Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao hiệu quả các tiết luyện nói cho học sinh trong dạy học ngữ văn lớp 6 ở trường THCS kỳ tân, huyện bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.01 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC TIẾT LUYỆN
NÓI CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN LỚP 6 Ở
TRƯỜNG THCS KỲ TÂN, HUYỆN BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Kỳ Tân
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HỐ, NĂM 2021


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

Trang 1

1.1. Lí do chọn đề tài................................................................... Trang 1
1.2. Mục đích nghiên cứu............................................................ Trang 2
1.3. Đối tượng nghiên
cứu...........................................................

Trang 2

1.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................... Trang 2-3


2. NỘI DUNG

Trang 3

2.1. Cơ sở lí luận......................................................................... Trang 3-5
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN.................. Trang 5-6
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả các tiết
luyện nói cho học sinh trong dạy học Ngữ văn lớp 6 ở trường Trang 6-16
THCS Kỳ Tân .................................................................................
2.4. Hiệu quả của SKNN............................................................. Trang 16-18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trang 18

3.1. Kết luận................................................................................ Trang 18-19
3.2. Kiến nghị.............................................................................. Trang 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 20

DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN

Trang 20


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Theo điều 2 Luật giáo dục (14/6/2019) “Mục tiêu giáo dục nhằm phát
triển tồn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe,

thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế” [1]. Do đó mà trong q
trình giảng dạy hiện nay, việc sử dụng các phương pháp dạy học đòi hỏi người
thầy ln phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình
thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn.
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Trong thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ Văn ở
trường THCS Kỳ Tân, tôi nhận thấy rằng học sinh lớp 6 mới chuyển từ mơi
trường tiểu học lên mơi trường THCS đang cịn rất bỡ ngỡ về cách học trong
một môi trường mới, chính vì lí do đó, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách
đọc, cịn mắc lỗi về đọc và nói.
Tục ngữ có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Có lẽ khơng phải
ngẫu nhiên mà “ học nói" được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Ca dao lại có
câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau” Điều này
cho thấy nói là một kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Nói khơng
chỉ đơn thuần là hoạt động phát ra thành tiếng, thành lời mà quan trọng là làm
thế nào để lời nói đó truyền đạt được lượng thơng tin đến với người nghe một
cách chính xác, dễ hiểu đồng thời phải thể hiện được tư tưởng, tình cảm của
người nói.
“Nói là hoạt động phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung
nhất định trong giao tiếp”. Như vậy nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con
người. Kể chuyện bằng ngôn ngữ nói giữa người này với người khác cũng là
hình thức giao tiếp tự nhiên hằng ngày, bất cứ ai cũng thực hiện trong đời sống
của họ. Trong cuộc sống ta vẫn bắt gặp những cuộc trò chuyện rất vui vẻ, cởi
mở, thân tình giữa các em học sinh ta thấy chúng thật sinh động và tự nhiên biết

bao. Vậy thì cần gì phải học nói, luyện nói trong nhà trường ?
Luyện nói trong nhà trường là để nói trong một môi trường giao tiếp khác,
môi trường xã hội, tập thể công chúng. Đứng trước môi trường này nhiều học
sinh thường ngày vốn biết ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng
nghịu. Luyện nói trong nhà trường là nói theo những chủ đề, vấn đề không quen
thuộc trong đời sống hằng ngày, lại yêu cầu nói mạch lạc, liên kết, khơng được
tuỳ tiện, do đó cần phải luyện tập trong mơi trường giao tiếp xã hội. Luyện nói
tốt sẽ giúp người học có được một cơng cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã
hội. Qua những tiết luyện nói, những học sinh có khả năng giao tiếp tốt có cơ


2
hội để rèn luyện thêm khả năng nói năng của mình, đồng thời tạo cơ hội để
những học sinh rụt rè, nhút nhát dần làm quen với cách nói, cách trình bày một
vấn đề trước đám đơng giúp các em trở thành một chủ thể tự tin khi giao tiếp
trong cuộc sống.
Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thơng tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền
đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Tuy nhiên cần
phải khẳng định rằng năng lực viết, ngôn ngữ viết cố nhiên là quan trọng, song
đó là ngơn ngữ trừu tượng, vì chỉ có những chữ viết khơng có các yếu tố khác bổ
trợ; cịn ngơn ngữ nói là phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu sống
động, có sức truyền cảm trực tiếp giữa người nói và người nghe. Do vậy nói
năng tốt sẽ đem lại những thuận lợi, là một trong những yếu tố tạo nên thành
công cho con người trong đời sống xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong q trình giảng dạy tơi ln
trăn trở làm thế nào để nâng cao hiệu quả của các tiết luyện nói trong các giờ
Ngữ văn, đồng thời hướng đến đích cao hơn là giúp học sinh có khả năng nói
tốt, truyền đạt những suy nghĩ của mình trước mọi người một cách rõ ràng,

truyền cảm trong cuộc sống hàng ngày để các em thực sự trở thành những chủ
thể giao tiếp có văn hố. Vì thế năm học 2020-2021 tơi đã tiến hành thực hiện đề
tài "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các tiết luyện nói cho học sinh trong
dạy học Ngữ văn lớp 6 ở trường THCS Kỳ Tân, huyện Bá Thước" nhằm
nâng cao chất lượng dạy học tiết luyện nói nói riêng và dạy học Ngữ văn 6 nói
chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của tơi khi viết sáng kiến này là nhằm tìm ra những giải pháp
chung nhất và hiệu quả nhất trong việc dạy học phân mơn văn trong chương
trình Ngữ văn 6. Đặc biệt chú trọng luyện nói cho học sinh trong dạy học Ngữ
văn để rèn luyện khả năng giao tiếp cho học sinh trong cuộc sống hàng ngày một
cách có hiệu quả và nâng cao chất lượng học sinh mũi nhọn, học sinh đại trà ở
môn phụ trách dạy học.
Thông qua sáng kiến này tôi đưa ra một số kinh nghiệm và sáng kiến
trong việc tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp nhằm giúp giáo viên thuận lợi
trong việc thực hiện các kiến thức để dạy tiết Luyện nói một cách tốt nhất, giúp
các em giao tiếp tốt hơn. Đồng thời tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn trong
quá trình cơng tác ở đơn vị.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến là: Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả các tiết luyện nói cho học sinh để nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn 6, đáp
ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:


3
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên
cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. Tham khảo
SGK, SGV, sách chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn Ngữ văn.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học

tập của học sinh.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy
trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý.
- Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng;
áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp.
- Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ
tích cực của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
Theo nghị quyết 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW tại
hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo
có ghi: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học
tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học” [2] .
Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay thì yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Theo điều 7 Luật giáo dục có
nêu: “Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, tồn diện, thiết thực, hiện
đại, có hệ thống và được cập nhật thường xuyên; coi trọng giáo dục tư tưởng,
phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với
sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lý lứa tuổi và khả năng của người
học”. “Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự
học và hợp tác, khả năng thực hành, lịng say mê học tập và ý chí vươn lên”[1].
Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế

các hoạt động sao cho học sinh có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức
mới dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt
động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học
khơng chủ động, tích cực, tự giác, khơng có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực
của người thầy chỉ đem lại những kết quả hạn chế.


