Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp trong dạy học phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 trường tiểu học hải châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.5 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, việc đổi mới nền giáo dục được Đảng
và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Đổi mới giáo dục sẽ giúp cho học sinh có
năng lực sáng tạo, tư duy nhanh nhạy trong việc giải quyết mọi vấn đề. Từ đó
đặt ra cho nền giáo dục cần phải đổi mới phương pháp dạy học “Dạy học tập
trung vào người học”. Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh.
Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục. Mỗi môn học đều
góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con ng ười. Cùng
với các môn học khác, mơn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng. Học tốt
mơn Tiếng Việt, học sinh có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt các môn học khác.
Môn Tiếng Việt cung cấp cho các em các kiến thức, kĩ năng sử dụng tiếng mẹ
đẻ (nghe, nói, đọc, viết). Thơng qua việc giảng dạy mơn Tiếng Việt cịn giúp
các em có kiến thức về tự nhiên xã hội, văn hố của đất nước và tồn nhân
loại.
Mơn Tiếng Việt ở Tiểu học bao gồm nhiều phân mơn như: Tập đọc,
Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn, Tập viết và Luyện từ và câu. Mỗi phân
mơn đều có những vai trị quan trọng riêng. Trong đó, phân mơn Luyện từ và
câu có vị trí rất quan trọng, là chìa khóa mở ra kho tàng kiến thức về văn hóa
trong lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Hơn nữa, phân môn Luyện từ
và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt (tiếng mẹ đẻ), văn hóa, là cơng cụ
giao tiếp, tư duy và học tập. Đối với học sinh Tiểu học, khi sử dụng Tiếng
Việt thì phân mơn Luyện từ và câu là một phân mơn đóng vai trị vơ cùng
quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ, tư duy của học sinh nói chung
và đối với học sinh lớp 2. Trong hệ thống ngơn ngữ, từ ngữ có vai trị quan
trọng. Từ là đơn vị trung tâm của ngơn ngữ. Vốn từ của học sinh càng phong
phú, càng chính xác thì khả năng diễn đạt của học sinh (nói, viết) càng tốt
hơn.
Xuất phát từ những yêu cầu cũng như tầm quan trọng của môn Tiếng
Việt trong trường Tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng


Việt được tốt hơn kể cả trong giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng
Việt rèn cho học sinh năng lực tư duy, giáo dục cho các em tư tưởng, biết thể
hiện tình cảm của mình, sâu sắc hơn. Có như vậy mới thực hiện được nhiệm
vụ đào tạo học sinh thành những con người phát triển toàn diện mà kĩ năng
giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ chiếm một phần tạo nên sự thành công ấy cho
các em học sinh cũng như là tiền đề tốt để các em có thể tự tin lên những
bậc học cao hơn nữa.
1


Đối với học sinh Tiểu học, khi mà vốn Tiếng Việt nói chung và vốn từ
ngữ nói riêng của các em còn hạn chế, cần phải được bổ sung, mở rộng và
phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập giao tiếp, thì việc dạy từ cho học sinh
càng quan trọng hơn. Trong phân môn Luyện từ và câu, hai nhiệm vụ rèn
luyện về từ và rèn luyện về câu ln có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để
học sinh có kĩ năng về câu thì trước hết người giáo viên cần phải có biện
pháp để rèn luyện tốt kĩ năng về từ. Chính vì xác định được tầm quan trọng
khi dạy phân môn Luyện từ và câu như vậy. Tơi đã tìm hiểu về nội dung và
đưa ra một số biện pháp, kinh nghiệm nhỏ để dạy phân môn Luyện từ và câu
thông qua đề tài: “Một số biện pháp trong dạy phân môn Luyện từ và câu
cho học sinh lớp 2E Trường Tiểu học Hải Châu”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khắc phục những khó khăn và vướng mắc khi dạy và học phân mơn
luyện từ và câu, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, giúp các em hiểu
và u thích phân mơn Luyện từ và câu hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp dạy phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp quan sát, thống kê

- Phương pháp đọc tài liệu
- Dự giờ đồng nghiệp.
1.5. Những điểm mới cơ bản của sáng kiến
Nội dung sáng kiến đưa ra được các biện pháp giúp giáo viên nắm vững
mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu và biết vận dụng một số biện pháp
giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy phân môn luyện từ và câu cho học
sinh lớp 2E.
Cụ thể:
- Đưa ra được một số biện pháp để giáo viên vận dụng giảng dạy nhằm nâng
cao hiệu quả khi dạy phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2E.
- Phân nhóm các kiểu bài trong phân mơn Luyện từ và câu giúp học sinh
ghi nhớ kiến thức tốt và biết vận dụng làm bài tập ở mỗi kiểu bài đạt hiệu quả
cao.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
Phân mơn luyện từ và câu là một mơn học giữ vị trí chủ đạo trong
chương trình Tiếng Việt của lớp 2. Ngay từ đầu việc học tập ở trường, học
2


sinh đã được làm quen với lí thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức vốn từ
ngữ được mở rộng và củng cố vốn từ vận dụng vào trong cuộc sống của các
em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.
Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm
của ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng,
khơng có một vốn từ đầy đủ thì khơng thể nắm được ngơn ngữ như một
phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn đầu hình thành và phát
triển ở học sinh các kĩ năng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc viết), tạo điều kiện
học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Khả năng
giáo dục nhiều mặt của luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều khả năng để

phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hóa,
khái qt hóa, phân tích tổng hợp… và các phẩm chất đạo đức như tính cẩn
thận, cần cù. Ngồi ra, phân mơn Luyện từ và câu cịn có vai trị hướng dẫn
và rèn cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết.
Vậy Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học
khác trong tất cả các cấp học sau, cũng như trong lao động và giao tiếp trong
cuộc sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó, sử dụng Tiếng
Việt văn hóa một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và
lao động phát triển một cách tốt nhất. Hơn nữa, phân mơn Luyện từ và câu
cịn rèn cho học sinh khả năng tư duy lôgic cao và khả năng thẩm mĩ.
Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng
từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận
ra những từ, câu khơng có văn hóa để loại ra khỏi vốn từ, ngồi ra học sinh
cịn nắm được văn hóa chuẩn của lời nói.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát
triển vốn từ (phong phú hóa vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hóa
vốn từ), quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hóa vốn từ và luyện tập sử dụng
từ), tích cực hóa vốn từ.
Nhiệm vụ rèn luyện về câu của phân môn luyện từ, làm quen với các
kiểu câu như: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? một số thành phần trong câu,
tập dùng một số dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than,
trọng tâm là dấu chấm và dấu phẩy).
Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu đã được trình bày
ở trên, giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu… trong đó
biết dùng từ đặt câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu
phù hợp. Nó góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành
nhân cách cho học sinh (thông qua các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu)
3



Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được từ và mở rộng vốn từ,
giải nghĩa của từ và vế câu. Các em nắm được các kiểu câu, các dấu câu (dấu
chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than), biết cách sử dụng từ và câu
phù hợp với ngữ cảnh và lời nói.
Ngồi ra, nội dung chương trình của phân mơn Luyện từ và câu ở tiểu
học được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp
các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp
ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học phân mơn Luyện từ và câu.
2.2.1. Khảo sát chương trình sách giáo khoa
Môn Luyện từ và câu lớp 2 cả năm có 35 bài tương ứng với 35 tiết và
dạy trong thời gian 1 tiết/ 1 tuần:
+ Kì I gồm 18 bài trong đó có 2 bài ơn tập và 16 bài mới.
+ Kì II gồm 17 bài trong đó có 2 bài ơn tập và 15 bài mới.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 được chia thành hai tập (tập một và tập
hai) mỗi tập dùng trong một kì. Ở sách Tiếng Việt lớp 2 được trình bày riêng
theo từng phân mơn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và
câu, Tập làm văn.
Ở lớp 2 sự tương quan số tiết học giữa phân môn Luyện từ và câu với
các phân môn khác trong môn Tiếng Việt như sau:
Sự phân bố các tiết trong môn Tiếng Việt
Tập đọc

Kể
chuyện

Chính tả

Tập viết


Luyện từ
Tập
và câu
làm văn

Học kì I

72

18

36

18

18

18

Học kì II

68

17

34

17

17


17

Như vậy, thời gian dành cho việc học Luyện từ và câu so với các phân
môn khác cũng tương đối không phải là ít (chỉ kém phân mơn tập đọc và
chính tả). Sang học kì II số tiết học một tuần của môn học này vẫn được giữ
nguyên.
2.2.2.Khảo sát hứng thú dạy và học Luyện từ và câu của giáo viên và
học sinh.
a. Hứng thú của giáo viên
Để biết được hứng thú dạy môn Luyện từ và câu của giáo viên tơi đã trị
chuyện trực tiếp với các giáo viên trong khối nói riêng và giáo viên trong
trường nói chung các đồng chí đều có ý kiến cho rằng dạy phân mơn Luyện
từ và câu là rất khó so với các phân mơn khác trong Tiếng Việt với lí do:
4


+ Dạy Luyện từ và câu là khó có nhiều từ ngữ, câu xác định cho học sinh
hiểu được là không phải là dễ.
+ Giờ Luyện từ và câu thường trầm và khơ, khơng sơi nổi, học sinh ít
chú ý vào bài, giáo viên phải chuẩn bị nhiều đồ dùng cho một tiết dạy như:
bảng phụ, phấn màu,…mặc dù đã sử dụng máy chiếu
+ Dạy Luyện từ và câu là khó vì nhiều khi có những từ ngữ rất khó giải
thích cho học sinh hiểu, khơng thể giải thích bằng hình ảnh.
Ví dụ: Khi dạy bài : “ Từ ngữ về muông thú” (Tuần 23)
Sau khi dạy xong bài, phần củng cố giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm
nêu tên các con thú nguy hiểm và thú không nguy hiểm thì lúc đó có học sinh
nêu: Con rắn
Học sinh không biết và không hiểu rõ con rắn các em vừa nêu là lồi bị
sát chứ khơng phải là lồi thú.

