Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN rèn luyện kỹ năng cảm thụ tác phẩm thơ cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.61 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
CẢM THỤ TÁC PHẨM THƠ CHO HỌC SINH LỚP 9

Người thực hiện: Nguyễn Thị Khuyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thăng Long
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

0
NƠNG CỐNG, NĂM 2021


MỤC LỤC

MỤC

NỘI DUNG

Trang

I
1
2
3

PHẦN MỞ ĐẦU


Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1
1
2
2

4
II
1
2
3
4
III

Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Giải pháp
Hiệu quả thực hiện
PHẦN KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo

2
3
3
6

6
16
17
19

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Ngữ văn là mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là mơn học có vị trí
rất quan trọng bởi nó khơng chỉ hình thành kiến thức, kĩ năng cho học sinh mà cịn
tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của con người, bồi đắp cho tâm hồn mỗi
người trở nên trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. Đúng như M.Goóc-ki nói:
“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân
và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”. Văn học "Chắp đôi cánh"
để các em đến với mọi thời đại văn minh, mọi nền văn hoá; xây dựng trong các em
niềm tin vào cuộc sống, vào con người; trang bị cho các em vốn sống, hướng các
em tới đỉnh cao của Chân, Thiện, Mĩ. Vì vậy, nhiệm vụ của người giáo viên dạy
Văn là phải làm cho học sinh hiểu được cái hay, cái đẹp của văn học, kích thích sự
hứng thú học tập mơn Văn cho học sinh. Một giờ dạy Văn thành công là phải tạo ra
được những rung động thẩm mỹ sâu sắc khiến người ta say mê. Bên cạnh đó, một
nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng nữa của giáo viên dạy Văn ở trường
THCS là rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh. Xã hội nói chung và người giáo
viên nói riêng phải có trách nhiệm gieo trồng những hạt giống tốt để thu hoạch hoa
thơm trái ngọt về cả tri thức và đạo đức, tức là tạo ra những sản phẩm con người
vừa hồng, vừa chuyên. Với môn Ngữ văn thì hạt giống tốt về kiến thức văn học
không chỉ riêng nội dung, ý nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm Tiếng
Việt nào đó mà học sinh cần phải có được những kỹ năng tốt để làm một bài văn
một cách thành thạo. Trong khi một thực tế từ lâu học sinh có phần dè dặt trong

việc học môn Văn nên các em chưa thực sự đầu tư vào môn học này. Nhiều em học
chủ yếu vì trách nhiệm chứ chưa vì đam mê.
Do vậy, đối với giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, ngoài việc cung cấp nội
dung bài dạy theo hướng dẫn của sách giáo khoa, sách giáo viên và chuẩn kiến thức
kĩ năng người giáo viên còn phải rất quan tâm đến phương pháp rèn kỹ năng cảm
thụ và hành văn cho học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 9.
Đối với tác phẩm văn học, cảm thụ một tác phẩm truyện đã khó, cảm thụ tác
phẩm thơ cịn khó hơn nhiều. Vì thế mà một thực tế là nhiều em học sinh rất sợ học
tác phẩm thơ. Đặc điểm nổi bật của thơ là gợi nhiều hơn tả, trong khi khả năng
2


nhận biết phần gợi trong thơ của học sinh lại rất kém. Đó là một trong số các
nguyên nhân khiến các em cảm nhận hời hợt, mơ màng về tác phẩm. Chính vì vậy,
việc rèn kỹ năng cảm thụ thơ ngoài giúp các em hiểu đúng, hiểu sâu về tác phẩm
cịn tháo gỡ những vướng mắc, xố đi mặc cảm ngại học văn, thơ của rất nhiều học
sinh hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng cảm
thụ tác phẩm thơ cho học sinh lớp 9” với mong muốn một phần nâng cao chất
lượng mơn học, đồng thời qua đó xây dựng và phát triển tình u với mơn Ngữ Văn
cho học sinh trong nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu.
Chương trình Ngữ Văn nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng gồm 3 phân môn:
Văn bản, Tiếng việt và Tập làm văn.
Trong đề tài này, tơi chỉ đề cập đến tính năng cảm thụ tác phẩm thơ cho các em
học sinh lớp 9 trường THCS Thăng Long. Dừng lại ở giới hạn luyện kỹ năng cảm
thụ tác phẩm thơ, mục đích của tôi là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về cảm thụ văn học, đây là cơ sở để hình thành các kỹ năng thực hiện một bài
văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

a. Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ thực tế dạy học môn Ngữ văn của học sinh lớp 9 trong nhà trường
nên đề tài này tôi chỉ nghiên cứu giới hạn ở vấn đề rèn luyện kỹ năng cảm thụ tác
phẩm thơ cho học sinh lớp 9 trường THCS Thăng Long. Đồng thời qua đó hình
thành được kĩ năng viết bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cho học sinh.
b. Phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài này, tôi nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 9D của trường THCS
Thăng Long thông qua học các tác phẩm thơ trong chương trình năm học. Cụ thể
qua một số tác phẩm như bài “Đồng chí” của Chính Hữu, “Sang thu” của Hữu
Thỉnh, “Nói với con” của Y Phương…
4. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp như:
a. Phương pháp tìm hiểu, khảo sát thực tế.
b. Phương pháp phân tích.
c. Phương pháp giảng bình.
3


d. Phương pháp so sánh, đối chứng, phân loại, tổng hợp…

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Q trình nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng
tạo ngơn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc
trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời
thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ
của cuộc sống đời thường cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
“bé con” giá trị? Thiết nghĩ, đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi
nhẹ nhàng và có hiệu quả nhất. Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn, chúng ta

