Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN thiết kế phần khởi động gây hứng thú cho học sinh học tập môn sinh học tại trường PTDTBT THCS trung thành, huyện quan hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.59 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Sinh học là mơn khoa học thực nghiệm, chương trình mơn Sinh học được
xây dựng theo các định hướng kế thừa ưu điểm của chương trình mơn Sinh học
hiện hành, đồng thời tiếp thu các thành tựu Sinh học và kinh nghiệm xây dựng
chương trình mơn học của một số nước có nền giáo dục tiên tiến. Đề cao tính
thực tiễn, thực hành, kết hợp học trên lớp với hoạt động ngoại khoá trong môi
trường tự nhiên và xã hội; Coi trọng giáo dục định hướng nghề nghiệp, giúp học
sinh thấy được Sinh học vừa gần gũi, thiết thực với cuộc sống con người, vừa là
lĩnh vực hứa hẹn nhiều thành tựu về lý thuyết và cơng nghệ hiện đại.
Khi tìm hiểu và nghiên cứu về bộ môn này học sinh sẽ càng thấy yêu thiên
nhiên, đất nước và con người hơn. Chương trình sinh học THCS gồm nhiều
phần kiến thức khác nhau, với mỗi phần kiến thức đó đều có thể bắt gặp nhiều ví
dụ, hình ảnh sinh động từ thực tế. Điều này muốn nói mơn Sinh học có sức hấp
dẫn rất lớn đối với học sinh.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở các trường THCS, vị trí của bộ mơn
và tình u của học sinh đối với bộ mơn còn rất hạn chế. Rất dễ thấy thực trạng
học sinh thờ ơ với môn học. Đối với học sinh khối lớp 6, nguyên nhân là do các
em bắt đầu làm quen với phương pháp học tập mới, số lượng môn học tăng lên
nhiều dẫn đến sự kém thích nghi. Đối với những học sinh của các khối lớp còn
lại, sự thờ ơ đến từ quan niệm xem bộ môn này là mơn phụ, khơng giữ vai trị
quan trọng, vì vậy các em không chú ý cũng như không đầu tư nhiều thời gian
để học và tìm hiểu.
Một lí do khác dẫn đến học sinh chưa thích học mơn Sinh học xuất phát từ
phía giáo viên. Sự kém đầu tư về giáo án, phương pháp giảng dạy cũng như
chưa tạo ra được môi trường học tập thân thiện càng làm tăng thêm sự nhàm
chán trong mỗi tiết học.
Vậy làm thế nào để gây hứng thú cho các em học tốt môn Sinh học ngay từ
những phút đầu tiên, nâng cao chất lượng mơn mình phụ trách ngang kịp với các
trường bạn, nhằm đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ của nhà trường, của Phòng
Giáo dục và Đào tạo cũng như của Sở Giáo dục và Đào tạo đề ra? Đó là vấn đề


bản thân tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ tìm ra giải pháp thực hiện và phấn đấu
để đạt được theo ý nguyện của mình cũng như của mọi người.
Qua giảng dạy, học tập kinh nghiệm của các đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng
việc gây hứng thú học tập cho học sinh phần lớn phụ thuộc vào các thủ thuật,
phương pháp dạy học cũng như cách thức tổ chức các hoạt động lên lớp của giáo
viên. Xuất phát từ lí do trên tơi mạnh dạn xin được trình bày một số kinh nghiệm
của bản thân về “Thiết kế phần khởi động gây hứng thú cho học sinh học tập mơn
Sinh học tại trường PTDTBT THCS Trung Thành”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích đề xuất cho người giáo viên lựa chọn những
phương pháp dạy học tích cực nhất để phát huy tối đa sự tham gia nhiệt tình,