+ Phải đầu tư nhiều thời gian khi chuẩn bị bài (Bài giảng điện tử). Nếu
máy tính hoặc máy chiếu có sự cố, hay mất điện thì bài dạy rất khó thành
cơng.
Ví dụ: Cũng với bài dạy: “Từ ngữ về muông thú” (Tuần 23)
Khi dạy tôi phải tự sưu tầm các tranh ảnh các con vật như: lợn rừng, bò
rừng, tê giác, chồn,… trình chiếu trên màn hình để học sinh nhìn rõ những
đặc điểm của lồi thú nguy hiểm và biết được vì sao nó nguy hiểm. Chuẩn bị
một tiết dạy công phu như vậy nhưng nếu mất điện hoặc máy tính, máy chiếu
có sự cố thì bài dạy rất khó thành cơng.
+ Phương pháp mà giáo viên thường sử dụng trong tiết này đó là: giảng
giải, hỏi đáp, gợi mở, làm mẫu, luyện tập… cùng với phương pháp trực quan.
b. Hứng thú của học sinh
Tôi đã lập ra những hệ thống câu hỏi, xây dựng phiếu trắc nghiệm để
điều tra hứng thú và việc học Luyện từ và câu của học sinh lớp 2E:
Em hãy điền dấu (x) vào ô trống mà em cho là hợp với em nhất:
Câu 1 : Em có thích học phân mơn Luyện từ và câu khơng ?
- Rất thích :
7 /33 em = 21,2%
- Bình thường :
18/33 em = 54,6 %
- Khơng thích :
8 /33 em = 24,2%
Câu 2: Trong giờ Luyện từ và câu em thường :
- Chú ý nghe giảng:
7/33 em = 21,2%
- Phát biểu ý kiến xây dựng bài :
13/33 em = 39,4%
- Chỉ nghe không phát biểu ý kiến: 10/33 em = 30,4%
- Không chú ý vào bài :
3/33 em = 9,0%

5


Câu 3 : Em có làm đầy đủ bài tập của phân mơn Luyện từ và câu khơng ?
- Có :
33/33 em = 100%
- Khơng :
0 em = 0%
- Cịn thiếu :
0 em = 0%
Qua khảo sát tôi thấy:
- Đa số các em khơng thích học phân mơn này, số học sinh thích là rất ít
- Mặc dù phân mơn này không gây nhiều hứng thú đối với các em nhưng
trong giờ học đa số các em vẫn luôn chú ý nghe giảng bài, tích cực giơ tay
phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Đa số các em đều tự học và tự làm bài, làm đầy đủ các bài tập ở lớp.
- Mặc dù chưa gây được hứng thú nhiều nhưng hầu hết học sinh đều có
thái độ tích cực trong việc học Luyện từ và câu.
2.2.3. Khảo sát thực trạng khả năng nắm kiến thức Luyện từ và câu của
học sinh thông qua các bài tập
*Những căn cứ để đánh giá.
- Hình thức: Viết đúng, ít sai lỗi chính tả, trình bày rõ ràng, khơng gạch
xóa.
- Nội dung: Thực hiện đúng yêu cầu của bài.
- Làm đúng chính xác về kiến thức.
Ngồi ra, cũng có một số học sinh có sự sáng tạo, viết được nhiều câu
văn hay cảm xúc chân thành.
Nội dung khảo sát :
Bài tập1: Điền vào ngoặc đơn ( ) dấu chấm hoặc dấu hỏi:
Nam nhờ chị viết thư thăm ơng bà vì em mới vào lớp 1, chưa biết viết ( )

Viết xong thư, chị hỏi:
Em có muốn nói thêm gì nữa khơng ( )
Cậu bé đáp:
- Dạ có ( ) Chị viết hộ em vào cuối thư : “ Xin lỗi ông bà vì chữ cháu
xấu và nhiều lỗi chính tả”.
Đáp án bài tập :
Nam nhờ chị viết thư thăm ơng bà vì em mới vào lớp 1, chưa biết viết (.)
Viết xong thư, chị hỏi:
- Em có muốn nói thêm gì nữa khơng (?)
Cậu bé đáp:
- Dạ có (.) Chị viết hộ em vào cuối thư : “ Xin lỗi ông bà vì chữ cháu
xấu và nhiều lỗi chính tả”.

6


Kết quả đạt được
Kết quả đạt được
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hồn thành
2E
34
15
18
0
(1KT)
(45,5%)

( 54,5%)
(0%)
Sau khi làm bài tập này, tơi thấy đa số học sinh hiểu và nắm được yêu cầu
của bài. Một số em trình bày bài sạch đẹp, viết đúng chính tả.
Dù dạng bài tập nhận biết dấu chấm, dấu chấm hỏi học sinh đã làm quen
từ đầu năm học đến bây giờ. Tuy nhiên vẫn còn một số em xác định dấu chấm
chưa chính xác, các em còn nhầm giữa dấu chấm và dấu chấm hỏi. Nguyên
nhân dẫn đến sai sót này là do các em chưa nắm được khái niệm về dấu câu,
khơng chịu khó làm bài tập và chưa thật sự tập trung chú ý nghe giảng bài trên
lớp nên dẫn đến bài làm chưa đúng.
Bài tập2 : Chọn từ ngữ thích hợp rồi điền vào chỗ trống để tạo thành một câu
hoàn chỉnh:
a/ Cháu ….. ông bà.
b/ Con …… cha mẹ.
c/ Em ….. anh chị.
Đáp án bài tập:
a/ Cháu yêu thương ( kính yêu…) ông bà.
b/ Con thương yêu ( yêu quý…..) cha mẹ.
c/ Em yêu quý ( kính mến ….) anh chị.
Kết quả đạt được
Mức đạt được
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
2E
34
17
13

3
(1KT)
( 51,7%)
( 39,3%)
(9,0%)
Sau khi tìm được các từ ngữ nói về tình cảm như: u mến, thương u,
kính mến, q mến…. Học sinh vận dụng các từ ngữ đó để vào làm bài tập.
Vậy để làm được bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về từ
và câu, phải xác định được từ ngữ chính xác để điền vào chỗ trống thành câu
hồn chỉnh.
- Nói chung các em hiểu bài và làm bài tập tốt, các em xác định đúng từ
cần điền vào chỗ trống tương đối chính xác, nhiều em trình bày bài sạch sẽ
cho nên bài của các em được nhận xét, đánh giá hoàn thành tốt.
- Bên cạnh đó một số em việc nắm nghĩa của từ còn mơ hồ nên các em
dùng từ chưa chính xác.
7