thấy: chương trình Ngữ văn lớp 9 so với chương trình các lớp 6,7,8 đã nâng cao
hơn rất nhiều. Các em được làm quen với nhiều khái niệm trừu tượng, nhiều tác
phẩm đặc sắc nhưng tương đối khó, kĩ năng tạo kiểu bài văn cũng yêu cầu rất cao.
Vì vậy đòi hỏi các em phải cảm thụ tác phẩm thật tinh sâu thì từ đó mới có cách
viết già dặn, sinh động hơn, thuyết phục lòng người.
Những năm qua, là một giáo viên dạy học bộ môn Ngữ văn, qua q trình
giảng dạy, tơi nhận thấy: Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ học sinh trường THCS
Thăng Long nói riêng và học sinh nói chung khơng u thích học mơn Văn nên
thường học qua loa, đối phó. Vì thế các em không nắm được các giá trị nội dung,
giá trị nghệ thuật của các tác phẩm, thậm chí có em khơng nhớ tác phẩm đó của ai,
hồn cảnh sáng tác như thế nào? Tệ hại hơn, với tác phẩm là thơ mà khơng thuộc,
mặc dù đó là những bài thơ rất có giá trị. Những nét khái quát của tác phẩm khơng
nắm được thì sẽ khơng có gì để viết, dẫn đến bài viết thiếu ý, diễn đạt khô khan,
trống rỗng. Câu từ không biết gọt dũa, lời văn không biết dùng các biện pháp nghệ
thuật thích hợp nên bài viết thiếu sinh động. Thực trạng này đã được nhiều giáo
viên tâm huyết với nghề trao đổi trên diễn đàn của báo Giáo dục & Thời đại, và
một số cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn Việt Nam. Và lý do đưa ra cũng khá
phong phú, đa dạng, “Có thể là do yếu tố khách quan như cơ chế thị trường, do
nhận thức lệch lạc của gia đình, của khơng ít người về vị trí của các mơn khoa học
xã hội nói chung, của mơn Văn nói riêng; do học trị cịn lười học, mãi chơi...”
(trích trong bài viết “Vì sao học sinh khơng thích học văn” của Nguyễn Thị Hoài 4


HT trường THCS Khối Châu - Hưng n). Lí do thì có nhiều nhưng theo tơi tập
trung chủ yếu vào một số nguyên nhân sau đây.
Trước hêt bắt nguồn từ phía người giáo viên trực tiếp đứng lớp:
Nghề nào cũng u cầu phải có chun mơn giỏi, tình u nghề tha thiết.
Nghề dạy học (nhất là dạy văn) yêu cầu đó càng cao. Đúng như bạn Nguyễn Tường
Lân viết: “Để thành công trong một tiết dạy học, giáo viên cần soạn bài, lên lớp
bằng trái tim, khối óc và năng lực riêng của mình chứ khơng thể mượn bộ óc của

người khác thay thế, không thể dùng cái đầu người khác điều khiển cái lưỡi của
mình” (GD&TĐ số 11, ngày 25/01/2005). Thế nhưng có một thực tế đáng buồn là
phần lớn giáo viên Văn học thường dùng các tài liệu “Hướng dẫn giảng dạy văn
học”, “Phân tích bình giảng tác phẩm văn học” làm cẩm nang, chép thành giáo án
rồi lên lớp “nói như sách”; có lúc nói rất hay nhưng chẳng hiểu mình đang nói gì
bởi ý tứ ấy đâu phải là “máu thịt”, là “con đẻ” của người dạy. Như thế chẳng những
bài dạy lộn xộn, vụng về, có khi “râu ơng nọ chắp cằm bà kia” mà nguy hại hơn là
học sinh cũng có các loại tài liệu đó . Giáo viên dạy Văn nhưng lại chưa tâm huyết
với nghề nên chưa thực sự đầu tư vào chun mơn của mình. Người dạy chưa có
cảm hứng thì chưa thể truyền được cái hay, cái cảm hứng của tác phẩm văn chương
cho người học. Vì vậy mà chưa gợi được đam mê cho học sinh.
Giáo viên lên lớp nhưng chưa trang bị những kiến thức cơ bản, kiến thức thâm
sâu về các thể loại văn học cũng như về tác phẩm cho học sinh nên phần lớn học
sinh cịn mờ nhạt về tác phẩm. Chính vì vậy làm cho các em hiểu về thơ rất trần
trụi, sa vào “chủ nghĩa tự nhiên”, trong khi cái hay của thơ chủ yếu nằm ở sức gợi,
sự liên tưởng.
Một thực tế khác là trong q trình dạy, giáo viên cịn nặng về cung cấp kiến
thức lí thuyết, chưa đầu tư vào luyện kĩ năng cảm thụ cho học sinh. Vậy nên học
sinh chưa được thực hành nhiều.
Trong hoạt động nhận xét, đánh giá học sinh, một số giáo viên chưa phát huy
tích cực tinh thần trách nhiệm khi chấm, trả và chữa bài nên học sinh khơng nhận
ra thiếu sót để sửa chữa cho những bài sau; thậm chí đọc bài hờì hợt, khơng phát
hiện ra những ý, tứ mới, những sáng tạo của học sinh. Do đó khơng có sự khuyến
khích kịp thời học sinh. Đây cũng là lí do làm thui chột lịng ham thích học văn của
các em…
5


Bên cạnh những lí do chủ quan từ giáo viên, lí do từ phía học sinh, phụ huynh
cũng là nguyên nhân dẫn đến thực trạng học văn như hiện nay. Học sinh chưa yêu