2

tính tích cực, chủ động của học sinh, sự yêu thích, đam mê mơn học. Từ đó nâng
cao chất lượng dạy học, phát huy được vai trò trung tâm của người học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cách thiết kế các hoạt động khởi động trong dạy học ở môn
sinh học nhằm tạo ra hứng thú học tập đối với bộ môn Sinh học cho học sinh
trường PTDTBT THCS Trung Thành, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu khi dạy học môn Sinh học khối 6,7,8,9 tại trường
PTDTBT THCS Trung Thành, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Thời gian nghiên cứu: Năm học 2019-2020 và năm học 2020-2021.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
a) Đọc tài liệu
Tôi đã tham khảo nhiều loại tài liệu khác nhau như sách giáo khoa các môn
học, sách tham khảo, mạng internet...
b) Điều tra

Điều tra bằng cách trực tiếp trị chuyện, thăm dị học sinh có thích học mơn
Sinh học hay không, các biện pháp mà giáo viên đã sử dụng có gây hứng thú
cho các em hay khơng để từ đó chọn lọc ra biện pháp hay nhất để tạo cho tiết
học sinh động, hiệu quả.
c) Thực nghiệm
Tôi đã sử dụng phương pháp thực nghiệm bằng cách cùng một bài dạy
nhưng ở 02 lớp khác nhau ở 4 khối trường THCS Trung Thành có lực học như
nhau. Một lớp A tôi dạy theo cách mà bản thân và đa số các đồng nghiệp vẫn
dạy (lớp đối chứng), còn lớp B (lớp thực nghiệm) tôi sử dụng phương pháp dạy
học có áp dụng kinh nghiệm mà bản thân đúc rút. Từ đó tơi đối chiếu kết quả
lĩnh hội kiến thức của học sinh 2 lớp (thông qua bài kiểm tra 15 phút) để đánh
giá hiệu quả của kinh nghiệm.
d) Kiểm tra
Sử dụng các hình thức kiểm tra 15 phút để kiểm tra việc áp dụng kiến thức
giải quyết các tình huống cụ thể của học sinh.
e) So sánh kết quả
Thông qua kết quả giảng dạy, kết quả các bài kiểm tra tôi đã so sánh kết
quả học tập của học sinh (Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu) đối với việc áp dụng kinh
nghiệm giảng nhằm nâng cao hiệu quả bài học. Từ việc so sánh kết quả quả các
giai đoạn giúp cho giáo viên biết được những ưu điểm, những chuyển biến tích
cực để điều chỉnh kịp thời.


3

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết Trung ương II khóa 8 tiếp tục khẳng định “Đổi mới một phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền đạt một chiều, rèn luyện thành nếp
tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và

phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điểu kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường THCS Trung Thành thuộc một xã vùng cao khó khăn, đời sống của
nhân dân còn chưa được đảm bảo. Phần lớn các phụ huynh đều đi làm ăn xa để
các con ở quê với ông bà, việc đi học chủ yếu phó thác cho thầy cơ, nhà trường
nên dẫn đến thiếu người đôn đốc, kèm cặp, quản lý việc học ở nhà. Vì vậy, ảnh
hưởng rất lớn đến việc học tập của các em, đặc biệt là các em còn thiếu những kĩ
năng sống cần thiết.
Một số học sinh học chăm chỉ nhưng kết quả lại không cao, học bài nào
biết bài đó, học phần sau qn phần trước, khơng nhớ được kiến thức trọng
tâm... Một số học sinh khá mệt mỏi, thụ động dẫn đến nhàm chán và chán học.
Nhiều lúc giáo viên đặt câu hỏi nhưng phần lớn học sinh không tham gia phát
biểu, không chú ý bài cũng có trường hợp là học sinh ngủ trong giờ học
nữa...Có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân giáo viên lên lớp
chưa gây hứng thú cho học sinh trong tiết học, nhất là ngay từ phần hoạt động
khởi động vào bài.
Kết quả thực trạng
Trước khi áp dụng sáng kiến này tơi làm cuộc khảo sát nhanh thăm dị ý
kiến học sinh về thái độ học tập môn sinh học: Cho học sinh 4 khối kết hợp tìm
hiểu thực tế của học sinh, sau đó hỏi một câu hỏi: bằng cách phát phiếu khảo sát
thái độ của 196 học sinh 4 khối như sau:
Câu 1: Trong các mơn học Tốn, Vật lý, Sinh học, Ngữ văn, Tiếng Anh,
Thể dục em thích nhất là mơn nào?
Câu 2: Tại sao em khơng thích học mơn Sinh học?
a) Vì em khơng thích thực vật, động vật.
b) Vì trong tiết học thấy khơng hứng thú.