4
Ngữ văn là một mơn học có vai trị quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu của trường THCS. Nó có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh; giúp các em có năng lực thực hành và năng lực sử
dụng Tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp; tạo điều kiện để các em
hoà nhập một cách chủ động với xã hội, tự tin trước cuộc sống.
Dạy học Ngữ văn không chỉ cung cấp tri thức cho các em mà còn rèn
luyện cho các em bốn kỹ năng quan trọng, đó là: Nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên
thực tế cho thấy kỹ năng này chưa phát triển đồng đều ở học sinh, nhiều em thực
hiện kỹ năng nghe, nói rất tốt nhưng kỹ năng đọc, viết lại hạn chế; nhiều em
thực hiện kỹ năng nghe, đọc, viết tương đối thành thục nhưng kỹ năng nói lại
khơng lưu lốt. Điều này thật đáng lo ngại, nhất là trong xã hội hội nhập như
hiện nay thì kỹ năng nói, ứng xử, giao tiếp cần thiết hơn bao giờ hết.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những chủ trương quan
trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay
các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một
trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ
thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
Chương trình sách giáo khoa hiện hành đặc biệt nhấn mạnh: “Trọng tâm
của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ
năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và
bình giá tác phẩm văn học”.

Như vậy, muốn rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói thì khơng có cách nào
tốt hơn là thơng qua tiết luyện nói. Qua tiết luyện nói giáo viên luyện cho học
sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng,
biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa giáo viên còn rèn
luyện cho học sinh các mặt cụ thể: lời nói phải rõ nghĩa, rõ ý; giọng nói phải vừa
nghe vừa cố gắng truyền cảm và tư thế nói phải mạnh dạn, tự tin giúp cho bài
nói có sức thuyết phục hơn để sau mỗi bài học các em cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của Tiếng Việt từ đó thêm yêu mến tự hào về tiếng nói của dân tộc. Tiết
" Luyện nói" là một tiết học vơ cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là
học sinh lớp 6- lớp đầu cấp. Rèn luyện kĩ năng nói cho hoc sinh là một việc làm
khó nhưng dù khó đến đâu yêu cầu rèn luyện kĩ năng nói cũng phải luôn luôn
được coi trọng.
Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng trong chương trình Ngữ văn THCS
là giúp cho học sinh có được kĩ năng nghe, nói, đọc, viết một cách thành thạo.
Thực hiện tốt trọng tâm đề ra cũng chính là thay đổi cách dạy học theo xu hướng
quốc tế hố, góp phần làm cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao.
Nhiệm vụ của môn Ngữ văn trong nhà trường là hướng tới rèn luyện cho
học sinh bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết (Theo quan điểm xây dựng chương
trình Ngữ văn phổ thơng mới vẫn lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc,
viết, nói và nghe) làm trục chính xun suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu
cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự


5
nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học ). Nền tảng về tiếng Việt và
văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản;
phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Huyện Bá Thước là một trong hơn 60 huyện nghèo nhất của cả nước.
Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó

phải kể đến giáo dục mà chất lượng của môn Ngữ văn là điều đáng được quan
tâm. Chất lượng bộ mơn Ngữ văn trên địa bàn tồn huyện Bá Thước nói chung
và ở trường THCS Kỳ Tân nói riêng tương đối thấp.
Bên cạnh đó, do xu thế lập thân lập nghiệp, rất ít những trường chuyên
nghiệp tuyển sinh môn Ngữ văn. Không những thế văn học là một mơn học
mang tính nghệ thuật nên ngồi việc nắm vững kiến thức địi hỏi phải có năng
khiếu mới có thể học tốt được. Vì vậy khơng phải ai cũng có thể học tốt mơn
Ngữ văn. Những điều đó dẫn đến một hệ quả đáng buồn là ngay từ bậc THCS
rất nhiều học sinh có tâm lí ngại học văn và khơng thích học văn, nhiều phụ
huynh cũng đón nhận mơn Ngữ văn không mấy mặn mà và họ thường hướng
cho con em mình học các mơn tự nhiên. Tất cả những điều đó vơ hình chung họ
đã phủ nhận vai trị rất lớn của mơn Ngữ văn trong cuộc sống, đặc biệt là trong
việc rèn luyện kỹ năng nghe, nói.
Mặt khác giáo viên dạy Ngữ văn của huyện được tham gia nhiều chuyên
đề để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ nhưng chưa có chuyên đề nào về kỹ năng
tổ chức dạy học tiết luyện nói nên rất nhiều giáo viên cịn lúng túng.
Tập làm văn là phân mơn mang tính thực hành - tổng hợp nên nó được
nhận định là phân mơn khó so với phần Văn và Tiếng việt. Chính vì vậy mà rất
nhiều giáo viên khơng thực sự hào hứng khi dạy Tập làm văn, đặc biệt là tiết
Luyện nói vì một tiết luyện nói 45 phút giáo viên đã giành thời gian cho việc
thảo luận 15 phút nhưng học sinh vẫn khơng thể nói được, giáo viên kéo dài thời
gian cho việc thảo luận thêm, cuối cùng chỉ có một vài em học khá, giỏi xung
phong trình bày, gọi được 2 - 3 em học sinh lên nói trước tập thể thì đã hết thời
gian tiết học gây tâm lí chán nản cho giáo viên và tiết dạy không đạt được mục
tiêu.
Do địa phương là một vùng miền núi khó khăn, phần lớn học sinh thuộc
hộ nghèo nên việc quan tâm đến học hành của con em còn hạn chế, ý thức học
của các em chưa cao nên việc soạn bài, chuẩn bị bài mới chỉ có ở một số ít học
sinh.
Là một vùng miền núi dân cư thưa thớt, xa các khu trung tâm, xa các

trường bạn, ít có điều kiện giao lưu nên kỹ năng giao tiếp, nói trước đám đơng
của các em cịn hạn chế.
100% học sinh là người dân tộc (dân tộc Thái, Mường), các em có thói
quen nói bằng tiếng dân tộc khi đến trường nên việc phát âm tiếng phổ thông ở
một bộ phận học sinh cịn chưa chuẩn. Vì vậy yêu cầu các em trình bày vấn đề
trong tiết Luyện nói là một điều rất khó khăn. Học sinh phần lớn cũng không