văn chương, phụ huynh xem nhẹ vai trị của mơn Văn. Bộ phận học sinh học văn
nhưng lười đọc, lười ghi, lười tìm hiểu. Việc đọc sách của học sinh chủ yếu nhằm
thỏa mãn trí tị mị, các em chỉ đọc một số truyện tranh có nhiều yếu tố hoang
đường hay li kỳ hoặc các loại truyện tình mùi mẫn cịn mảng thơ ca và các loại
truyện khác các em hình như khơng ngó ngàng đến. Vả lại, học sinh đọc để mà đọc,
để thỏa mãn trí tị mị chứ khơng nhằm đọc để khám phá cái hay, cái đẹp của tác
phẩm. Sau khi các em đọc say mê một đống truyện tranh nếu ai đó bảo các em nêu
một vài nhận xét về truyện đó thì các em sẽ lè lưỡi lắc đầu bỏ đi. Do đó chúng ta
cũng chẳng lấy làm lạ là tại sao học sinh không đọc kỹ tác phẩm, không soạn kỹ
lưỡng các bài văn trong sách giáo khoa trước khi đến lớp, không chịu suy nghĩ để
cùng thầy khám phá nội dung và nghệ thuật bài văn, bài thơ.
Học văn là học người. Học văn giỏi không chỉ giúp học sinh khám phá thế giới
nghệ thuật, hiểu biết sâu sắc cuộc sống, ứng xử tốt hơn trong mọi mối quan hệ hàng
ngày mà cịn giúp các em học tốt các mơn học khác. Thế nhưng phần lớn phụ
huynh quan niệm chưa đúng vai trị của mơn Văn. Họ cho mơn Văn không quan
trọng bằng các môn thuộc khoa học tự nhiên và ngoại ngữ; rằng học văn dễ, không
cần đầu tư nhiều thời gian cơng sức cũng có thể học được, làm được bài chứ khơng
phải “cắn bút” như mơn Tốn, Lí, Hóa, Anh. Từ sai làm tai hại đó mà họ chỉ nhắc
nhở con em mình ngày đêm luyện giải các dạng bài tập Tốn, Lí, Hóa hoặc tìm
những thầy cơ giỏi các mơn đó cho con em mình theo học.. Chính vì vậy, qua thực
tế giảng dạy nhiều năm nay tơi thấy hiếm khi tìm được một phụ huynh ủng hộ con
mình học đội tuyển học sinh giỏi Văn. Trường THCS Thăng Long mỗi khối lớp có
gần hai trăm học sinh nhưng để chọn bồi dưỡng học sinh giỏi văn 4 đến 5 em thì
đúng là “Nhân tài như lá mùa thu”.
Từ thực tế trên, tôi muốn được cùng các đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi để thay
đổi cục diện, tạo hứng thú, nâng cao chất lượng môn học, chất lượng giáo dục trong
nhà trường. Tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản thân đã thực nghiệm
trong thời gian qua.

6



2. Thực trạng.
Vào đầu năm học 2019 -2020, tôi được phân công dạy lớp 9D - Trường
THCS Thăng Long. Lớp có 38 học sinh. Mặc dù là lớp đứng đầu của khối nhưng
điểm môn Ngữ văn khảo sát đầu năm của các em không cao và đặc biệt là các em
khơng hào hứng, thích thú khi học mơn học này. Trong giờ học, học sinh rất trật tự
và chăm chú nghe giảng nhưng giờ học không sôi động, các em ít xây dựng bài, khi
được hỏi thì trả lời lúng túng, thậm chí có em khơng trả lời được. Đặc biệt khi học
một tác phẩm thơ thì khả năng cảm thụ của các em cịn rất kém (cả trình bày nói và
bài viết).
Khảo sát thực tế bằng bài kiểm tra đầu năm học cho thấy:
Sĩ số học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
38
2
14
18
4
Khảo sát bằng kiểm tra thuộc lòng những tác phẩm thơ đã học vẫn cịn nhiều
em khơng thuộc. Rất ít học sinh nắm được nội dung bài giảng, khơng có học sinh
hiểu sâu tác phẩm để có thể trình bày lưu lốt tồn bài.
Trước thực trạng đó, tơi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để luyện kĩ năng
cảm thụ tác phẩm thơ, nâng cao hứng thú và hiệu quả cho học sinh học bộ môn này.
3. Giải pháp.
3.1. Đảm bảo nguyên tắc dạy học thơ, bám sát tiến trình bài dạy, bồi dưỡng
hứng thú tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình.

Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, trí tuệ cũng
như khả năng khám phá hiện thực của người nghệ sĩ. Vì thế, nó có những giá trị
vượt ra ngồi ý đồ sáng tạo của tác giả. Hình tượng càng lớn, tính nghệ thuật càng
cao, có nhiều khía cạnh, nội dung phong phú, hấp dẫn. Sáng tạo một tác phẩm, các
thi nhân, văn nhân muốn nói với người đọc, muốn truyền cho người đọc qua các
thế hệ một cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá với chính mình và đối với cuộc sống
con người, đối với thế giới. Nhưng người đọc, do sự chi phối của thời đại, do trình
độ, thị hiếu thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi, đến với tác phẩm lại muốn tìm được những
điều nào đó phù hợp với mình và cần thiết cho mình. Chính vì vậy, bản thân hình
tượng đã phong phú đa dạng, đối diện với người đọc càng làm cho nó trở nên
phong phú đa dạng hơn.
7


Tác phẩm thơ, đặc biệt là thơ trữ tình, hình tượng trong tác phẩm là hình
tượng tâm tư. Ngồi cái thông điệp mà tác giả muốn gửi tới người đọc cịn có cả
những điều mà tác giả muốn bộc lộ ra với người đọc. Để học sinh say mê đọc tác
phẩm, tái hiện hình tượng trong tác phẩm, tiếp nhận được những giá trị của tác
phẩm cũng như có sự tìm tịi phát hiện riêng về tác phẩm. Vì thế, giáo viên phải tác
động bằng nhiều hình thức để các em chủ động đến với tác phẩm một cách hứng
thú bằng những nhu cầu tình cảm, những nhu cầu từ bên trong. Làm sao để các em
sống với tác phẩm bằng cả tâm hồn mình, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm bằng
những rung động sâu xa, mãnh liệt của tâm hồn.
Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ
đó có nhu cầu và niềm say mê thưởng thức, khám phá tác phẩm. Là chủ thể chủ
động, học sinh không chỉ có đọc, sáng tạo lại hình tượng tác phẩm thành hình
tượng của mình, mà qua đó các em nghe được tiếng nói, lắng nghe được giọng
điệu, cảm nhận được cái nhìn của nhà thơ về cuộc sống, con người. Các em buồn
cái buồn, vui niềm vui của nhà thơ, bị nhà thơ thuyết phục hoặc tranh luận với nhà
thơ. Là chủ thể chủ động, các em phải có sự giao tiếp, sự cộng hưởng cảm xúc với