c) Vì mơn Sinh học khó học thuộc.
Kết quả phiếu thăm dò:
Câu 1


4

TT
1
2
3
4
5
6

Mơn học
Tốn
Vật lý
Sinh học
Ngữ văn
Tiếng Anh
Thể dục

Số lượng học sinh thích
20 học sinh
15 học sinh
20 học sinh
50 học sinh
30 học sinh
61 học sinh


Tỷ lệ
10,2%
7,65%
10,2%
25,5%
15,3%
31,15%

Số lượng học sinh chọn
30 học sinh
116 học sinh
50 học sinh

Tỷ lệ
15,3%
59,19%
25,51%

Câu 2
TT
1
2
3

Ý lựa chọn
Ýa
Ýb
Ýc


Qua kết quả trên và những gì tơi quan sát được trong những tiết dạy trên
lớp, tôi nhận thấy môn Sinh học là mơn ít được học sinh u thích từ đó dẫn đến
chất lượng học tập bộ mơn chưa cao. Chính lý do trên đã thơi thúc tơi phải đổi
mới cách nhìn nhận, phải thấy được vai trị vơ cùng quan trọng của việc tạo
hứng thú để lôi cuốn các em tham gia tích cực vào bài học nhằm mang lại hiệu
quả học tập cao hơn. Vì thế tơi đã viết sáng kiến kinh nghiệm của mình về
“Thiết kế phần khởi động gây hứng thú cho học sinh học tập môn sinh học tại
trường PTDTBT THCS Trung Thành”.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hoạt động khởi động bài học thường chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học. Một
tiết học Sinh học sẽ tạo được sự yêu thích với học sinh nếu ngay từ những giây
phút đầu tiên giáo viên biết khơi gợi ở các em hứng thú đối với bài học và hơn
thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình u lâu bền đối với
mơn học. Để có được một hoạt động khởi động tiết học hiệu quả, đòi hỏi người
giáo viên cần biết đa dạng hóa các hình thức tổ chức và tạo sự hứng thú ngay từ
những phút học đầu tiên. Sau đây tôi xin trình bày một số hoạt động khởi động
cho tiết học môn Sinh học nhằm phát huy năng lực và những kiến thức nền tảng
của học sinh:
2.3.1. Tổ chức khởi động tiết học bằng trò chơi
a) Vai trò của trò chơi học tập trong dạy học mơn Sinh học
Trị chơi trong học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo
bầu khơng khí học tập dễ chịu, thoải mái trong giờ học từ đó phát huy được
tính tự giác, tích cực và qua đó giúp hình thành được nhiều kĩ năng như: khả
năng quan sát, tư duy sáng tạo, hoạt động nhóm, tự tin, hợp tác và nêu cao tinh
thần đồng đội. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Sinh học.


5


Trị chơi trong học tập khơng chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách
dễ dàng mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu kiến thức một cách tốt hơn.
Tạo điều kiện để cá thể hoá hoạt động dạy học.
Giáo dục học sinh tính tự giác, trung thực, sự kiên trì, tính kỷ luật và tinh
thần đồng đội trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
b) Tổ chức trò chơi trong giờ dạy Sinh học phải đạt được những yêu
cầu gì?
Trước hết phải lấy lý luận dạy học hiện đại làm cơ sở.
Trò chơi phải đáp ứng được mục tiêu dạy học.
Khắc sâu được kiến thức vừa học.
Rèn luyện kỹ năng quan sát, tư duy nhanh nhạy và khả năng phán đoán
của học sinh.
Giáo dục được đạo đức, thái độ của học sinh.
Trò chơi phải tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
Trò chơi phải hướng tới mọi đối tượng học sinh.
c) Giáo viên xác định trò chơi phù hợp với nội dung học tập và phù
hợp với tâm lí lứa tuổi
Mục đích của trị chơi: Có thể là nhằm đưa học sinh đến với kiến thức mới
hay ôn luyện hoặc củng cố kiến thức kĩ năng nào đó.
Đồ dùng cần cho trị chơi.
Luật chơi.
Số người tham gia chơi: Đội/nhóm hoặc cá nhân.
Thời gian chơi: Giáo viên cần xác định thời điểm tổ chức trò chơi trong
tiết học (đầu tiết hoặc cuối tiết…) hoặc buổi ngoại khoá cho phù hợp, thời
gian chung dành cho tồn bộ trị chơi trong buổi học và thời gian riêng của
từng người tham gia. Nếu các trò chơi được sử dụng cùng với việc học lý
thuyết trên lớp thì thời gian thường ngắn cịn với các buổi ngoại khố thì thời
gian dài hơn.
Tác dụng, hiệu quả chính của mỗi trò chơi: trò chơi rèn luyện kiến thức hay
kĩ năng, phát triển đức tính gì ở người chơi. Người điều khiển phải xác định rõ