6
thích các tiết học này, các em có tâm lí ngại và sợ các thầy cơ gọi lên bảng trình
bày vấn đề trước tập thể trong khi kỹ năng nói của mình lại rất hạn chế.
Mặt khác do vốn từ vựng ít nên để chuẩn bị cho các tiết luyện nói các em
thường làm sẵn hoặc chép ở các bài văn mẫu ở nhà rồi học thuộc sau đó lên
bảng đọc thuộc lịng. Vì thế khơng đáp ứng được u cầu của bài luyện nói.
Trong thực tế, q trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 6 ở trường THCS
Kỳ Tân năm học 2017- 2018, 2018-2019, trước khi áp dụng đề tài nghiên cứu
này là :
Bảng số 1. Kết quả chất lượng môn Ngữ văn 6 năm học 2017- 2018 và
năm học 2018 - 2019:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Lớp Năm học
số
SL
%
SL
% SL

%
SL %
6
2017-2018 44
4
9,1
10 22,7 22
50,0
8 18,2
6 2018- 2019 40
22,
4
10,0
9
5
20
50,0
7 17,5
Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ hứng thú trong học tiết Luyện nói
mơn Ngữ văn của học sinh lớp 6 trường THCS Kỳ Tân.
Học sinh
Học sinh
Học sinh khơng

hứng thú
hứng thú
ít hứng thú
Lớp Năm học
số
SL

%
SL
%
SL
%
6
2017-2018 44
9
20,5
13
29,5
22
50,0
6 2018- 2019 40
8
20,0
8
20,0
24
60,0
Qua kết quả chất lượng môn Ngữ văn 6 năm học 2017-2018, 2018-2019
cho thấy: tỷ lệ HS đạt khá giỏi còn thấp (31,8%; 32,5%), số HS đạt TB chiếm tỷ
lệ cao (50%), HS yếu về môn học đang chiếm 18,2%; 17,5%. Về mức độ hứng
thú trong học các tiết luyện nói tơi nhìn thấy các em ít để tâm vào cơng việc học,
thiếu hào hứng, thiếu tích cực chủ động trong học tập, chính vì vậy mà kết quả
chưa cao, tỷ lệ học sinh ít hứng thú và khơng hứng thú chiếm 80%. Nhiều năm
tôi trăn trở suy nghĩ phải chăng do cách tổ chức giờ học chưa thực phù hợp, áp
dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp. Những năm gần đây, tôi đã vận dụng
sáng kiến vào dạy học và đã làm thay đổi căn bản suy nghĩ, cách học cũng như
sự hứng thú, tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh từ đó đem lại hiệu quả cao

trong học tập. Tổ chức dạy học theo phương thức và phương pháp này sẽ giúp
học sinh chủ động, tích cực sáng tạo trong hoạt động, bước đầu đã đem lại hiệu
quả tốt.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả các tiết luyện nói
cho học sinh trong dạy học Ngữ văn lớp 6 ở trường THCS Kỳ Tân:
Với những trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng của những giờ luyện
nói bản thân tơi đã suy nghĩ và mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy học. Sau đây
tơi xin trình bày những giải pháp cụ thể đã thực hiện như sau:


7
2.3.1. Giải pháp 1: Trước hết giáo viên phải nắm vững hệ thống các
tiết Luyện nói
Nắm vững hệ thống các tiết luyện nói trong phân mơn Tập làm văn của
mơn Ngữ văn ở THCS có vai trị quan trọng trong việc liên hệ qua lại giữa các
tiết, củng cố thêm kiến thức cho học sinh, hệ thống đó bao gồm:
* Lớp 6:
- Tiết 29: Luyện nói kể chuyện
- Tiết 43: Luyện nói kể chuyện
- Tiết 83, 84: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét
trong văn miêu tả.
- Tiết 96: Luyện nói về văn miêu tả.
* Lớp 7:
- Tiết 40: Luyện nói: Văn biểu cảm về sự vật, con người.
- Tiết 55, 56: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
- Tiết 112: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.
* Lớp 8:
- Tiết 42: Luyện nói: Kể chuyện theo ngơi kể kết hợp với miêu tả và biểu
cảm.
- Tiết 54: Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng

* Lớp 9:
- Tiết 65: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm
- Tiết 140: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
2.3.2. Giải pháp 2: Cần hiểu rõ tầm quan trọng của tiết Luyện nói
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết dạy, chúng ta phải hiểu rằng
đây là tiết giúp học sinh “Luyện nói” thì học sinh phải được nói. Phải thực sự
luyện trên lớp cho từng em được nói . Giáo viên phải nêu thật rõ yêu cầu luyện
nói, nếu cần ghi tóm tắt lên bảng. Khi học sinh trình bày, giáo viên phải nắm bắt
để nhận xét đúng khả năng, thành tích đạt được của các em trong q trình trình
bày một vấn đề bằng miệng. Đồng thời giáo viên hướng cho học sinh đi đúng
u cầu, nói chứ khơng phải là đọc. Đã nói thì phải vận dụng đúng ngơn ngữ nói
thể hiện rõ nhất là ngữ điệu trong sử dụng thành văn. Ngồi ra, các em cịn biết
thể hiện qua cử chỉ, nét mặt, sắc thái tình cảm, thái độ khi trình bày.
Giáo viên cần hiểu rõ tiết luyện nói có vai trị cực kỳ quan trọng trong
việc giúp các em học sinh có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng việt
như một công cụ để tư duy và giao tiếp, tạo điều kiện để các em hoà nhập một
cách chủ động với xã hội, tự tin trước cuộc sống. Bản thân tôi đã rất tâm huyết
với tiết dạy và có sự chuẩn bị, nghiên cứu kỹ giáo án trước khi dạy. Đặc biệt, tôi
đã chuẩn bị bài nói mẫu cho học sinh trước khi các em trình bày trước tập thể và
cho các em xem các đoạn video các bài nói mẫu có chất lượng để các em học
tập.


8
2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà một cách
cụ thể.
Để một giờ luyện nói đạt kết quả tốt việc đầu tiên giáo viên phải hướng
dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách cụ thể, chu đáo. Thơng thường trong một tiết
luyện nói sách giáo khoa thường đưa ra một số vấn đề do vậy ngay từ khi lên kế
hoạch bài học giáo viên phải lựa chọn đề nào cho phù hợp với đối tượng học

