạn.
Thông thường gồm ba đoạn :
Đoạn 1: Tả bao qt về hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu.
Đoạn 2: Tả các bộ phận, tả đặc điểm nổi bật một cách chi tiết, tỉ mỉ.
Đoạn 3: Tả thói quen, hoạt động hay tác dụng của đồ vật, cây cối và con vật.
* Viết kết bài
Nếu mở bài được xem là lời mời chào cảm xúc thì kết bài chính là nơi cơ
đọng cảm xúc. Có hai cách kết bài. Loại thứ nhất, kết bài tự nhiên. Kết bài tự
nhiên (kết bài không mở rộng) là kết bài đi ngay vào kết cục bài viết. Loại thứ
hai, kết bài mở rộng. Kết bài mở rộng là kết bài có thêm lời bình luận, nhận xét,

nêu lên lợi ích, tác dụng của sự vật hay nêu lên tình cảm của người viết đối với
sự vật được miêu tả. Sau đây là hai đoạn kết bài cho bài văn : Tả cây bàng ở sân
trường em, theo hai cách nói trên :
- Cây bàng như một người bạn thân của em ở trường.
- Rồi đây đến ngày xa mái trường thân yêu, em sẽ mang theo nhiều kỉ
niệm của thời thơ ấu bên gốc bàng thân thuộc của em.
(Tiếng Việt 4, tập 2, trang 82)

Dù kết bài theo cách nào cũng đưa bài văn đến kết thúc nhưng tôi hướng
học sinh nên chọn kết bài mở rộng. Khi kết bài mở rộng, người viết có cơ hội
bộc lộ ý nghĩ của mình, người đọc cũng được lắng đọng cảm xúc hơn.
* Chấm, chữa bài
Tôi luôn chú trọng bước chấm, chữa bài. Sau mỗi bài tôi chấm, tôi thường
nhận xét góp ý trực tiếp, góp ý trên bài viết và yêu cầu học sinh chữa bài (nếu
cần). Khi học sinh chữa bài, các em phải đọc lời nhận xét, đọc lại bài viết để
chữa lỗi. Nếu là lỗi chính tả, lỗi dùng từ đặt câu thì học sinh sẽ chữa lỗi xuống
cuối bài viết. Nếu là đoạn văn thì học sinh luyện viết đoạn văn khác hay hơn. Để
giới thiệu những đoạn văn hay của học sinh đã viết trong bài, có khi tơi cho học
sinh đọc đoạn văn trước cả lớp, cũng có khi tơi cho học sinh trải nghiệm thực tế.
Đó là trường hợp đoạn văn hay tả cây trên sân trường. Tôi dẫn học sinh tới cây
được tả, vừa quan sát, vừa nghe lại đoạn văn để cùng cảm nhận. Các bước làm
này tôi thực hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo và đã cho hiệu quả cao.
* Khuyến khích vẽ tranh
Sau mỗi bài văn, tơi khuyến khích các em về nhà tưởng tượng lại đối
tượng em đã tả trong bài để vẽ lại. Hoàn thành xong mỗi bức tranh, em nhờ bố
mẹ, ông bà nhận xét và giới thiệu cho bạn bè, thầy cô. Những bức tranh đẹp sẽ
được triển lãm tại lớp học. Đó vừa là sự động viên, khuyến khích học sinh cũng
là một lần trải nghiệm để học sinh khắc sâu kiến thức về miêu tả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm



18

Trong ba năm học trở lại đây, tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số giải
pháp nhằm rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Trong năm học
2019-2020, tôi đã áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp hơn các giải pháp cơ bản
trên đây vào dạy học Tập làm văn nói chung và dạy học văn miêu tả nói riêng
cho học sinh lớp 4. Tôi thấy, các giải pháp đã tác động đến học sinh, học sinh tơi
dạy đã có kĩ năng viết văn miêu tả, nâng cao chất lượng bài văn. Cụ thể :
- Bài văn trình bày sạch đẹp, lời văn trong sáng, bố cục chặt chẽ.
- Bài làm của học sinh đã được sắp xếp ý, có trọng tâm, làm nổi bật sự vật
định tả.
- Trong bài làm của học sinh có nhiều sáng tạo. Ý văn hay, bài làm của
mỗi em có tính độc lập, thể hiện được cái nhìn riêng.
- Học sinh đã biết sử dụng từ ngữ gợi tả, giàu hình ảnh, cảm xúc vào bài
viết của mình.
- Biết cách sử dụng linh hoạt một số biện pháp nghệ thuật trong bài viết.
- Các em đã có hứng thú học Tập làm văn, văn miêu tả, trong khi viết các
em đã tự tin vào nhận thức của bản thân mình.
Trong kì kiểm tra cuối học kì II năm học 2019-2020, chất lượng bài kiểm
tra Tiếng Việt (tờ số 3) của lớp tôi khá cao. 100% học sinh đạt mức Hồn thành
trở lên. Trong đó, số học sinh Hoàn thành Tốt chiếm 33,3%. Số học sinh Hoàn
thành Tốt đã vượt lên 9 em, chiếm 26,7%. So với kết quả cuối học kì I thì đây là
dấu hiệu đáng mừng. Cụ thể :
Thời gian