Bài tập 3: Gạch một gạch dưới bộ phận câu trả lời câu hỏi Ai ? Gạch hai
gạch dưới bộ phận câu trả lời câu hỏi làm gì ?
Mẫu : Chi / đến tìm bơng cúc màu xanh.
a. Cây xịa cành ôm cậu bé.
b. Em học thuộc đoạn thơ.
c. Em làm ba bài tập toán.
Đáp án bài tập :
a. Cây / xịa cành ơm cậu bé .
b. Em / học thuộc đoạn thơ.
c. Em / làm ba bài tập toán .
Kết quả đạt được
Mức đạt được

Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
2E
34
17
13
3
(1KT)
( 51,6%)
(39,4%)
(3,0%)
Đây là dạng bài tập nhận biết về bộ phận câu, học sinh được làm quen
từ đầu năm học. Qua bài tập này, tôi thấy việc nắm các câu chia theo mục
đích nói của một số em là rất tốt, gạch dưới các bộ phận câu chính xác. Còn
một số em vẫn còn hiểu mập mờ giữa hai bộ phận câu nên chia và gạch câu
chưa chính xác.
2.2.4. Kết luận khảo sát.
a.Nguyên nhân chủ quan
- Ưu điểm của học sinh
Hầu hết học sinh đều có ý thức làm bài tập, có thái độ tích cực trong
việc học và làm bài tập Luyện từ và câu. Xét một cách toàn diện các em đều
nắm được những kiến thức và kĩ năng cơ bản về Luyện từ và câu. Các dạng
bài tập cụ thể các em đều tự độc lập suy nghĩ làm bài theo đúng khả năng của
mình, khơng nhìn bài của bạn.
Một số em làm bài tập đạt kết quả tương đối cao, biết cách trình bày bài
và chữ viết sạch đẹp. Qua bài tập dùng từ đặt câu, dùng dấu chấm, dấu chấm
hỏi học sinh đã bộc lộ tình cảm trong sáng của lứa tuổi học trị. Cụ thể là lứa

tuổi tiểu học hồn nhiên các em đã thể hiện được tình cảm, đạo đức, tình yêu
con người và yêu quê hương đất nước qua các câu văn, bày tỏ được suy nghĩ,
tư tưởng tiến bộ rất đáng trân trọng.
- Nhược điểm của học sinh
Do trình độ phát triển trí tuệ của học sinh nghèo vốn từ, không nắm
được khái niệm bản chất của từ, việc nắm nghĩa của từ còn mơ hồ.
8


- Năng lực của học sinh còn hạn chế, thiếu kiên trì, chưa chịu đọc kĩ đề.
- Khả năng xác định từ, câu của học sinh còn yếu kém, các em cịn nhầm
lẫn giữa cách chia câu theo mục đích nói, chưa hiểu nghĩa của câu khi nào thì
đặt dấu chấm và khi nào đặt dấu chấm hỏi.
- Đây là bước đầu học sinh tiếp xúc và làm quen với Luyện từ và câu nên
các bài làm của các em còn nhiều hạn chế, khả năng diễn đạt của các em còn
hạn chế, chưa thực sự tốt ở cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, khi giao tiếp
các em nói chưa lưu lốt, thường nói theo suy nghĩ của mình.
b. Nguyên nhân khách quan:
- Cơ sở vật chất thiếu thốn: Các thiết bị, phương tiện dạy học còn chưa
đảm bảo.
- Học sinh đóng trên địa bàn phần đa là con em gia đình lao động tự do,
thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ.
2.3. Các giải pháp trong giảng dạy phân môn Luyện từ và câu.
2.3.1. Khơi sự tị mị, hứng thú học cho các em bằng chính lời giới
thiệu hấp dẫn.
Ví dụ: Khi giới thiệu bài Luyện từ và câu ở Tuần 3: “Từ chỉ sự vật. Kiểu
câu: Ai là gì?”. Đây chính là bài học với chủ đề: Bạn bè. Giáo viên có thể
hỏi: Trong tuần các em đã học những bài tập đọc nào nói về bạn bè? Sau khi
học sinh trả lời, giáo viên sẽ giới thiệu: Các con đã được học những bài tập
đọc nói về tình bạn. Các con có biết từ chỉ sự vật là gì khơng? Muốn nói với

kiểu câu Ai là gì? Con sẽ nói như thế nào? Hơm nay cơ sẽ cùng các con tìm
hiểu về từ chỉ sự vật và kiểu câu: Ai là gì? Hoặc tơi có thể dùng tranh ảnh để
giới thiệu bài nhằm gây hứng thú, tạo nhu cầu học bài ở học sinh.
2.3.2. Sử dụng cơng nghệ thơng tin kích thích sự ham học hỏi cho
học sinh:
Áp dụng công nghệ thông tin tăng hiệu quả giờ học. Nhưng với điều
kiện cơ sở vật chất chưa tiện nghi như trường tôi, khi dạy một tiết bằng công
nghệ thông tin, tốn nhiều thời gian cho khâu chuẩn bị nên đôi khi tôi rất cân
nhắc, cân đối thời gian buổi học vì cịn nhiều mơn học khác cần phải rèn.
Ví dụ: Khi dạy bài : “Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy” (Tuần 26)
Tôi đã sưu tầm một số tranh ảnh về các loài cá nước ngọt và nước mặn.
Sau đó giới thiệu cho học sinh biết đây là các loài cá nhưng để biết đâu là cá
nước ngọt? Đâu là cá nước mặn? cho học sinh xem các tranh ảnh để có hứng
thú với bài học của mình, sẽ khắc sâu kiến thức hơn.