sinh ở từng vùng, miền. Sau khi đã có sự lựa chọn hợp lí giáo viên hướng dẫn
học sinh chuẩn bị có thể cả lớp cùng chuẩn bị một đề cũng có thể phân cơng
theo từng tổ, nhóm chuẩn bị theo từng đề để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng tránh
tình trạng ỷ lại, đối phó.
Ví dụ:
Trong Tiết 29 - Luyện nói kể chuyện, sách giáo khoa đưa ra bốn đề:
- Tự giới thiệu về bản thân
- Giới thiệu người bạn mà em quý mến
- Kể về gia đình mình
- Kể về một ngày hoạt động của mình
Cả bốn đề này đều yêu cầu học sinh nói về những vấn đề rất gần gũi trong
cuộc sống của các em vì thế giáo viên nên chọn cả bốn đề và phân cơng cụ thể
như sau:
- Nhóm 1: chuẩn bị đề a
- Nhóm 2: chuẩn bị đề b
- Nhóm 3: chuẩn bị đề c
- Nhóm 4: chuẩn bị đề d
Hoặc trong Tiết 43 - Luyện nói kể chuyện, sách giáo khoa cũng đưa ra
bốn đề:
- Kể về một chuyến về quê.
- Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn.
- Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử.
- Kể về một chuyến ra thành phố.
Với bốn đề này khơng phải đối tượng học sinh nào cũng có thể trình bày
tốt được bởi có những tình huống chưa từng xảy ra với các em do vậy giáo viên
phải lựa chọn tuỳ theo điều kiện, đặc điểm của đối tượng học sinh nơi mình
cơng tác để lựa chọn đề bài phù hợp.
Sau khi đã giao việc cụ thể cho học sinh, giáo viên yêu cầu các em về nhà
chuẩn bị lập dàn ý chi tiết (lưu ý không viết thành bài hồn chỉnh ) và tập nói ở
nhà theo đề cương đã chuẩn bị.

2.3.4. Giải pháp 4: Rèn luyện nội dung, hình thức, tác phong nói cho
học sinh, nêu yêu cầu của bài luyện nói.
* Rèn luyện nội dung, hình thức, tác phong nói cho học sinh:


9
- Rèn luyện nội dung nói:
+ Học sinh nói phải có nội dung, nói có suy nghĩ, điều chỉnh kịp thời nội
dung để đáp ứng yêu cầu người nghe
+ Nói theo đề cương mà nội dung đã chuẩn bị.
+ Nói tập trung vào vấn đề, chọn dẫn chứng tiêu biểu
+ Điều chỉnh nội dung nói: nhấn lại điều người nghe chưa hiểu, lướt
những điều người nghe đã rõ.
+ Kết hợp đúng mực nội dung và ngữ điệu, không để cho ngữ điệu lấn át
nội dung.
- Rèn luyện hình thức và tác phong nói:
+ Nắm vững đề tài cần nói, huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu
đúng và hay, cách dựng đoạn.
+ Bài nói phải rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh dùng từ ngữ địa
phương
+ Vận dụng nét mặt, cử chỉ, dáng điệu phù hợp với nội dung nói
+ Có thái độ khiêm tốn, chân tình với người nghe, quán xuyến theo dõi
thái độ người nghe.
+Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ.
Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, giáo viên cần thiết lập tốt mối quan hệ,
giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên điều này là cơ sở
giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ học sau. Giáo
viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình cũng là cơ sở để
các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ, tên,
tuổi, sở thích,…Điều này khơng kém phần quan trọng, vì nếu làm được như vậy

thì giáo viên đã góp phần nào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với việc phát
biểu miệng.
*Phải nêu u cầu của bài luyện nói:
Trước khi luyện nói tơi đã nêu những yêu cầu của một bài luyện nói cho
học sinh nắm được để có thể nói một cách tốt nhất. Lâu nay nhiều giáo viên chỉ
có thói quen nêu yêu cầu với người nói mà quên mất một đối tượng góp phần
khơng nhỏ cho hiệu quả của bài nói chính là người nghe. Vì vậy tơi đã nêu rõ
yêu cầu cho cả người nói và người nghe, cụ thể là:
- Đối với người nói:
Nói trước tập thể nên ban đầu và khi kết thúc bài nói cần có màn chào hỏi:
Chẳng hạn, trước khi trình bày vấn đề tơi đã hướng dẫn các em nên có câu chào
hỏi: Kính thưa thầy giáo(cơ giáo) và các bạn! Sau đây em xin trình bày vấn
đề.....Khi kết thúc bài nói cũng cần phải tơn trọng người nghe và có thể kết thúc
bài nói bằng những câu sau: Em đã trình bày xong bài nói của mình, cảm ơn
thầy (cơ) và các bạn đã chú ý lắng nghe! Kính mong thầy (cơ) và các bạn góp ý,
nhận xét để em có thể rút kinh nghiệm cho bài nói sau. Em xin cảm ơn! Theo tác
giả Dale Carnegie trong cuốn “Nghệ thuật nói trước cơng chúng” thì “Người nói


10
phải biết một cách chính xác ý tưởng mình muốn trình bày ở phần kết thúc, nên
có sự nối kết nhất định với phần mở đầu để tạo một cảm giác trọn vẹn, đầy đủ
với người nghe” [4]. Bài luyện nói có mở đầu và kết thúc sẽ để lại cho người
nghe những ấn tượng tốt và thiện cảm.
Khi nói phải dựa vào dàn ý (Không viết thành bài văn), nói rõ ràng, mạch
lạc.
Lời nói phải trong sáng, chuẩn mực, nói diễn cảm, trơi chảy với âm lượng
vừa đủ. Điều này sẽ đánh giá khả năng sử dụng từ ngữ, ngữ pháp của người nói.
Phải sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ: chú ý tới đối tượng nghe thông qua
nét mặt, ánh mắt, cử chỉ... làm tăng hiệu lực của lời nói tác động đến người

nghe, giúp người nghe thấy được sự giao lưu, gửi gắm tình cảm, thái độ, tinh
thần hợp tác của người nói dành cho mình.
Tác phong mạnh dạn, tự tin.
Vị trí trình bày: u cầu học sinh đứng hẳn trên bục giảng của giáo viên
để nói sao cho có thể nhìn rõ được người nghe và chú ý là mắt luôn hướng thẳng
vào các bạn trong lớp.
- Đối với người nghe:
Tôi yêu cầu các em ngồi dưới lớp chú ý lắng nghe, ghi chép. Nhận xét ưu,
khuyết điểm của bạn:
+ Nội dung được trình bày ra sao, bộc lộ cảm xúc như thế nào? Cần bổ
sung điều gì?
+ Phong cách, ngơn ngữ của người có hấp dẫn khơng? Có tạo được hứng
thú khơng?
+ Phần mở đầu, kết thúc ra sao?
+ Có những giao cảm bằng mắt không? Tư thế tác phong như thế nào?
2.3.5. Giải pháp 5: Phát huy kĩ năng nói trong các giờ học, kết hợp với
việc rèn luyện các kĩ năng khác:
Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thơng
qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư
duy và sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập
cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần
bình tĩnh, tự tin,..Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy
nghĩ trong khi phát biểu và cả trong khi thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai
hoặc chưa hồn tồn chính xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh,
giáo viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt
về chính âm, chính tả và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích,
hấp dẫn cho người nghe. Do đó giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội
dung bài nói, bao gồm các vấn đề:
+Nói cái gì? (Xác định đề tài)
+Nói với ai? (Xác định giao tiếp)

+Nói trong hồn cảnh nào? (Xác định hồn cảnh giao tiếp)