mục tiêu giáo dục trong buổi học, tiết học để chọn những trò chơi đáp ứng u
cầu của mình. Dù là trị chơi nào cũng phải đạt được tác dụng, hiệu quả giáo dục
(mục đích, yêu cầu chính) đồng thời phải gây được hứng thú, phấn khởi với
người chơi, đảm bảo an tồn, đồn kết, khơng để xảy ra tranh cãi khi phân
thắng, thua, xếp vị thứ, khơng để xảy ra tai biến gì dù rất nhỏ.
Có nhiều trị chơi khác nhau tùy vào từng hoạt động, nội dung kiến thức,
từng chủ đề, để học sinh lựa chọn trị chơi linh hoạt đạt mục đích giáo dục.
Trò chơi Tiếp sức


6

- Mục đích trị chơi
Tạo hứng thú trước khi vào bài học, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến
thức đã học vào trong trò chơi.
Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên
trong nhóm.
Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể.
- Chuẩn bị
Chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm, cũng có thể tổ chức cho 2 hoặc 3 cá nhân.
Chia phần bảng và phấn viết cho mỗi nhóm.
Quy định thời gian chơi: 2 hoặc 3 phút.
- Tiến hành
- Khi trọng tài hơ bắt đầu thì 2 nhóm hoặc 2 cá nhân làm bài: Lần lượt học
sinh số 1 của mỗi nhóm lên làm, sau đó về chỗ giao phấn cho bạn thứ hai lên
làm tiếp... cứ như vậy cho đến hết thời gian quy định.
Cá nhân hoặc nhóm nào hồn thành với số lượng nhiều hơn trong khoảng
thời gian đã cho và đúng yêu cầu thì sẽ là đội thắng và được thưởng (bằng điểm
hoặc bằng tràng pháo tay).
Giáo viên nhận xét, xác định đội thắng, đội thua để cho điểm hoặc thưởng

bằng các hình thức khác.
Ví dụ: Tổ chức hoạt động khởi động khi dạy bài “Đa dạng và đặc điểm
chung của lớp Lưỡng cư”.

Hình ảnh học sinh đang lên bảng viết câu trả lời của trò chơi.


7

Giáo viên chia lớp làm 3 nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm cử 03 đại diện cho
nhóm mình. Nhóm 1, 2 sẽ chơi, nhóm 3 là trọng tài cùng với giáo viên.
Nhiệm vụ của mỗi bạn trong nhóm: Viết tên các động vật thuộc lớp Lưỡng
cư mà em biết? Sau đó về chỗ và giao phấn và bắt tay với bạn tiếp theo. Nếu
không làm đúng là phạm luật – kết quả khơng được tính. Nhóm nào trong thời
gian 3 phút viết được nhiều tên động vật thuộc lớp Lưỡng cư nhóm đó chiến
thắng và sẽ nhận được 1 phần quà.
Dựa vào kết quả hoạt động khởi động giáo viên dẫn dắt vào bài với tinh
thần hào hứng của học sinh.
2.3.2. Khởi động bằng một bài hát
Ví dụ: Khi mở đầu cho bài 1 “Menđen và Di truyền học – Sinh học 9”, giáo
viên có thể bắt nhịp cho cả lớp hát bài “Cả nhà thương nhau”: Ba thương con vì
con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba. Cả nhà ta cùng thương yêu nhau.
Xa là nhớ, gần nhau là cười....
Tại sao con sinh ra lại mang những đặc điểm giống cha và giống mẹ?
Di truyền học gọi tên hiện tượng đó là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội
dung của bài hôm nay.