9


2.3.3. Làm các bài tập luyện từ và câu thông qua các trò chơi tạo
hứng thú cho việc học
Làm các bài tập thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng, tổ chức
các trò chơi: học mà chơi, chơi mà học gây hứng thú, tâm lí thoải mái, vui
vẻ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhẹ nhàng, nhớ lâu. Sau mỗi bài tập, tôi
giúp học sinh rút ra các kết luận về kiến thức, những điều cần lưu ý để các
em ghi nhớ. Ngồi những giờ học chính thức theo chương trình, trong một
tuần tơi dành 10 phút đầu giờ trong một, hai buổi học tổ chức cho các em
10


làm các bài tập Luyện từ và câu chủ yếu là vui học, có thể học sinh viết trên

bảng con hoặc nêu sự chọn lựa mà không làm vào vở, tạo cho học sinh cảm
giác đang chơi hơn là đang học. Dựa vào những lỗi mà học sinh của tôi hay
mắc phải (được ghi chú trong giáo án sau mỗi tiết dạy hoặc tơi chuẩn bị
Chiếc hộp bí mật để sau tiết học học sinh ghi vào tờ giấy nhỏ, khơng cần ghi
tên, bỏ vào đó những câu, những bài đã làm sai) tơi đã xây dựng những bài
tập, trị chơi.
Ví dụ : Ai nhanh hơn?
2.3.4. Phân nhóm các kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu
a. Dạy bài lí thuyết về từ.
Ở lớp 2, có những bài dạy về lí thuyết từ như: Từ và câu, Từ ngữ chỉ sự
vật (danh từ), Từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái (động từ), Từ ngữ chỉ đặc
điểm, tình cảm (tính từ)…. Những bài học này là tổng kết những kiến thức
được rút ra từ những bài tập học sinh được làm. Khác với chương trình lớp 2
cũ, chương trình lớp 2 mới học sinh được làm bài tập sau đó mới rút ra kiến
thức trọng tâm của bài.
Dạy nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản
ánh đối tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm
thanh xác định để làm tăng vốn từ cho học sinh, giáo viên cần phải cung cấp
những từ mới bằng những tranh ảnh, hoạt động hay lời nói mà giáo viên đưa
ra. Cơng việc đầu tiên của dạy từ là phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ,
hiểu được tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ và nó cịn là nhiệm vụ
sống cịn trong sự phát triển ngơn ngữ của trẻ em.
Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu nghĩa của từ,
phải biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy, phù hợp với đối tượng học
sinh. Giải nghĩa từ bằng trực quan là biện pháp giáo viên đưa vật thật, tranh
ảnh,… giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách dễ dàng nhưng cách giải
nghĩa này địi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị khá cơng phu.
Ví dụ: Bài “Từ chỉ sự vật” (Tuần 3)
Giáo viên giải nghĩa cho học sinh các từ chỉ sự vật như: bộ đội, cơng
nhân, cây dừa, cây mía… thơng qua tranh và lời nói của giáo viên. Ngồi ra,

giáo viên cịn giải nghĩa bằng ngữ cảnh, đó là đưa từ vào trong một nhóm từ,
một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Giáo viên không cần
giải thích mà nghĩa của từ tự bộc lộ trong ngữ cảnh .
Ví dụ: Bài Từ và Câu (Tuần 1).
Giải thích từ “nhà”, giáo viên có thể đưa từ nhà vào trong câu:
Nơi em ở là ngôi nhà ba tầng.
11


b. Dạy bài mở rộng vốn từ
Cơ sở của việc hệ thống hóa vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con
người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc
mà là một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất
định giữa các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta nhớ đến từ kia
nên từ được tích lũy nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dụng trong lời
nói và khi sử dụng nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động
lựa chọn từ phù hợp với u cầu giao tiếp.
Với mục đích tích lũy nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ
một cách dễ dàng, giáo viên đưa ra những từ theo một hệ thống và đồng thời
xây dựng một bài tập hệ thống hóa vốn từ trong dạy từ. Ở lớp 2, các em được
học từ theo chủ đề, cứ 2 tuần các em được học một chủ đề.
Ví dụ: Tuần 21 và 22 các em học chủ đề “chim chóc” thì ở Luyện từ và câu
các em được học từ ngữ về chim chóc và mở rộng vốn từ các từ ngữ về loài
chim.
Khi học sinh chưa nắm chắc từ thì giáo viên cần gợi ý từ và giúp học
sinh hiểu được nghĩa của từ và nắm chắc hệ thống từ một cách thành thạo,
biết dùng từ để đặt câu. Giáo viên cần định hướng những từ nhất định, cần
thu hẹp phạm vi liên tưởng lại.
Ví dụ: Khi dạy bài “Từ ngữ về các môn học” (Tuần 7)
Giáo viên đưa ra những câu hỏi gợi từ để giúp học sinh nắm được hệ