11
+Nói như thế nào? (Cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe)
Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói, tránh đọc lại hoặc
thuộc lịng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, khơng gị bó, áp
đặt). Tác phong tự nhiên, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng mọi
người. Khơng nói ra ngồi những gì mà đề bài yêu cầu. Có lời chào khi kết thúc
bài nói.
2.3.6. Giải pháp 6: Tạo điều kiện hồn cảnh giao tiếp thuận lợi để cả
lớp đều tham gia luyện nói.
Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để
chọn đại diện lên nói, nên hướng cho học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác, thời
gian thảo luận là năm phút.
Khơng khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
Làm thế nào để cả lớp đều tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó
là yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện nói như thế này
giáo viên khơng khéo léo điều khiển thì một số em lơ là, khơng tham gia luyện
tập. Vì vậy giáo viên phải tìm ra những biện pháp tốt nhất mà trong đó khơng
thể bỏ qua việc cho các em tham gia nhận xét đánh giá sự trình bày của bạn- đó
cũng là một cách để các em luyện nói. Vấn đề đặt ra là giáo viên phải hướng cho
học sinh biết đánh giá thế nào cho đúng. Giáo viên có thể yêu cầu các em nhận

xét, rút kinh nghiệm về các mặt: nội dung bài nói, cách thức nói, tác phong khi
nói … Chẳng hạn giáo viên có thể hỏi:
+ Bạn trình bày nội dung đó được chưa? (Đó đủ chưa, có chỗ nào lệch
lạc? Câu nào, ý nào bạn trình bày tốt? Câu nào bạn dùng từ sai ? Câu nào sai
ngữ pháp? Câu nào còn diễn đạt dài dịng? ... Theo em, em sẽ trình bày như thế
nào?)
+ Bạn đó trình bày đúng phương thức nói chưa? (Giọng điệu của bạn trình
bày đó phù hợp chưa? Bạn đọc hay nói?)
+ Tác phong của bạn khi nói như thế nào ? (Cử chỉ, thái độ, giọng điệu
biểu hiện như thế nào?)
Giáo viên muốn đạt được yêu cầu này thì phải đặt ra những yêu cầu trước
đối với các em như: biết nhận xét đúng, sai của bạn nghĩa là bản thân mình trước
hết phải cú sự chuẩn bị ở nhà, phải biết lắng nghe khi bạn nói. Giáo viên căn cứ
vào bài nói của học sinh để cùng với học sinh có những bổ sung, rút kinh
nghiệm cho các em lần sau nói tốt hơn lần trước.


12
Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên dành nhiều thời
gian cho học sinh luyện nói và số lượng học sinh lên trình bày tối thiểu phải từ 8
đến 10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau. Đồng thời phải chú ý
đến đối tượng học sinh làm sao để học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu đều được
tham gia trình bày bài nói.
2.3.7. Giải pháp 7: Giáo viên thường xuyên cởi mở, thân thiện; quan
tâm đến học sinh và hướng dẫn cho các em thói quen tích luỹ tri thức Văn
học.
Sự cởi mở, thân thiện của giáo viên có tác động mạnh mẽ đến học sinh. Ý
thức được điều đó tơi thường xun ln mỉm cười và có sự giao lưu thân thiện
với học sinh, hỏi han các em nhiều hơn về bố mẹ, gia đình, cơng việc ở nhà của
các em… để các em thốt khỏi tâm lí sợ sệt, ngại ngùng khi đứng gần thầy cơ.

Chỉ có sự thân thiện ấy học sinh mới có thể tự tin, mạnh dạn đứng trên bục giảng
để trình bày bài nói của mình trước tập thể. Cần tránh trường hợp một số giáo
viên quá nghiêm khắc, không thân thiện với học sinh khiến các em có tâm lí sợ
và ngại trình bày vấn đề.
Tơi cũng thường xun động viên, khuyến khích những học sinh có học
lực yếu, tính tình nhút nhát bằng cách cho những đối tượng học sinh này nói
những phần ngắn, dễ như phần mở bài. Có thể các em nói chưa tốt tơi cũng
khuyến khích cho điểm. Điều này khích lệ học sinh, giúp các em thêm tự tin hơn
để có thể nói được nhiều hơn, thậm chí nói được hồn chỉnh cả bài nói ở các tiết
luyện nói tiếp theo.
Tôi cũng thường xuyên yêu cầu, nhắc nhở các em nói tiếng phổ thơng khi
đến trường ( khơng được nói tiếng dân tộc ở trường ); động viên, khích lệ các
em (chú ý các em có bản tính nhút nhát, thiếu tự tin) tích cực tham gia các hoạt
động ngoại khoá, hoạt động thi đua trong nhà trường và ngồi xã hội để có thêm
vốn sống, vốn từ vựng, nâng cao kỹ năng giao tiếp và độ tự tin trước đám đơng.
Chẳng hạn trong các tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp tơi thường xun
lồng ghép vào việc khích lệ các em thể hiện năng khiếu và các ý kiến trước tập
thể như khích lệ các em hát các bài hát các em yêu thích; thi hát, thi kể chuyện
giữa các tổ; thi trả lời các câu hỏi bằng hình thức lên bục hái hoa dân chủ...
Ngồi ra trong tháng 11 của năm học tôi đã thực hiện chương trình “mỗi
ngày một lớp trưởng”. Nghĩa là tơi hướng dẫn những việc mà một lớp trưởng
cần làm trong một ngày và cho lần lượt 20 học sinh lớp 6A (đồng thời là lớp tôi
chủ nhiệm) làm lớp trưởng trong một ngày dưới sự “cố vấn” của lớp trưởng
chính thức của lớp. Kết quả rất ngạc nhiên: Các em tuy có hơi rụt rè ban đầu
nhưng với sự khích lệ của giáo viên chủ nhiệm và được sự đồng tình của giáo
viên bộ môn các em đã tự tin hơn rất nhiều với vai trị mới của mình (mặc dù chỉ
trong một ngày).
Ngồi ra trong q trình dạy học tơi đã thường xuyên kết hợp với tổ chức
Đội trong việc hướng dẫn, động viên các em tham gia các hoạt động bề nổi như
dẫn các chương trình văn nghệ, biểu diễn văn nghệ, tham gia các trị chơi dân

gian...Từ đó các em ngày càng mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi đứng trước đám