nhà thơ, tiếp nhận những thông điệp thẩm mỹ của nhà thơ qua tác phẩm.
Để học sinh thực sự trở thành chủ thể tiếp nhận tác phẩm, trong giờ dạy học
đọc - hiểu văn bản nhất là văn bản thơ trữ tình cần:
Trước hết, các em phải được khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm và hướng dẫn
chuẩn bị tìm hiểu tác phẩm ở nhà một cách cụ thể. Để tiếp cận tác phẩm thơ, mỗi
học sinh cần đọc trước từ hai đến ba lần, thậm chí đọc thuộc, đọc nhớ cả bài thơ.
Đọc làm sao để khi bước vào giờ học, các em như mong muốn được thể hiện giọng
đọc, sự đồng sáng tạo của mình, muốn trình bày, muốn tranh luận những điều cảm
thụ, nhận thức được về tác phẩm. Thưởng thức nghệ thuật chỉ thực sự bắt đầu khi
có nhu cầu thỏa mãn về tình cảm, tâm hồn, trí tuệ.
Với chương trình Ngữ Văn 9, những bài thơ trữ tình được đưa vào dạy học
phần lớn đề cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con người, rất phù hợp với tâm lý
tuổi mới lớn của các em (tình đồng chí đồng đội, tình bà cháu, tình yêu quê hương
đất nước, yêu thiên nhiên). Người giáo viên phải bám sát đặc trưng “tiếng nói tình
cảm” của các bài mà hướng các em vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng
cảm cùng nhà thơ để đạt hiệu quả cảm thụ.
8


Tiếp theo việc khơi gợi hứng thú đọc là tiến trình dạy học trong giờ lên lớp.
Trong tiết dạy văn bản thơ, giáo viên cần hướng dẫn các em tự phát hiện các hình
ảnh ngơn từ, tìm “mắt thơ”, “tứ thơ”…, thưởng thức tác phẩm, khuyến khích các
em có những cảm nhận, những phát hiện riêng nhưng không suy diễn tuỳ tiện, có
những điều trăn trở vướng mắc của các em về tác phẩm cần được thầy cô giúp đỡ
giải đáp kịp thời. Sau tiết học, các em được mở ra những khả năng mới để tiếp tục
thưởng thức, khám phá tác phẩm ở mức sâu, rộng hơn, các em như cảm nhận được
những biến đổi, vận động phong phú hơn trong tâm hồn mình. Tơi mạnh dạn vận
dụng phương pháp này khi dạy bảy câu đầu văn bản “Đồng chí” của Chính Hữu
như sau. Trước hết yêu cầu học sinh đọc, đọc kĩ, đọc thuộc đoạn thơ, bài thơ. Sau
đó cho học sinh bám sát lời thơ để phát hiện dấu hiệu nghệ thuật ngôn từ, ý thơ,

mắt thơ qua các từ ngữ giàu sức gợi như: nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá,
đôi người xa lạ, chẳng hẹn quen nhau, các hình ảnh có tính biểu cảm cao như
“súng, đầu”, tri kỉ, đồng chí…Từ đó, học sinh sẽ nhận ra được ý của đoạn thơ là lí
giải cơ sở hình thành tình đồng chí – tình cảm cao đẹp nhất trong tình người.
Như vậy, trong dạy học Ngữ văn, người giáo viên bám sát tiến trình bài dạy
kết hợp với khéo léo khơi dậy tình cảm tiềm ẩn trong mỗi học trò, từng bước từng
bước bồi dưỡng được hứng thú tiếp nhận tác phẩm cho các em.
3.2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học thơ theo hướng tích hợp, tích cực, giúp các em
nắm vững kiến thức Văn bản - Tiếng Việt – Tập làm văn để vận dụng phân tích
văn bản thơ trữ tình.
Cùng với việc bồi dưỡng hứng thú học văn, rèn luyện kỹ năng cảm thụ cho
các em, người thầy còn phải chú ý đến việc đổi mới phương pháp bồi dưỡng theo
hướng tích hợp, tích cực.
Phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu nghệ thuật, sử dụng hệ thống
câu hỏi hướng dẫn phân tích bình giá, sử dụng phương pháp gợi tìm, phương pháp
nghiên cứu để giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong
chương trình lớp 9.
Về chủ quan, các văn bản thơ trữ tình được đưa vào chương trình trong thời
điểm cụ thể từng bài, từng tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó là ngun tắc xây
dựng chương trình. Tích hợp giữa Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn (tích hợp
ngang) và tích hợp dọc các nội dung, các kiểu văn bản đã học từ lớp 6 đến lớp 9.
9


Thực thế dạy - học Tiếng Việt từ lớp 6 - lớp 9 đã cung cấp cho các em các tri thức
về các dấu hiệu nghệ thuật trong văn bản, nhất là văn bản thơ. Các kiểu từ loại, các
kiểu câu, các cách cấu tạo câu, các phép liên kết, tất cả đều có giá trị sử dụng của
chúng. Ứng dụng các kiến thức Tiếng Việt các em sẽ phát hiện và phân tích bình
giá các tín hiệu nghệ thuật ấy để hiểu và cảm thụ bài thơ sâu sắc. Song có điều,
những kiến thức về Tiếng Việt có thể các em đã học từ các lớp dưới nên các em có