thống của từ trong chủ đề “ Thầy cơ” như :
- Trong thời khố biểu, những mơn học nào em được học nhiều nhất?
(Mơn Tốn và Tiếng Việt)
- Ngồi ra em cịn học những mơn học nào khác nữa ? (Tự nhiên và Xã
hội, Đạo đức, Nghệ thuật, …)
- Trong mơn Tiếng Việt các em học gồm có những phân mơn nào ? (Tập
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Kể chuyện, Tập làm văn)
- Trong mơn nghệ thuật em thấy có những phân mơn nào ?(Thủ cơng,
Âm nhạc, Mĩ thuật)
Sau đó giáo viên dùng những tấm bìa khác màu để phân biệt các mơn
học. Giải các bài tập hệ thống hóa vốn từ, học sinh sẽ xây dựng được những
nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này giáo viên
cần có những vốn từ cần thiết và phân biệt được các loại từ.
Ví dụ: Chọn từ ngữ thích hợp rồi điền vào chỗ trống để tạo thành một câu
hoàn chỉnh:
a/ Cháu ….. ông bà.
12


b/ Con …… cha mẹ.
c/ Em ….. anh chị.
- Giáo viên phải xác định cho học sinh ở bài tập này phải điền những từ
ngữ nói về tình cảm mà các em đã được học. Sau đó học sinh có thể điền
nhiều từ có nghĩa tương tự nhau như:
Cháu kính u ơng bà (học sinh có thể điền: kính trọng, thương u….)
c. Dạy bài tích cực hóa vốn từ
Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm
rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền
từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ….
Ví dụ: Bài “Từ ngữ về tình cảm” (Tuần 12)

Dùng mũi tên ( ) nối các tiếng sau thành những từ có hai tiếng rồi ghi
các từ tìm được vào dịng dưới.
u
thương

mến

q

kính

Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách: các em tạo các từ theo từng
tiếng dưới dạng sơ đồ cây. Như tiếng“ yêu” ta có các từ: yêu thương, yêu
quý, yêu mến..tương tự như vậy học sinh sẽ tạo các từ tiếp theo.
Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một
cách rõ ràng. Khi cần có thể giải thích để các em nắm được yêu cầu của bài
tập. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc trình tự
giảng bài, cần có những dự tính cho những tình huống và những lỗi học sinh
mắc phải khi giải bài tập để sửa chữa kịp thời.
Ví dụ: Khi dạy bài : “Từ ngữ về muông thú” (Tuần 23)
Khi dạy dạng bài này, giáo viên cần nắm chắc các tiêu chí để phân loại
và xếp theo các nhóm phù hợp, nếu học sinh cịn lúng túng giáo viên phân
tích kĩ mẫu cho học sinh để dựa vào từ mẫu các em phân loại được các từ
ngữ khác.
Sau khi dạy xong bài, phần củng cố giáo viên u cầu học sinh các nhóm
tìm tên các con thú nguy hiểm và thú không nguy hiểm thì lúc đó có học sinh
nêu: “Con rắn”. Khi đó, giáo viên phải giải thích cho học sinh hiểu rắn
khơng phải là lồi thú mà là lồi bị sát nên kể tên rắn vào đây là sai.
13



d. Dạy bài khái niệm câu
Quá trình hình thành khái niệm câu có thể chỉ ra theo các bước sau:
- Đưa ngữ liệu và phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu
hiệu bản chất của khái niệm.
- Khái quát hóa dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái
niệm đưa thuật ngữ (học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp)
Để chuẩn bị dạy khái niệm câu giáo viên cần đặt trong hệ thống chương
trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm.
Cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp như: trực quan, hỏi đáp, để
phân tích, so sánh và giảng giải để rút ra kiến thức của bài học .
Các bài tập nhận diện, phân tích trong q trình hướng dẫn học sinh làm
bài tập giáo viên cần đặt ra những câu hỏi thích hợp đối với đối tượng học
sinh. Những bài tập xây dựng tổng hợp chủ yếu nằm ở cấp độ câu, nó được
xây dựng thành nhóm. Nhóm các bài tập theo mẫu gồm :
- Bài tập viết theo mẫu làm rõ ý nghĩa của câu.
- Trả lời câu theo mẫu có sẵn.
Nhóm các bài tập này, giáo viên đưa ra các ví dụ và làm mẫu. Ở đây ví
dụ phải là mẫu đích thực và câu hỏi cần dần dần tăng độ khó.
Ví dụ: Khi dạy câu kiểu: Ai - là gì?
Trước khi vào bài dạy giáo viên cần phân tích mẫu, cho học sinh lấy ví
dụ theo câu kiểu Ai - là gì ? Sau đó mới đi vào thực hành nói và viết theo câu
kiểu Ai - là gì ? Câu kiểu Ai-là gì? tức là giới thiệu về người, con vật, đồ vật,
cây cối nào đó.
Ví dụ : - Lan là học sinh lớp 2E .
Ai
là gì?
- Điện thoại là phương tiện thơng tin nhanh nhất .
Cái gì
là gì?

- Cị và Vạc là đơi bạn thân .
Con gì
là gì?
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành với bài tập sau :
Bài tập 1 : Đặt câu theo mẫu dưới đây rồi ghi vào chỗ trống
Ai (hoặc cái gì, con gì)
là gì ?
Bạn Vân Anh
là học sinh lớp 2E
……………………………………
…………………………………………………

…………………………………………………
……………………………………
…………………………………………………

……………………………………
14



Bài tập 2 : Ghi từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành câu:
Ai (hoặc cái gì, con gì)
là gì ?
……………………………………………
Em
………………………………

Là đồ dùng học tập thân thiết của em.