13
đơng và trình bày vấn đề trước tập thể, góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao
hiệu quả bài nói của các em trong các tiết Luyện nói
Mặt khác trong khi gần gũi các em tôi đã giáo dục cho các em hiểu rõ
tầm quan trọng của việc đọc sách và tích luỹ tri thức, đồng thời nhắc nhở các em
nên đọc sách hàng ngày; trong quá trình đọc sách nếu bắt gặp những câu thơ
hay, những đoạn văn hay, giàu cảm xúc và ý nghĩa các em nên chép vào quyển
sổ tích luỹ của các em để tham khảo để có thể vận dụng một cách linh hoạt trong
giao tiếp, từ đó giúp kỹ năng nói của các em ngày một nâng cao.
2.3.8. Giải pháp 8: Sử dụng phương pháp tích cực trong q trình
dạy học
Nếu giáo viên chỉ nhất thời muốn nâng cao hiệu quả của tiết Luyện nói mà
khơng chú ý đến các phương pháp dạy học trong cả quá trình dạy học thì hiệu
quả của tiết Luyện nói sẽ khơng cao. Để tiết Luyện nói đạt hiệu quả đáp ứng mục
tiêu bài học tôi đã thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong q trình dạy học, đó là các phương pháp sau đây:
- Dạy học vấn đáp, đàm thoại: Đây là phương pháp trong đó giáo viên đặt
ra những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả
giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp này
nhằm nâng cao chất lượng của giờ học bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả
năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Với mục đích to lớn của phương pháp
này thì việc học sinh trình bày vấn đề trong các tiết Luyện nói sẽ có hiệu quả cao
hơn.
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Vấn đề cốt yếu của phương pháp này là thơng qua q trình gợi ý, dẫn
dắt, nêu câu hỏi, giả định, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tranh luận, tìm
tịi, phát hiện vấn đề thơng qua các tình huống có vấn đề. Cần trân trọng, khuyến

khích những phát hiện của học sinh, tạo cơ hội cho các em tranh luận, đưa ra ý
kiến, nhận định, đánh giá cá nhân trước nhóm và trước tập thể. Sử dụng phương
pháp này trong quá trình dạy học giúp học sinh luôn mạnh dạn, sẵn sàng tiếp
nhận, lĩnh hội, chiếm lĩnh tri thức, phát triển tư duy tích cực sáng tạo. Các yếu tố
đó dễ dàng hơn cho học sinh trong việc trình bày một vấn đề trước tập thể trong
tiết luyện nói.
Tơi thường xun tạo hồn cảnh giao tiếp cho học sinh bằng cách đặt câu
hỏi, đặt vấn đề thảo luận, biết động viên khích lệ, tạo điều kiện cho các em cùng
tham gia, hợp tác.
Chẳng hạn khi dạy Bài 16 văn bản: Thạch Sanh Truyện cổ tích (Ngữ văn
6, Tập I), sau khi tìm hiểu văn bản tôi đã nêu vấn đề sau đây: Kết thúc truyện,
mẹ con Lý Thơng phải chết, cịn Thạch Sanh thì được kết hôn cùng công chúa
và lên ngôi vua. Qua cách kết thúc này nhân dân ta muốn thể hiện điều gì?
Hoặc khi dạy Bài 20 văn bản: Bức tranh của em gái tôi của Tạ Duy Anh
(Ngữ văn 6, tập II), tơi đặt vấn đề: Hình ảnh người anh trong bức tranh và


14
người anh thực của Kiều Phương có khác nhau khơng? Nêu cảm nhận của em
về người anh?
Tôi nhận thấy khi đưa ra những câu hỏi, những tình huống có vấn đề như
vậy trong quá trình dạy học thì học sinh rất hứng thú; các em hăng say trao đổi,
tranh luận, rút ra vấn đề để trình bày trước nhóm, trước tập thể. Sau đó các học
sinh khác có thể nhận xét, phản hồi. Q trình đó giúp các em tự tin hơn trước
đám đơng và kỹ năng nói cũng ngày càng được nâng cao.
- Dạy học và hợp tác trong nhóm nhỏ: Phương pháp này giúp các thành
viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau
tìm ra những điều mới mẻ. Trong quá trình nói ra ý kiến của mình mỗi thành
viên sẽ nhận ra được sự nhận thức vấn đề của mình đến đâu, cần học hỏi bạn
những gì, đồng thời rèn luyện được năng lực hợp tác giữa các thành viên trong

nhóm. Tơi ln có ý thức đưa phương pháp này một cách hợp lý trong quá trình
dạy học của mình, vì vậy việc tổ chức hoạt động nhóm trong tiết luyện nói đã
diễn ra linh hoạt, hiệu quả vì các em đã được thực hiện cả trong quá trình học
tập. Cần tránh trường hợp đáng buồn là giáo viên không thường xuyên sử dụng
phương pháp này trong quá trình dạy học, đến khi dạy tiết luyện nói cần thiết
phải sử dụng phương pháp này thì cả giáo viên và học sinh đều lúng túng, mất
thời gian, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả tiết học.
Sau khi giáo viên cùng tập thể lớp trao đổi, tìm ra các ý chính ở mỗi
nhiệm vụ thì các em họp nhóm, trao đổi, thảo luận trong vịng 15 phút sau đó đại
diện các nhóm lên trình bày vấn đề, các nhóm khác nhận xét những ưu điểm,
hạn chế ở bài nói của các nhóm khác. Tơi luôn nhấn mạnh lại các ưu điểm ở một
số bài nói tốt để các em phát huy và nhắc một số hạn chế ở các bài nói chưa tốt
để các em rút kinh nghiệm ở những bài luyện nói sau.
2.3.9. Giải pháp 9: Dạy học theo hướng tích hợp các phân mơn trong
q trình dạy học mơn Ngữ văn.
Để nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói, trong cả quá trình dạy học Ngữ
văn tơi ln có ý thức nâng cao kĩ năng nói cho các em, đặc biệt là trong việc
dạy học theo hướng tích hợp. Khi dạy phần văn bản bao giờ cũng có phần giải
thích từ khó, các từ khó trong các văn bản thường là các từ hay, giàu ý nghĩa
nhưng thực tế nhiều giáo viên lại xem nhẹ hoặc bỏ qua. Nhận thức sâu sắc điều
đó, trước khi học các văn bản này ngồi việc hướng dẫn các em soạn bài tơi
thường xun dặn dị các em tìm hiểu, nghiên cứu các từ khó đã được sách giáo
khoa giải thích rất rõ trong phần chú thích. Khi dạy các văn bản này tơi đã nhấn
mạnh một số từ khó và giải thích các từ khó nằm trong văn bản mà các em chưa
hiểu. Khi giáo viên chú trọng phần giải thích từ khó thì vốn từ vựng của các em
phong phú hơn rất nhiều, góp phần không nhỏ vào việc dùng từ, đặt câu làm cho
lời nói của các em lưu lốt hơn, ý nghĩa hơn.
Từ việc tìm hiểu các từ khó các em có thể vận dụng vào lời nói của mình
trong giao tiếp cũng như trong các tiết luyện nói một cách linh hoạt, phù hợp,
hiệu quả.