Sĩ số

Giữa kì II


30

Hồn thành Tốt
SL
11

TL%
33.3

Hồn thành
SL
19

TL%
66.7

Chưa hồn thành
SL
0

TL

Đối với giáo viên, tơi tự tin khẳng định những biện pháp dạy học tơi trình
bày trong sáng kiến hỗ trợ giáo viên rất nhiều trong quá trình dạy Tập làm văn.
Chỉ sau một thời gian, những giờ Tập làm văn miêu tả ở lớp tơi khơng cịn gây
áp lực cho cả giáo viên và học sinh. Cũng từ đó đã tạo được một phong trào học
tập sơi nổi, nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Về phía Ban giám hiệu nhà trường và đồng nghiệp trong trường, sau
những tiết dự giờ thăm lớp, họ đồng tình với cách làm của tôi và đánh giá cao
chất lượng những bài văn do học sinh lớp tôi viết. Cô Nguyễn Thị Kim Trung,

một giáo viên khối 5, khi chấm bài (tờ số 3, môn Tiếng Việt) đã nhận xét: “Học
sinh lớp 4B viết văn hay, nhiều bài tôi cho điểm tối đa.” Đây chính là nguồn
động viên cổ vũ tinh thần để tơi tiếp tục nghiên cứu, tìm thêm những biện pháp
giáo dục sao cho hiệu quả trong quá trình dạy học.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Sau khi áp dụng các giải pháp giáo dục nêu trên vào thực tế giảng dạy ở
lớp 4, học sinh có chuyển biến rõ rệt trong việc làm bài văn miêu tả. Bản thân
tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau :
- Việc dạy văn miêu tả phải coi trọng khâu quan sát, thực hành ghi chép,
lập dàn ý.


19

- Yêu cầu quan sát và miêu tả chân thực.
- Hướng dẫn học sinh vận dụng vốn từ ngữ, vốn sống linh hoạt khi viết bài.
- Khi viết văn cần có cảm xúc, sử dụng các biện pháp nghệ thuật phù hợp.
- Khơng áp đặt lối suy nghĩ, cách nhìn của cá nhân lên học sinh.
- Bản thân giáo viên phải nắm được kiến thức, phương pháp một cách vững
vàng.
- Chữa bài, sửa lỗi cho học sinh cần cụ thể, rõ ràng, tránh việc nhận xét
chung chung.
- Giáo viên cần áp dụng các giải pháp dạy học phù hợp với học sinh.
Từ những kết quả thu được trong thực tế dạy học, tôi tin rằng các giải
pháp giáo dục tôi đã trình bày trong bản Sáng kiến kinh nghiệm này phù hợp với
điều kiện dạy học ở nhiều địa phương. Nếu các đồng nghiệp vận dụng những
giải pháp này một cách linh hoạt thì sẽ đạt hiệu quả như mong muốn. Tôi mong,
những sáng kiến kinh nghiệm của tôi sẽ được nhân rộng đến với đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị

Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến đối với nhà trường và các cấp
lãnh đạo.
Đối với nhà trường :
- Luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất tốt nhất cho việc dạy và học của
giáo viên và học sinh.
- Tiến hành các tiết chuyên đề, chuyên sâu về văn miêu tả nhằm rút kinh
nghiệm đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm
văn, thể loại văn miêu tả.
Đối với Phòng Giáo dục & Đào tạo :
- Phòng Giáo dục & Đào tạo tổ chức tọa đàm, đúc rút kinh nghiệm dạy học
để giáo viên chúng tơi có dịp trao đổi, học hỏi, giao lưu với nhau trong toàn huyện.
Trên đây là một số sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và vận
dụng trong quá trình giảng dạy thực tế tại trường tơi đang cơng tác. Bản thân tơi
cũng đã tích lũy được một số bài học thực tiễn. Tôi mong nhận được ý kiến góp ý
của Hội đồng khoa học các cấp để bản Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hồn
thiện hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 8 tháng 4 năm 2021
Tơi xin cam đoan, SKKN này là do tôi viết,
không sao chép của ai.
Người viết:

Lê Thị Loan


20


Tài liệu tham khảo:
1- Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
2- Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 1 - Nhà xuất bản Giáo dục.
3- Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1, tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4- Sách giáo viên Tiếng Việt 4, tập 1, tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
5- Tiếng Việt 4 nâng cao - Nhà xuất bản Giáo dục.
6- Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo
dục năm 2007.
7- Hán-Việt từ điển- Nhà xuất bản Hồng Đức.
8- Tài liệu BDTX cho giáo viênTiểu học- chu kì III (2003 – 2007) – Bộ
GD và ĐT (tập 2)
9- Thông tư 22/2016/TT-BGD sửa đổi, bổ sung một số điều của quy
định đánh giá học sinh tiểu học kèm theo Thông tư 30/2014/TT-BGD.
10- Tài liệu tham khảo từ mạng Internet.
*

*

*

*

*


21

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN XẾP LOẠI

Họ và tên tác giả: Lê Thị Loan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Thọ Ngọc.
TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số bài tốn về phép chia
có dư ở lớp 3.
Xây dựng lớp học thân thiện,
học sinh tích cực.
Giúp học sinh lớp 4 viết đúng
chính tả.
Phát huy tính tích cực học
tốn của học sinh lớp 5 qua
câu lạc bộ Toán.
Giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 2 qua phân môn
Tập làm văn.
Dạy học sinh lớp 5 giải toán
về tỉ số phần trăm gắn với
thực tế.
Dùng sơ đồ tư duy dạy ơn tập
tốn 5

2.
3.
4.
5.

6.
7.

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng GD&ĐT

C

2007-2008

Phòng GD&ĐT

C

2011-2012

Phòng GD&ĐT

C


2013-2014

Phòng GD&ĐT

C

205-2016

Phòng GD&ĐT

C

2017-2018

Phòng GD&ĐT

B

2018-2019

Phòng GD&ĐT

B

2019-2020

----------------------------------------------------


22




×