Học sinh đang hát để khởi động vào tiết học
2.3.3. Khởi động bằng một câu truyện vui
Ví dụ: Mở đầu cho bài 2 “Lai một cặp tính trạng – Sinh học 9”, giáo viên

yêu cầu học sinh cho biết: Da trắng và da đen có phải là có phải là một cặp tính
trạng tương phản không?


8

Học sinh trả lời.
Giáo viên kể cho học sinh nghe câu truyện vui:
Hai chàng sinh viên nói chuyện với nhau.
- Sinh viên 1: Đố cậu, Bao Công mà lấy Bạch Tuyết thì sinh ra con có da
như thế nào?
- Sinh viên 2 (suy nghĩ). Giáo viên cho học sinh đoán về câu trả lời của cậu
sinh viên 2.
- Sinh viên 2 (gãi đầu gãi tai): Tớ chịu thơi! Khó q!
- Sinh viên 1 (cười): Dễ thế mà cậu không biết, nếu Bao Cơng mà lấy Bạch
Tuyết thì sẽ sinh ra nàng Lọ Lem.
Giáo viên dẫn dắt tiếp: Về mặt di truyền học thì câu trả lời của cậu sinh
viên 1 có đúng khơng? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung bài hơm nay.

Hình ảnh học sinh đang chăm chú nghe
câu truyện vui để khởi động tiết học
2.3.4. Khởi động bằng một đoạn phim hay hình ảnh
Kích thích trí tị mò của học sinh.


9

Rèn kĩ năng tập trung quan sát, phân tích
Giáo dục ý thức tự giác học tập
Ví dụ: Khi dẫn dắt vào bài mới bài 44 “Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh

vật – Sinh học 9”, giáo viên có thể cho học sinh theo dõi một đoạn phim ngắn về
thế giới động vật trong tự nhiên.
Giáo viên yêu cầu học sinh kể tên những sinh vật quan sát được qua đoạn
phim, dẫn dắt vào bài: các sinh vật trong đoạn phim trên được gắn bó với nhau
bằng nhiều mối quan hệ. Tên gọi của các mối quan hệ đó là gì? Chúng ta cùng
tìm hiểu nội dung bài hơm nay.
Một điều cần lưu ý là: Hoạt động khởi động đầu giờ sơi nổi sẽ góp phần
làm tăng tính hấp dẫn cho bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho khơng khí
học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian
cho phần đặt vấn đề để tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới. Cần
lựa chọn cách đặt vấn đề cho phù hợp với nội dung của từng bài, sát với những
yêu cầu cần giải quyết trong mỗi bài học để những điều đã đưa ra sẽ liên quan
đến kiến thức một phần hoặc xuyên suốt nội dung bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trên đây là một số biện pháp gây hứng thú học tập môn sinh học mà tôi đã
áp dụng với học sinh . Qua một thời gian thử nghiệm tôi nhận thấy từ khi áp
dụng các biện pháp gây hứng thú học tập môn Sinh học, các em bộc lộ rõ sự
thích thú, vui vẻ hơn, nhanh nhẹn hơn trong giờ học. Nhiều học sinh từ nhút
nhát, sau khi được động viên, khuyến khích nay tỏ ra bạo dạn hơn. Chất lượng
học tập của các em được nâng lên rõ rệt so với các năm trước. Sau 1 kỳ sử dụng
các biện pháp trên, tơi đã thăm dị thái độ của học sinh về các biện pháp gây
hứng thú mà tôi sử dụng học bằng câu hỏi như sau:
Em cảm thấy như thế nào về các biện pháp mà giáo viên sử dụng trong quá
trình dạy học sinh học?
a) Các biện pháp giáo viên sử dụng gây nhàm chán, không phù hợp với
bộ môn.
b) Các biện pháp này rất sinh động, gây hứng thú học tập môn sinh học.
c) Ý kiến khác.
Kết quả phiếu thăm dò:
TT