15
Ngồi ra khi dạy phần văn bản, tơi thường cho các em học sinh làm các
bài luyện tập, trong đó đa số là dạng bài viết đoạn văn ngắn hoặc các dạng bài
sưu tầm, nhưng tôi vẫn chú trọng các dạng bài tập nói... Đối với dạng bài luyện
tập này tơi u cầu các em làm dàn ý, sau đó gọi lên bảng trình bày vấn đề.
Với việc làm các bài luyện tập, trong đó có các bài luyện nói ngắn như
vậy các em đã tự tin hơn, phát triển năng lực tư duy, góp phần khơng nhỏ vào
việc trình bày các vấn đề trong tiết luyện nói.
2.3.9. Giải pháp 9: Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong những
mơi trường giao tiếp khác nhau.
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc làm khó vì vậy nếu chỉ bó
hẹp trong phạm vi những tiết luyện nói thì chắc chắn khơng thể đạt được hiệu
quả do vậy giáo viên phải chú ý rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong những
môi trường giao tiếp khác nhau.
Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thơng
qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư
duy và sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập
cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần
bình tĩnh, tự tin,..Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy
nghĩ của các em ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hồn tồn chính xác. Bên
cạnh đánh giá việc trình bày nội dung câu hỏi của học sinh, giáo viên đồng thời
lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói Tiếng Việt về phát âm, dùng từ,
về cách diễn đạt và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn
cho người nghe.
Thơng qua các tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp như sinh hoạt 15 phút đầu
giờ, giáo viên có thể kết hợp với Đoàn - Đội tăng cường các buổi đọc báo chung
để rèn về ngữ điệu và cách phát âm chuẩn cho học sinh. Hoặc trong các buổi
sinh hoạt lớp cuối tuần giáo viên có thể khuyến khích các em phát biểu ý kiến để

tạo cho các em thói quen trình bày một vấn đề trước tập thể đơng người. Đồng
thời trong các tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp cao điểm cần tổ chức cho các em
dựng hoạt cảnh, đóng kịch từ các tác phẩm đã học để luyện cho các em khả năng
đối thoại, độc thoại tốt hơn.
Ngồi ra cần phải rèn luyện kĩ năng nói cho các em thêm ngoài các giờ
học, ngoài các hoạt động giáo dục của nhà trường. Chúng ta cần thống nhất rằng
mỗi một lần học sịnh có dịp nói là một lần tập nói. Một nguyên tắc rất quan
trọng trong việc luyện nói là khơng một lúc nào, một nơi nào các em được nói
cẩu thả, nói tục nói thiếu văn hố. Muốn vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội để có những nhắc nhở, uốn nắn kịp thời đối
với các em.
Dạy luyện nói khơng chỉ dạy lời nói, dáng điệu nói….mà phải dạy chiều
sâu của tâm hồn, tư tưởng của học sinh mà cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn
hóa, nói năng có văn hố, chống lại cách nói năng xấu đang có nguy cơ lan tràn
trong học sinh hiện nay như nói tục, nói trống khơng, nói tiếng lóng,..Dạy luyện
nói phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư


16
duy cho học sinh, giáo dục lòng yêu mến tự hào về Tiếng Việt, tự hào về tiếng
nói của dân tộc ta.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Qua một năm học 2019-2020 và học kì I năm học 2020-2021 áp dụng
sáng kiến và quan sát thái độ học tập trên lớp của học sinh tơi nhận thấy: Học
sinh tích cực xây dựng bài, biểu lộ tình cảm, thái độ đúng đắn trong quá trình
tiếp thu kiến thức. Đặc biệt các em đã hứng thú với giờ luyện nói và mơn học
Ngữ văn hơn chất lượng chuyển biến chiều hướng tích cực.
Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em khơng có sự

ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói
đều hồn chỉnh hơn lúc trước.
Các em khơng cịn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đơng để
nói mà thay vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.
Khơng khí lớp học có sự hào hứng, sơi nổi, các em thích được học những
tiết luyện nói hơn.
Kĩ năng nói của các em đã có sự tiến bộ, các em biết chào khi mở đầu và
cảm ơn khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trơi chảy, gãy gọn, phát
âm chính xác hơn, biết kết hợp ánh mắt, cử chỉ, nét mặt, thái độ,… khi nói. Hơn
nữa, các em đã có ý thức sửa chữa cách phát âm không chuẩn của tiếng địa
phương, không sử dụng tiếng địa phương khi trình bày bài nói.
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng học sinh đã được cải thiện rõ rệt:
Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:
Bảng số 1. Kết quả chất lượng môn Ngữ văn 6 năm học 2017- 2018 và
năm học 2018 - 2019:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Lớp Năm học
số
SL
% SL % SL
%
SL %
6
2017-2018 44

4
9,1 10 22,7 22
50,0
8 18,2
6 2018- 2019 40
4
10,0 9 22,5 20
50,0
7 17,5
Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ hứng thú trong học tiết Luyện nói
mơn Ngữ văn của học sinh lớp 6 trường THCS Kỳ Tân.
Học sinh
Học sinh
Học sinh khơng

hứng thú
hứng thú
ít hứng thú
Lớp
Năm học
số
SL
%
SL
%
SL
%
6
2017-2018 44
9

20,5
13
29,5
22
50,0
6
2018- 2019 40
8
20,0
8
20,0
24
60,0


17

- Sau khi áp dụng SKKN trong giảng dạy các tiết Ngữ văn 6 ở năm học
2019-2020 và học kì I năm học 2020- 2021 thì kết quả như sau:
Bảng số 3. Kết quả chất lượng môn Ngữ văn 6 năm học 2019- 2020 và
học kì I năm học 2020 - 2021:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Lớp Năm học
số
SL
%

SL
%
SL
%
SL %
6 2019-2020 44
8
18,1 20 45,5 16
36,4
0 0,0
Học kì I
6
52
13 25,0 26 50,0 14
27,0
0 0,0
2020- 2021
Bảng số 4. Kết quả khảo sát mức độ hứng thú trong học tiết Luyện nói
mơn Ngữ văn của học sinh lớp 6 trường THCS Kỳ Tân.
Học sinh
Học sinh
Học sinh không

hứng thú
hứng thú
ít hứng thú
Lớp
Năm học
số
SL

%
SL
%
SL
%
6
2019-2020 44
39
88,6
5
11,4
0
0,0
Học kì I
6
52 48
92,3
4
7,7
0
0,0
2020- 2021
Qua so sánh bảng thống kê kết quả chất lượng môn Ngữ văn 6 trường ở
THCS Kỳ Tân ở các năm học 2017 - 2018, 2018 – 2019, tôi thấy hiệu quả học
tập môn Ngữ văn 6 của học sinh năm học 2019-2020 và học kì I năm học 2020 2021 được nâng lên rõ rệt. Cụ thể như sau: tỉ lệ học sinh đạt khá, giỏi đã cao hơn
(giỏi: từ 9,1%; 10,0% tăng lên 18,1%; 25,0%; khá: từ 22,7%; 22,5% tăng lên
40,5%; 50,0%, trung bình từ 50,0%; 50,0% giảm cịn 36,4%; 27,0%, học sinh
yếu từ 18,2%; 17,5% giảm còn 0,0%). Điều đó chứng tỏ rằng sử dụng các giải
pháp nêu trên trong dạy học Ngữ văn 6 là rất cần thiết, việc thực hiện các giải
pháp trong dạy học tiết luyện nói đã đem lại hiệu quả thiết thực. Đồng thời qua