thể quên. Với mỗi bài, các em phải được hướng dẫn ôn tập thường xuyên để củng
cố kiến thức và tăng cường kỹ năng phát hiện, vận dụng phân tích. Sau mỗi một bài
dạy - học thơ trữ tình cần có bài tập viết đoạn trình bày cảm thụ để học sinh luyện
về kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Thông thường, phần luyện tập của mỗi
bài đều có, song khơng nhất thiết phải luyện tập ngay trên lớp. Phần vì đảm bảo
thời gian, phần vì để cho học sinh có độ “ngấm” sâu hơn nên cho các em về nhà làm
bài tập viết đoạn (vào giấy) và kiểm tra lại bằng cách cho các em nộp lại cho giáo
viên đánh giá.
Tơi xin đưa ra một ví dụ, vẫn là hướng dẫn cảm nhận bảy câu thơ đầu trong
bài “Đồng chí” của chính Hữu. Khi dạy phần này ta tích hợp với khả năng vận dụng
kiến thức tiếng việt về giải nghĩa từ “đồng chí, tri kỉ”, về kiến thức ẩn dụ liên tưởng
“súng” gợi nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” gợi ý chí, lí tưởng của người lính…Ta có thể
tích hợp với phần Tập làm văn khi chốt ý đoạn một cho học sinh luyện viết đoạn văn
cảm thụ về cơ sở hình thành tình đồng chí: Viết bài văn ngắn trình bày cảm nhận của
em về cơ sở hình thành tình đồng chí.
Phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: người học - chủ thể hoạt động phải tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức thơng qua hành động
của chính mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các em tự nói ra những điều
mình cảm nhận được thì bài thơ sẽ “sống mãi” và lúc đó q trình cảm thụ mới thật
sự thành cơng.
3.3. Vận dụng cụ thể vào việc rèn kĩ năng.
a. Rèn luyện kĩ năng đọc.
Đọc là bước đầu tạo tiền đề cho hoạt động tái hiện và có khả năng thực hiện dễ
dàng, đầy đủ hoạt động tái hiện. Với tác phẩm trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là
diễn cảm. Cũng nhờ đọc mà học sinh vừa được chứng kiến, vừa được thể nghiệm.
Vì thế đọc - tái hiện, tri giác hình tượng thơ là hoạt động khơng thể coi nhẹ trong
10


quá trình dạy - học thơ trữ tình. Tái hiện hình tượng trong thơ khơng những là một
thao tác tư duy để đi vào tác phẩm mà còn là một bí quyết truyền thụ nữa.

Giả sử học bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mà việc đọc và tái hiện
hình tượng khơng thực hiện tốt thì khó thu được kết quả. Cả một dịng hồi niệm
tn chảy theo thời gian sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ nếu như không được tái
hiện thì khó mà gợi được rung động cảm xúc.
Nhận thức như vậy nên dạy bài thơ “Ánh trăng” cần chú trọng hướng dẫn
học sinh đọc trước ở nhà. Đọc và hình dung hình ảnh ánh trăng đồng hành cùng với
con người từ những năm tháng tuổi thơ đến những năm chiến tranh ác liệt ở rừng.
Trăng và người là tri kỉ. Ấy vậy mà, khi chiến tranh vừ qua đi, con người trỏ về với
phố phường thì trăng đã trở thành người dưng…Đến lớp, cô giáo bằng giọng đọc
truyền cảm của mình, đọc mẫu cho học sinh đoạn thơ đầu: “Hồi nhỏ sống với
đồng… trăng thành tri kỉ”, sau đó hướng dẫn học sinh đọc và đọc tiếp trong q
trình phân tích. Kết hợp đọc của thầy, đọc của trị, học sinh đã có những cảm nhận
bước đầu về bài thơ theo đúng hướng.
Với những bài thơ khác như bài “Đồng chí”, “Bài thơ về tiểu đội xe khơng
kính”, “Mùa xn nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác” là những bài thơ được phổ nhạc
hoặc có liên quan đến bài hát nào đó thì bên cạnh việc hướng dẫn đọc, giáo viên
còn hướng dẫn các em sưu tầm, nghe băng đĩa nhạc, xem băng đĩa hình để giúp các
em tái hiện hình tượng một cách dễ dàng hơn.
b. Cùng với rèn kĩ năng đọc, tái hiện là rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá các
dấu hiệu nghệ thuật.
Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ, ý và tứ thơ và nhiều tín hiệu, dấu
hiệu nghệ thuật khác. Điều đáng chú ý đầu tiên của hình thức nghệ thuật trong thơ
là nhịp điệu. Thơ là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ. Nhịp điệu
thơ được tổ chức đặc biệt để thể hiện nhịp điệu tâm hồn, nhịp điệu cảm nhận thế
giới một cách thầm kín. Nhịp điệu được tạo ra bởi sự trùng điệp: Trùng điệp của âm
vận, trùng điệp ở nhịp, ở ý thơ, câu thơ hoặc bộ phận của câu thơ. Ví dụ như dạy
bài “Mùa xuân nho nhỏ”, phải hướng học sinh chú ý đến nhịp điệu dồn dập, hối hả
trong bài thơ để thấy được khí thế vào xuân tưng bừng nhộn nhịp của mùa xuân đất
nước. Đặc biệt trong đoạn:
Mùa xuân người cầm súng

11


Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Cùng với nhịp điệu là hình ảnh. Hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền đạt sự
cảm nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi sự ngâm ngợi và
liên tưởng. Hình ảnh trong thơ là yếu tố được sử dụng với nhiều chức năng khác
nhau (có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung, là bức tranh nhỏ của cuộc
sống, có khi có được qua sự so sánh). Khi dạy các bài thơ trữ tình, cần cho học sinh
phát hiện và phân tích các hình ảnh, giá trị biểu đạt của các hình ảnh để các em cảm
thụ nội dung đầy đủ hơn.
Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích nữa như: ngôn
ngữ, các biện pháp tu từ, kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng tiết học, dưới
sự hướng dẫn của thầy qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện thêm cho các em. Bằng hệ
thống câu hỏi hướng dẫn, bằng phương pháp gợi tìm, nghiên cứu kết hợp với quá
trình truyền cảm thụ của thầy và với tính tích cực được phát huy, các em sẽ có được
kết quả cảm thụ tốt hơn.
c. Kĩ năng trình bày cảm nhận.
Kết thúc quá trình dạy học trên lớp với một tác phẩm trữ tình khơng phải là
hoạt động dừng lại bài học mà là mở ra cho các em tiếp tục “suy ngẫm”, “nhấm
nháp”, “thưởng thức”. Sau mỗi bài học, người thầy cần ra những bài tập rèn luyện
kĩ năng cảm thụ cho học sinh để các em tự trình bày những điều mà các em đã thu
nhận được.
Thơng thường, sau khi học mỗi văn bản thì đều có phần luyện tập. Thiết nghĩ
không nên yêu cầu học sinh làm ngay tại lớp những bài tập cảm thụ mà nên để cho
học sinh “thấm” bài học rồi về nhà làm bài tập viết đoạn, bài thể hiện cảm xúc, suy

nghĩ của mình.
Ví dụ: Khi dạy xong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, tôi yêu cầu các em
làm các dạng bài tập cảm thụ như:
Bài tập 1: Qua bài thơ, hình ảnh bếp lửa gợi cho em những cảm xúc gì?(hãy
viết một đoạn văn khoảng 10 đến 15 dịng).
12