Các nhóm bài tập sáng tạo gồm có dạng bài như: Bài tập biến dạng các
kiểu câu, bài tập xác định dấu câu và tự viết hoa, bài tập xây dựng theo cấu
trúc đã cho, bài tập cho trước đề bài yêu cầu đặt câu, bài tập dựa vào tranh để
đặt câu, cho từ yêu cầu đặt câu... Với nhóm bài tập này giáo viên cần đưa
tranh để phân tích chủ đề và làm mẫu... Hướng dẫn học sinh làm bài và bổ
sung thêm để có những câu văn hay, có cấu trúc câu đầy đủ và có sức biểu
hiện đồng thời dùng phương pháp trị chơi để kích thích sáng tạo thi đua học
tập của học sinh.
Giáo viên cần phải có nội dung rõ ràng về số l ượng bài tập, nhiều tiết
phải lựa chọn bài tập để giảm bớt thời gian làm bài tập, tích cực hố hoạt
động học tập của học sinh. Phải nắm được trình tự làm bài tập và dự tính
được những câu trả lời của học sinh và những sai phạm mà các em có thể
mắc phải để chuẩn bị sẵn phương án sửa chữa khi học sinh khơng làm được
bài tập thì giáo viên phải cắt nhỏ từng bước để sửa sai cho học sinh.
Phải dành thời gian đúng mức cho khâu kiểm tra đánh giá. Có thể cho
học sinh kiểm tra nhau, đánh giá phải có mẫu lời giải đúng để học sinh tự
đánh giá bài làm của mình.
2.3.5 Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh phát huy tối đa vốn hiểu biết
cá nhân trong từng lĩnh vực kiến thức, thể hiện tính tích cực sáng tạo trong
học tập.
Thường trong một lớp có HS khá, giỏi,trung bình, yếu. Những HS yếu sẽ rất
ngại khi nói, bởi đơi khi các em nói không đúng yêu cầu. Nên khi hướng dẫn
thực hành bài tập giáo viên sẽ dành cho HS yếu được nói trước những gì các em
nghĩ được , tránh để HS khá giỏi nói trước, HS yếu sẽ mất tự ti , sợ giống ý kiến
của bạn, sợ sai. Không phải HS yếu bao giờ cũng nói khơng đúng, vì vậy khi
dạy phân mơn Luyện từ và câu khơng khó khăn lắm khi GV cho HS yếu được
tham gia hoạt động. Giáo viên sẽ ít tốn thời gian hơn trong việc giữ trật tự lớp
học (bởi HS không làm việc sẽ nói chuyện riêng).
Giáo viên cần cho học sinh thực hiện đúng vai trị của mình là nhân vật
trung tâm. Các em nắm vai trò chủ đạo trong việc phát hiện, tìm tịi, lĩnh hội tri

15


thức. Bên cạnh đó cần có sự kiểm tra, hướng dẫn thường xuyên, đánh giá một
cách kịp thời, công bằng khách quan của giáo viên. Sau đó là sự động viên,
khuyến khích của giáo viên để học sinh thấy được vai trị, kết quả và sự cố gắng
của mình trong việc học tập. Từ đó các em sẽ cố gắng hơn, tích cực hơn, sáng
tạo hơn nữa trong học tập.
2.3.6. Xây dựng cho học sinh kỉ năng vận dụng kiến thức bài học vào
thực tiễn cuộc sống, tạo thành thói quen ứng dụng thực tiển, khắc sâu kiến
thức,hình thành kĩ năng sống tích cực.
Chương trình phân mơn Luyện từ và câu ở lớp 2 được xây dựng rất gần
gũi với đời sống thường ngày của HS, đó cũng là một thuận lợi cho việc học tập
của các em, chính vì thế GV phải biết tận dụng vốn kiến thức bản thân HS để
chuyển tải kiến thức một cách linh hoạt. Chẳng hạn: Khi dạy bài “ Từ ngữ về đồ
dùng và cơng việc gia đình” HS sẽ rất dễ khi kể về công việc những người thân
đã làm: quét nhà, rửa chén, nấu cơm, làm cỏ vườn…Nhưng đôi khi sẽ lúng túng
khi kể về công việc mà bản thân làm được. Một phần vì tuổi các em cịn nhỏ
chưa tham gia nhiều vào việc nhà, một phần vì có em là con cưng trong gia đình
nên khơng phải làm việc nhà…Khi gặp trường hợp như thế giáo viên cần động
viên nhắc nhở các em cố gắng tham gia vào việc nhà, làm những gì mình có thể,
ví dụ: cho gà ăn, phụ mẹ dọn cơm, gấp quần áo…Đó cũng chính là liên hệ thực
tiễn vào bài học và khắc sâu kiến thức bài học hình thành cho HS kỹ năng sống
tích cực hơn, biết chia sẽ cơng việc với người thân, biết quan tâm giúp đỡ ông bà
cha mẹ.
2.3.7. Để việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu được tốt, tơi cịn
quan tâm tới một số điểm sau:
Giáo viên phải thường xuyên trau dồi kiến thức, lập bảng chương trình
để thấy được mối quan hệ và mức độ yêu cầu của mỗi bài học.
Các bài tập cần phải phù hợp với đối tượng học sinh, giáo viên cần linh

hoạt sử dụng các bài tập thiết thực có tác dụng trực tiếp đối với học sinh.
Đối với mỗi dạng bài tập cần có tài liệu tham khảo cho cả giáo viên và
học sinh nhằm bổ sung kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết của học sinh tạo
cho các em có cơ sở để phát triển óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.
Ví dụ: Khi dạy các tiết với bài “Ơn các từ ngữ về lồi chim” tơi đã đưa ra
các câu hỏi về lồi chim. Sau đó yêu cầu học sinh giải thích và nêu đặc điểm
của các lồi chim đó:
Câu đố thứ nhất :
Câu đố thứ hai :
Con gì nho nhỏ
Mỏ dài lơng biếc
Cái mỏ xinh xinh
Trên cành lặng yên
16


Chăm nhặt, chăm tìm
Bỗng vút như tên
Bắt sâu cho lá
Lao mình bắt cá
- Là: Con chim sâu
- Là: Chim bói cá
Câu đố thứ ba :
Câu đố thứ tư :
Mỏ cứng như dùi
Con gì đậu ở trên cao
Gõ ln khơng mỏi
Cúc cu gáy rộn đón chào nắng mai
Cây nào sâu đục
- Là: Chim cu gáy.