so sánh bảng mức độ hứng thú trong học tiết luyện nói năm học 2017-2018,
2018-2019 và 2019-2020, học kì I năm học 2020-2021, tôi nhận thấy rằng số
học sinh tích cực, hứng thú đã tăng lên rõ rệt (từ 20,5%, 20,0%; tăng lên 88,6%;
92,3%), số học sinh ít hứng thú giảm (Từ 29,5%; 20,0% giảm xuống còn 11,7%;
7,7%), học sinh không hứng thú giảm từ 50,0%; 60,0% xuống 0,0%.
2.4.2. Đối với bản thân:
Khi sử dụng hợp lí các phương pháp tổ chức đa dạng các hình thức hoạt
động cho học sinh, bản thân thấy tự tin khi đứng lớp, truyền đạt và khắc sâu
được các kiến thức cho học sinh.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp:
Đây cũng là các giải pháp hiệu quả được đồng nghiệp ủng hộ và áp dụng
trong các tiết dạy của mình.


18
2.4.4. Đối với nhà trường:
Việc đổi mới cách thức phương pháp dạy học gắn liền với việc lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp làm cho chất lượng giảng dạy bộ mơn được nâng
lên. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn nói riêng và
chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Sáng kiến kinh nghiệm này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc
giảng dạy phân môn Tập làm văn của môn Ngữ văn THCS, đặc biệt là các tiết
Luyện nói. Uỷ ban giáo dục đi vào thế kỉ XXI của UNESCO đã đưa ra bốn
nguyên lí của giáo dục trong thời đại mới là học để biết, học để làm, học để
chung sống và học để khẳng định mình. Điều tơi muốn đề cập ở bài viết này là
nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THCS để các em hiểu biết hơn, để biết làm,
để chung sống và tự khẳng định mình trong nền kinh tế tri thức.
Từ thực tế giảng dạy, kết quả đạt được qua việc áp dụng sáng kiến kinh

nghiệm này, bản thân đã đúc rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Việc dặn dò học sinh trước tiết học là điều không bao giờ được quên, đặc
biệt với tiết luyện nói thì việc dặn dị học sinh phải trước ít nhất một tuần…
- Trong q trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ mơn, có phương pháp dạy học
linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân mơn theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ
pháp sinh động, hấp dẫn.
- Phương tiện dạy học phải tương đối đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng
phương tiện dạy học một cách nhuần nhuyễn. Đặc biệt phải kiểm tra kĩ hệ thống
dàn bài luyện nói của các em để đưa vào các sile, chuẩn bị cho tiết dạy ứng
dụng công nghệ thông tin.
- Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết học,
tạo cho các em sự hứng thú vui tươi, tránh gò ép đối với học sinh.
- Tăng cường các hoạt động luyện nói trong lớp, trong trường bằng hình thức
tổ chức hội thi văn nghệ; ngoại khóa; giao lưu, thân thiện với học sinh…
Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả, địi hỏi mỗi giáo viên
phải không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chun mơn
vững vàng, thường xun học hỏi rút kinh nghiệm qua các tiết dạy và học hỏi
đồng nghiệp.
Người tổ chức các hoạt động giáo dục phải là người khởi xướng, khơi
nguồn cảm hứng học tập cho học sinh, phải là người giúp học sinh tự phát hiện
ra khả năng tiềm ẩn trong bản thân của các em, qua đó người tổ chức các hoạt
động giáo dục cũng tự thay đổi mình cho phù hợp với quá trình giáo dục đó.


19
Thực hiện tốt sáng kiến kinh nghiệm này sẽ tạo mơi trường thuận lợi, rất
thú vị vì điều kiện khách quan tiếp cận học sinh một cách đơn giản nhất, nhưng

cũng đòi hỏi người tổ chức và người giáo viên khi thực hiện phải tận tâm, tận
lực.
Theo phương pháp dạy học đổi mới như hiện nay, tôi mong muốn rằng
sáng kiến kinh nghiệm này sẽ góp thêm một định hướng mới giúp nâng cao hiệu
quả các tiết Luyện nói của phân mơn Tập làm văn, giúp cho kĩ năng nói của học
sinh phát triển hơn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, của thời đại. Tôi hi vọng
sáng kiến này sẽ được phát triển ở một bước cao hơn và được áp dụng rộng hơn
trong thời gian tới.
3.2. Kiến nghị:
Sở giáo dục & Đào tạo Thanh Hoá cần tổ chức chuyên đề về kỹ năng tổ
chức dạy học tiết luyện nói trong mơn Ngữ văn THCS cho cốt cán Ngữ văn của
các huyện để Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện có thể tổ chức triển khai chuyên
đề này tới các giáo viên dạy Ngữ văn THCS trong huyện nhằm nâng cao hơn
nữa kết quả dạy học tiết học này.
Trên đây là một số kinh nghiệm luyện kỹ năng nói cho học sinh ở Trường
Trung học cơ sở Kỳ Tân. Trong quá trình áp dụng ở đơn vị đã đem lại hiệu quả
rõ rệt. Tuy nhiên là kinh nghiệm của cá nhân nên khơng tránh khỏi những hạn
chế thiếu sót, kính mong các bạn đồng nghiệp và Hội đồng khoa học đóng góp ý
kiến.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Bá Thước, ngày 30 tháng 03 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác

NGƯỜI THỰC HIỆN
Lê Bá Mơ

Nguyễn Thị Thuyết



20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật số 43/2019/QH14 – Luật giáo dục ngày 14/6/2019 của Quốc hội
2. Nghị quyết số: 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
3. Chỉ thị số 55/2008/CT-BGD&ĐT ngày 30-9-2008 của Bộ trưởng bộ
GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin giáo
dục giai đoạn 2008- 2012.
4. Dạy học văn bản ngữ văn trung học cơ sở theo đặc trưng phương thức
biểu đạt, NXB GD, 2006.
5. Nghệ thuật nói trước cơng chúng, Dale Carnegie, NXB Văn hóa Thơng
tin (2011).
6. Kiến thức cơ bản Ngữ văn 6. Nhà xuất bản Đà Nẵng.
7. Sách giáo khoa Ngữ văn tập 6 , Tập 1-2. Nhà xuất bản Giáo dục.
8. Sách giáo viên Ngữ văn 6 , Tập 1- 2. Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Tài liệu “ Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6” - Cao
Bích Xuân. Nhà xuất bản Giáo dục.
10.Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6 THCS. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội.
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thuyết
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Kỳ Tân


TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

1

Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học tiết trả bài
Ngữ văn lớp 7

Ngành GD cấp
huyện
PHỤ LỤC

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại


C

2011-2012


21
(không)



×