Bài tập 2: Nêu cảm nhận của em về hình ảnh người bà trong bài thơ.
Bài tập 3: Qua dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình, hãy trình bày cảm nhận
của em về nhân vật này.
Với cả ba bài tập, sau khi đã đọc, hiểu bài thơ thì học sinh đều sẽ viết được
những đoạn văn thể hiện cảm nhận của mình về từng hình ảnh, từng nhân vật trong
bài.
Nói tóm lại, việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thơng qua những
bài thơ trữ tình, đặc biệt là những bài thơ hiện đại ở lớp 9 là rất có ưu thế. Nhưng
việc tổ chức biện pháp rèn luyện cho hiệu quả là cả một quá trình đầy những khó
khăn, nhất là trong trường hợp học sinh chưa hợp tác tích cực. Vậy để việc rèn kĩ
năng có hiệu quả, khâu chuẩn bị bài học phải thật chu đáo. Khâu tiếp xúc với tác
phẩm phải bằng nhiều con đường và nhiều phía. Người giáo viên cần khéo léo khơi
gợi hứng thú, có hệ thống câu hỏi xoáy vào những yếu tố trọng tâm và đặt ra những
yêu cầu vừa sức để học sinh từng bước cảm thụ tác phẩm. Điều quan trọng là mỗi
cá nhân học sinh phải thật sự có ý thức, có tình u đối với tác phẩm và chủ động
tìm hiểu thì việc rèn kĩ năng sẽ đạt được kết quả trọn vẹn hơn.
3.4. Một số yếu tố giúp cảm thụ sâu tác phẩm thơ.
a. Yêu cầu học sinh nắm chắc tiểu sử của các tác giả và cung cấp một số kiến thức
lịch sử liên quan đển hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Nếu không nắm được tiểu sử tác giả và hồn cảnh sáng tác thì khi phân tích
thơ dễ có sự lệch lạc, không hiểu đúng tác phẩm và nhất là khơng có kiến thức để
giới thiệu phần mở bài. Cịn nếú khơng nắm được các mốc lịch sử thì sẽ khơng có

cơ sở, hồn cảnh để hiểu một số tác phẩm. Chúng ta phải biết nhà thơ Chính Hữu
đã từng hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mĩ. Thơ ông hầu như viết về đề tài người lính và chiến tranh. Khi dạy
Đồng chí phải biết hồn cảnh ra đời của bài thơ là năm 1948 – thời kì đầu kháng
chiến chống Pháp. Từ hiểu biết đó thì khi phân tích bài thơ mới thấy hết được chất
hiện thực của đời sống kháng chiến và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của
những người nơng dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Hay, nếu không nắm được tiểu sử của nhà thơ Thanh Hải và hoàn cảnh ra đời
của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thì các em khó mà hiểu sâu sắc được vẻ đẹp tâm
hồn và ý nguyện của ông qua bài thơ.
13


Nhìn chung lại, muốn có kiến thức để viết bài và hiểu đúng tác phẩm thì việc
hiểu tác giả và nắm chắc các mốc lịch sử về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm là điều
không thể thiếu.
b. Giúp học sinh nhận biết mối quan hệ giữa “cảnh” và “tình” trong tác phẩm để có
cơ sở hiểu các tầng nghĩa mà người viết muốn gửi gắm.
Để có quan điểm đúng khi tiếp cận tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh thấy
được mối quan hệ giữa “cảnh” và “tình” trong dụng ý tả cảnh của tác giả. Quan
điểm đó đã được đại thi hào Nguyễn Du viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Ví dụ, khi miêu tả nỗi buồn, muốn làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đang
từng ngày từng giờ gặm nhắm tâm hồn con người, làm cho người ta có cảm giác
thời gian trơi đi chậm chạp, dài lê thê... thì Nguyễn Du viết:
“Sầu đong càng lắc, càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Nhưng nếu tâm trạng vui thì thường chúng ta lại thấy nó trơi qua rất nhanh, cho nên
mới có cảm giác “Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngồi sáu

mươi” hay “Ngày xuân ngắn chẳng tày gang” (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là vì vậy.
Tóm lại, giữa “cảnh” và “tình” có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau,
cho nên qua “cảnh” ta có thể hiểu “tình” và ngược lại qua “tình” ta cũng có thể hiểu
“cảnh” để từ đó có định hướng hiểu đúng tác phẩm.
c. Cho học sinh tiếp cận với những đoạn văn, bài văn hay về tác phẩm thơ.
Mục đích của hoạt động này là tạo hứng thú và niềm đam mê học văn cho các
em. Đặt ra cho học sinh câu hỏi: Bài thơ có hay khơng, vì sao hay? Những hình
ảnh, những câu từ nào đã góp phần làm nổi bật cái hay? Nhờ biện pháp tu từ nào
mà ta thấy được cái hay của bài thơ, đoạn thơ đó...v.v. Muốn thế, khi tiếp cận đoạn
thơ, ta hãy chú ý đến: màu sắc, hình khối, đường nét, âm thanh mà tác giả đã sử
dụng. Gọi tên được các biện pháp nghệ thuật và thấy được tác dụng của biện pháp
tu từ đó, đồng thời chú ý đến nhịp thơ: cách ngắt nghỉ, nhịp thơ dài hay ngắn; cách
dùng các từ láy (từ láy tượng hình hay tượng thanh)...