Có tơi ! Có tơi !
- Là: Chim gõ kiến
Sau khi học sinh đã giải xong câu đố về các loài chim, giáo viên hỏi:
Dựa vào các câu đố ở trên con hãy nêu đặc điểm của con chim sâu, chim bói
cá, chim gõ kiến, chim cu gáy?
Việc rèn luyện các kĩ năng: nghe, đọc, nói và viết cần đưa vào phân môn
Luyện từ và câu một cách đầy đủ hơn và thường xuyên hơn. Nhất là hai kĩ
năng nói và viết. Cần chú ý sửa nói ngọng cho học sinh, sửa những lỗi chính
tả cho học sinh và luyện cho các em viết các câu văn hay và nội dung đảm
bảo về mặt hình thức.
2.4. Hiệu quả
Qua thực tế áp dụng giảng dạy Luyện từ và câu theo phương pháp tích
cực cho học sinh lớp 2 được thực nghiệm dạy ở lớp 2E, kết quả đạt được
như sau:
Mức đạt được
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
2E

34
(1KT)

18 em = 57,5 %

15 em = 45,5%

0


Khi áp dụng các giải pháp trên, kết quả học sinh hiểu nghĩa từ, nắm
nghĩa từ, giúp học sinh khắc phục kĩ năng dùng từ, viết câu; giúp các em tự
tin, hứng thú, chủ động học tập phân môn Luyện từ và câu. Trong lớp 100%
số học sinh đạt Hồn thành và khơng có học sinh Chưa hồn thành. Ngồi ra,
nó cịn giúp các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động
và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Phân mơn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng cho việc phát
triển văn hóa của đất nước, bởi vì một đất nước phát triển thì trước tiên con

17


người phải phát triển. Cho nên việc rèn luyện từ và câu cho học sinh là thiết
thực mang đầy đủ ý nghĩa.
Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kĩ năng dùng từ để
đặt câu là rất cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập
Luyện từ và câu đúng và không sai yêu cầu học sinh phải nắm chắc lí thuyết
và các quy tắc, định nghĩa, kĩ năng làm bài tập.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và
câu ở lớp 2, tôi thấy để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp:
- Soạn bài các tiết Luyện từ và câu thật cẩn thận và có chất lượng.
- Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau
dồi kiến thức phân môn Luyện từ và câu với các đồng nghiệp.
- Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, hái hoa
dân chủ đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
học sinh
- Sử dụng đồ dùng trực quan, làm tranh minh họa để tạo hứng thú học

tập cho học sinh và nhớ nhanh nội dung bài học.
- Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tìm được những từ có
nghĩa để đặt câu.
- Cần quán triệt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh
làm chủ thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động
trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức. Các em phải hồn tồn tự mình
tham gia mọi hoạt động nhận thức và giao tiếp.
3.2. Kiến nghị
- Tơi rất mong các cấp lãnh đạo phịng GD&ĐT, sở GD&ĐT tổ chức các
chuyên đề, phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy tốt để tạo điều kiện tất cả
các giáo viên được học tập kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao hiệu quả giảng
dạy với phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”.
Với mục đích là nâng cao kết quả giảng dạy và hồn thành chun mơn
của người giáo viên Tiểu học tơi xin có một số kiến nghị sau:
- Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu để
giáo viên học hỏi kinh nghiệm khi dạy học
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp nhằm
giúp giáo viên nâng cao chất lượng các tiết học Luyện từ và câu.
Trên đây chỉ là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng vào giảng dạy tại
lớp 2E năm học 2020 – 2021. Tôi mong rằng đồng nghiệp sẽ có những đóng
góp thêm cho bài viết của tơi được hồn chỉnh hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hải Châu, ngày 19 tháng 4 năm2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN

của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Hồng Thị Ngân

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
Tên tài liệu
Biên soạn
Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh
1 Tiếng Việt thực hành
Nhà xuất bản ĐHSP Hà Nội
2 Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1
Nhà xuất bản GD 2000
3 Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt
Viện ngôn ngữ học
4 Từ điển Tiếng Việt phổ thông

20


MỤC LỤC
TT

Nội dung


1 Mở đầu

Trang
1

1.1 Lí do chọn đề tài

1

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

1.3 Đối tượng nghiên cứu

2

1.4 Phương pháp nghiên cứu

2

1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

2

2 Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm


2

2.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4

2.3 Các giải pháp đã sử dụng

9

2.4

17

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

3 Kết luận, kiến nghị

17

3.1 Kết luận

17

3.2 Kiến nghị

18

Tài liệu tham khảo


21


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THỊ XÃ NGHI SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG DẠY PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 2E
TRƯỜNG TIỂU HỌC HẢI CHÂU

Người thực hiện: Hồng Thị Ngân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Hải Châu
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2021
22



×