Ý lựa chọn

Số lượng học sinh chọn

Tỷ lệ

1

Ýa

12 học sinh

6,1%

2

Ýb

141 học sinh

71,9%

3

Ýc

33 học sinh

22%


Qua phiếu thăm dò thái độ của các em về các biện pháp gây hứng thú học
tập mơn sinh học. Có hơn 70% học sinh cảm thấy hứng thú với hoạt động này,


10

khiến các em tích cực hơn, nhiệt tình tham gia các hoạt động học tập do giáo
viên tổ chức, góp phần nâng cao chất lượng môn sinh học.
Bảng thống kê kết quả điểm thi giữa kỳ học kỳ I môn Sinh học 7 do giáo
viên dạy Sinh học ra đề:
Khối lớp

Tổng số học sinh

6
7
8
9

44
49
52
51

Điểm trên trung bình
Học sinh
Tỷ lệ %
17
39

19
43
23
44
25
49

Kết quả trên cho thấy sự tiến bộ rõ rệt của các em trong q trình học tập
mơn sinh học. Các em tiến bộ hơn rất nhiều đã mạnh dạn, tự tin, hứng thú, say
mê hơn với môn sinh học. Với giáo viên dạy theo phương pháp này cũng nhẹ
nhàng, thoải mái hơn ngay từ những phút đầu tiên vào lớp học vì học sinh chủ
động, tích cực tham gia vào quá trình học tập, hăng hái thực hiện những hoạt
động dạy học mà giáo viên đưa ra.


11

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Kết quả khảo sát trên cho thấy “Thiết kế phần khởi động nhằm gây hứng
thú cho học sinh học tập môn Sinh học tại trường PTDTBT THCS Trung
Thành” đã khiến các em say mê học tập hơn, đã cuốn hút được học sinh tham
gia vào các hoạt động học tập do giáo viên thiết kế, gây hứng thú cho học sinh
khi đi vào một nội dung mới. Làm cho bài học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, học
sinh phát biểu nhiều hơn, học sinh nhớ bài lâu hơn, qua đó học sinh có thể tự
khám phá và chiếm lĩnh nội dụng bài học dễ dàng, có niềm tin vào khoa học. Và
cái đích cuối cùng chính là chất lượng bộ mơn được cải thiện đáng kể.
3.2. Kiến nghị
a) Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy sinh học
Tăng cường việc tự học, tự rèn luyện để nâng cao chuyên môn nghiêp vụ

thông qua thực hiện nghiêm túc tự bồi dưỡng trực tuyến qua các module của
chương trình bồi dưỡng Etep, đồng thời tích cực tham gia các buổi sinh hoạt
chuyên môn để cùng các đồng nghiệp tìm ra giải pháp cho đổi mới giáo dục, phù
hợp với điều kiện của nhà trường, của địa phương.
Có phương pháp phân loại học sinh để hình thành cho các em khả năng tư
duy và vận dụng kiến thức liên môn.
b) Đối với nhà trường và cấp trên
Nhà trường: Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn chuyên
đề về đổi mới giáo dục.
Các cấp trên: Thường xuyên có các chuyên đề đổi mới phương pháp giáo
dục để giáo viên có cơ hội nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ.
Trên đây là kinh nghiệm bản thân tôi đã nghiên cứu, thực nghiệm và viết
nên rất mong sự góp ý và xây dựng của các đồng nghiệp để bản thân tơi có thể
học hỏi và tìm ra cách thức truyền đạt kiến thức cho học sinh đạt hiệu quả thiết
thực hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Quan Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2021
Tơi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm
trên đây là do tôi viết, không sao chép.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT


12

Lô Thị Ngọc



LIỆU THAM KHẢO
1.Sách giáo khoa Sinh học 6, 7, 8, 9 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên Sinh học 6, 7, 8, 9 - NXB Giáo dục.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa –hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
4.Trang web: www.google.com.vn



×