14


Ví dụ: học sinh sẽ thấy được hương vị ấm nồng chớm thu ở một miền quê nhỏ qua
đoạn văn cảm nhận về tín hiệu mùa thu trong khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu
Thỉnh:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
“Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra thu là hương vị ổi phả vào trong gió. Mùi
hương q nhà mộc mạc được gió đưa trong khơng gian cứ lan tỏa, thoang thoảng
bay. Rồi cảm giác bất chợt “bỗng nhận ra”, một sự bất ngờ như đã đợi sẵn… và gió,
và sương. Những giọt sương thu mềm mại, ươn ướt giăng mắc trước ngõ… “Hình
như thu đã về”. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối khơng biết tự bao giờ nhỉ? Thu đã về
trên quê hương…”

3.5. Ứng dụng trong một bài dạy.
Tôi xin đưa ra một số ứng dụng trong một bài dạy là tiết 121-122 bài “Nói với
con” của Y Phương.
“Nói với con” của Y Phương là một bài thơ nằm trong cảm hứng phổ biến là
tình thương yêu con cái, mong muốn thế hệ sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền
thống của tổ tiên, quê hương làng xóm. Ở bài thơ, Y Phương đã có cách nói xúc
động của riêng mình. Hình thức người cha tâm tình, dặn dị đối với con đã đem lại
cho bài thơ giọng điệu thiết tha trìu mến, ấm áp và tin cậy. Với bài thơ này khi dạy
học, để rèn luyện kỹ năng cảm thụ cho học sinh, tôi đã tiến hành một số hoạt động
như sau:
Trước hết, để tạo hứng thú tìm hiểu bài thơ, khi hướng dẫn chuẩn bị bài tôi
tiến hành đọc trước một lần. Với giọng đọc mẫu truyền cảm, tôi gợi cho học sinh
hứng thú nghe. Để các em thích đọc, tơi có giảng giải cho các em đơi điều sơ lược
về cách nói của đồng bào miền núi, từ đó xố dần cho các các em cảm giác “bài thơ
này trúc trắc, khó đọc”, sau đó tơi giao nhiệm vụ cụ thể: đọc lướt, đọc nhớ nhiều
lần ở nhà. Nếu có thể đọc theo trí nhớ 1 đến 2 lần ở lớp và đọc thuộc lòng khi học
xong bài. Và khi dạy trên lớp, tơi có cho điểm đọc. Vì thế, học sinh đầu tiên là
quyết tâm đọc để có điểm cao, sau đó là học thuộc và thích đọc bài thơ.
15


Tiếp theo, cũng để tạo hứng thú, trong giờ học tôi kể chuyện cho các em về
cuộc sống của đồng bào miền núi, dùng hình ảnh giới thiệu cuộc sống của dân tộc
thiểu số như cho các em xem hình ảnh về cuộc sống con người vùng cao qua máy
chiếu, ti vi. Vì thế các em biết đựơc cuộc sống sinh hoạt của người miền núi, giúp
các em hiểu cách tư duy của đồng bào miền núi, hiểu các câu thơ trong bài, khơng
ngỡ ngàng khi tìm hiểu tác phẩm.
Khi hướng dẫn các em tìm hiểu bài thơ, tơi gợi ý cho các em tìm hiểu: “Nói
với con” là khúc tâm tình của người cha dặn dị con, thể hiện lòng thương yêu con
của người miền núi mong muốn con phát huy truyền thống của quê hương. Nội

dung này được gắn với nội dung bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ” để các em so sánh, đối chiếu hiểu thêm về sinh hoạt của các dân tộc ít người
và niềm ước mong của họ, tạo điều kiện cho các em hình thành cảm xúc tự hào, ý
nguyện phát huy truyền thống của cha ông.
Hoặc khi phân tích đoạn đầu của bài thơ, khai thác cội nguồn sinh dưỡng của
con, tôi gợi ý cho các em phân tích hình ảnh cụ thể gợi khơng khí gia đình đầm ấm,
hạnh phúc mà ở đó cha mẹ chăm chút con, thể hiện niềm vui trên từng bước đi của
con “Một bước chạm tiếng nói, hai bước tới tiếng cười”, giúp các em hiểu và có
thêm tình u gia đình và tự hào với hạnh phúc gia đình mà mình đang có, tự hào
về làng xóm quê hương đã ấp ủ con khơn lớn mỗi ngày.
Để các em có kĩ năng phát hiện và phân tích các biện pháp tu từ của bài thơ,
tôi yêu cầu các em ôn lại các biện pháp điệp ngữ, so sánh để tìm hiểu tác dụng của
chúng trong đoạn thơ; các câu hỏi tập trung khai thác về cách nói giàu hình ảnh,
phóng khống và cụ thể, vừa giàu sức khái quát, vừa mộc mạc giàu chất thơ, giọng
điệu thiết tha trìu mến và sau khi học xong bài thơ, yêu cầu các em học sinh suy
nghĩ làm bài tập về nhà.
Và tôi cung cấp bài tập cho học sinh: Nếu em là người con trong bài thơ, em sẽ
nói với cha mẹ như thế nào?
Bài tập này học sinh thực hiện trên lớp mười lăm phút trong giờ học bồi dưỡng
buổi chiều. Kết quả là hầu hết học sinh viết tốt và đã bộc lộ được cảm xúc, suy nghĩ của
bản thân, lời muốn nói với cha mình. Có một bài viết rất xúc động như sau: “Con cảm
ơn lời tâm tình tha thiết của cha. Con rất đỗi tự hào, hãnh diện về cha, về q mình cha
ạ. Một vùng q cịn bao nghèo khó nhưng con người nơi đây đã tự kê cao quê mình, họ
16


vượt qua bao thăng trầm biến cố để quê mình đẹp như hơm nay. Mai này dù con có
xuống bể, lên rừng hay đến với phố phường thì con vẫn dõi theo q mình, nơi đó có
bóng hình cha. Con sẽ ghi nhớ lời cha “Quê mình – chẳng bao giờ nhỏ bé”. Giờ con đã
hiểu:

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi.
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ khơng lớn nổi thành người.
4. Hiệu quả.
Có thể nói, dạy học là một nghệ thuật. Con đường nghệ thuật của mỗi giáo
viên tuy khác nhau nhưng cái đích để đến thì đều giống nhau. Phía cuối con đường
chính là khả năng cảm thụ tác phẩm, khả năng thành văn, là kết quả học tập của học
sinh nói chung, kết quả của các kỳ thi vào lớp 10 THPT, thi chọn học sinh giỏi các
cấp do Huyện, Thành phố tổ chức nói riêng. Tuy kết quả đó chưa phải là tất cả
nhưng cũng là một minh chứng để có cơ sở đánh giá hiệu quả dạy học. Riêng bản
thân, từ thực tế giảng dạy cũng như ôn luyện học sinh giỏi mà tơi đã trình bày ở
trên thì thành cơng nhất của người giáo viên dạy văn là tạo được hứng thú và đam
mê cho học sinh. Khi học sinh hứng thú học sẽ là khởi nguồn cho tất cả mọi thành
công khác. Kết quả của môn học khá hẳn lên, đặc biệt là góp phần làm giàu kiến
thức, luyện kỹ năng để giúp các em thêm hành trang vào đời cũng như làm nền
móng để học lên các lớp trên. Kì diệu hơn là giúp các em thấy yêu môn Ngữ Văn,
thấy được văn là đời, đời là văn.
Kết quả khảo sát sau thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Thời gian


số

Trước thực 38
hiện đề tài
Sau thực
38
hiện để tài
Tăng(+),

38
Giảm(-)

Giỏi

Khá

SL

%

SL

%

Trung bình
SL
%

2

5,2

14

36

18

9


24

23

60

+7

+18,8

+9

+24

Yếu
SL

%

47

4

10,4

6

16


0

0

-12

-31

-4

-10,4

17


Trên đây là kết quả khảo sát chất lượng học sinh trước và sau quả trình vận
dụng phương pháp nghiên cứu này. Chất lượng học sinh khá giỏi tăng rõ rệt, khơng
cịn học sinh có khả năng cảm thụ yếu kém. Các em có khả năng giảng bình thơ.
Và điều quan trọng là qua thực nghiệm phương pháp tôi thấy thái độ học tập của
các em thay đổi hẳn, các em u thích và say mê mơn học hơn. Tơi nhận thấy bước
đầu phương pháp đã thành công.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Công tác giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và giảng dạy tác phẩm thơ cho học
sinh lớp 9 nói riêng là việc làm khơng hề đơn giản. Hiệu quả của một tiết học thơ
phải có sự kết hợp hài hịa, tích cực, nhiệt huyết giữa thầy và trị. Tạo nên hai yếu
tố đó đã khó, và làm cho hai yếu tố đó giao thoa với nhau lại càng khó hơn. Cứ giả
sử, người giáo viên đã có tâm huyết, đủ tri thức để giảng dạy nhưng học sinh khơng
cùng đồng hành thì sẽ khơng có kết quả như mong muốn. Có thể coi đó là hai điều

kiện cần và đủ để làm nên thành công, nhưng thiết nghĩ yếu tố: năng lực chuyên
môn và trách nhiệm của người thầy vẫn là đòi hỏi trước tiên và cấp bách hơn, vì khi
người thầy giỏi, biết cảm thụ văn chương, biết truyền cái hay của tác phẩm đến cho
người học, biết giúp người học cũng cảm nhận được các hay trong từng tác phẩm
thì sẽ giúp cho tâm hồn các em được thanh lọc, được bừng tỉnh, dần dần các em sẽ
tìm thấy hứng thú trong các giờ văn, từ đó mà u thích mơn văn...Muốn vậy,
người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ kiến thức cần thiết để
vừa có kiến thức giảng dạy vừa đáp ứng với nhu cầu của xã hội.
2. Kiến nghị.
Trên đây là một chút kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn của bản thân, xin được
chia sẻ cùng đồng nghiệp để cùng nhau trao đổi nhằm đạt được hiệu quả cao hơn
trong lĩnh vực đầy khó khăn này.
Với bài viết này, tôi cũng xin được mạnh dạn chia sẻ, kiến nghị với đồng
nghiệp, đồng môn về “người giáo viên dạy thơ” đó là:
- Trước hết phải u thơ, ham thích tìm hiểu và có kĩ năng tìm hiểu, phân
tích, bình giá thơ. Phải có kế hoạch cụ thể để hướng dẫn cho các em.
18


- Người giáo viên dạy thơ phải khéo léo tác động vào tình cảm của các em,
khơi dậy những tình cảm chưa có và luyện tình cảm sẵn có, tạo điều kiện cho các em
nâng cao năng lực cảm thụ bài học.
- Sự kết hợp hài hoà giữa chủ động của học sinh với hướng dẫn chu đáo của
giáo viên là điều kiện tất yếu dẫn đến kết quả tốt nhất.
Về phía nhà trường cũng nên tổ chức các câu lạc bộ thơ, các hoạt động bình
luận, cảm thụ thơ…để từ đó khơi gợi tình u thực sự trong các em đối với thơ nói
riêng và văn học nói chung.
Về phía phụ huynh cũng nên có nhận thức chuẩn về bản chất và ý nghĩa của
môn học Ngữ văn trong nhà trường. Từ đó giúp các em có động lực và ham muốn
học thơ văn tốt hơn…

Bước đầu vận dụng những kinh nghiệm trên vào từng tiết dạy, dù kết quả thu
được cịn hạn chế nhưng trong hành trình tiếp theo tơi thấy có nhiều khả quan.
Trong q trình dạy học những năm sau tôi sẽ tiếp tục bổ sung, rút kinh nghiệm để
đạt hiệu quả tốt hơn nữa.
Sáng kiến kinh nghiệm là cách nhìn nhận, suy nghĩ và giải pháp cá nhân. Tơi
rất mong được sự góp ý giúp đỡ của Hội đồng khoa học cũng như các đồng nghiệp,
đồng mơn đã giúp tơi hồn thiện nghiên cứu này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Nông Cống, ngày 15 tháng 04 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Khuyến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9, NXB giáo dục.
2. Bồi dưỡng Ngữ văn 9, NXB giáo dục.
3. Bài báo “Vì sao học sinh khơng thích học văn” của Nguyễn Thị Hồi - HT
trường THCS Khối Châu - Hưng Yên)
4. Tài liệu trên kho học liệu mở.

20




×