Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN giải pháp giáo dục và tuyên truyền vấn đề biển đảo việt nam cho học sinh THPT ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.61 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC
VÀ TUYÊN TRUYỀN VẤN ĐỀ BIỂN ĐẢO VIỆT NAM
CHO HỌC SINH THPT BA ĐÌNH

Người thực hiện: Mai Văn Đại
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Giáo dục quốc phịng – An ninh

1. PHẦN MỤC LỤC
MỤC LỤC

THANH HOÁ NĂM 2021


MỤC LỤC

1
2
3
4
5
6
7

Đề
mục


1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1

8

2.2

9
10
11
12

2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3

13

2.4

14

2. 5


15

2.6

16

2.7

17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27

2.8
2.8.1
2.8.2
2.8.3
2.9
2.9.1
2.9.2
2.9.3
3
3.1

3..2

TT

Nội dung tiêu đề

Trang

Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Những bằng chứng minh tính hợp pháp về chủ quyền
Biển đảo Việt Nam
Thực trạng của vấn đề
Tính tích cực
Tính tiêu cực
Tính pháp lý
Tương lai của việc thảo luận Bộ quy tắc ứng xử trên
Biển Đông
Mĩ và đồng minh tăng cường tập trận, tuần tra trên Biển
Đông để đảm bảo quyền lợi và lợi ích chung của các
nước có liên quan và thiết lập trật tự Thế giới ở khu vực.
Dự báo diễn biến trên Biển Đông trong thời gian tới.
Luật Biển của Nước CHXHCN Việt Nam ra đời để
khẳng định chủ quyền Biển đảo của quốc gia với cộng
đồng quốc tế: Bao gồm 7 chương và 55 điều: Có hiệu

lực bắt đầu từ ngày 01/ 01/ 2013 (Phần Phụ lục)
Khảo sát thực trạng trước khi thực nghiệm đề tài
Sự mâu thuẫn của vấn đề
Khó khăn của vấn đề
Thuận lợi
Giải pháp và tổ chức thực hiện
Tổ chức giảng dạy chính khóa
Tổ chức hoạt động ngoại khóa
Hiệu quả của SKKN
Kết luận và Kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

1-2
1-2
2
2
2
2 - 19
2-3
3-4
4
4-9
9 - 10
10 - 13
13 - 14
14 - 15
15 - 16
16
16

16
16 - 17
17
17
17
17 - 18
18 - 19
19-20
19 - 20
20


1. MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài:
Biển, đảo có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các
nước ven biển như nước ta và của cả thế giới. Xu thế hiện nay của các nước có
biển là tìm cách “tiến ra biển” để khai thác lợi ích kinh tế của biển, đảo; thực
hiện chủ quyền và các quyền chủ quyền của mình.
Vì thực tế ở nước nào cũng vậy, do nguồn tài nguyên trên đất liền bị khai
thác triệt để nên ngày càng cạn kiệt khi đó biển, đảo tuy mênh mơng, hoang sơ
song nó hiện chứa nguồn tài nguyên rất dồi dào. Biển rộng hơn và giàu hơn đất
liền. Vì vậy mà các nước có biển, nhất là các nước lớn đều đã và đang tìm mọi
cách vươn ra biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để chiếm biển, nắm chủ quyền
và tự do khai thác biển phục vụ việc phát triển đất nước bất chấp công ước quốc
tế về luật biển đã được cam kết và đã xảy ra tranh chấp.
Có nhiều nước thực thi đúng luật, tích cực góp phần bảo vệ hịa bình và
cơng lý trên biển; song cũng có nước ỷ thế nước to uy hiếp nước nhỏ, nước
mạnh uy hiếp nước yếu mà cụ thể ở dây là Trung Quốc với yêu sách “Đường
lưỡi bò hay Đường chín khúc” thị xuống hầu hết Biển Đơng (chiếm 80% diện

tích), giải quyết yêu sách bằng vũ lực tạo nên áp lực về chính trị gây hoang
mang cho nhân dân các quốc gia có biển trong đó có Việt Nam
Mấy chục năm nay trên biển Đơng âm ỉ, có khi nổ ra tranh chấp về chủ
quyền biển, đảo. Thách thức to lớn nhất là tranh chấp chủ quyền trên các đảo
thuộc hai quần đảo Hồng Sa, Trường Sa. Song có thể nói hiện nay sự hiểu biết
pháp luật về biển, đảo và ý thức thực hiện pháp luật của nhân dân ta còn chưa
cao, chưa đầy đủ đặc biệt là thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy mà
có người chưa quan tâm đúng mức đến sự nghiệp giữ gìn, phát triển biển, đảo.
Một số người lại nóng lịng thể hiện thái độ, cách nhìn nhận khơng phù hợp. Vì
vậy việc thơng qua mơn học Giáo dục Quốc phịng – An ninh mà bản thân tơi
đang trực tiếp giảng dạy cùng với các mơn học có liên quan khác như Lịch sử,
Địa lý, Giáo dục Công dân, bản thân phải tìm hiểu thêm, nắm bắt được những
bằng chứng lịch sử liên quan đến biển đảo, Công ước quốc tế về luật biển năm
1982 và đặc biệt là Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực từ ngày
01/01/2013 gồm 7 chương 55 điều qua các phương tiện thơng tin đại chúng bằng
các hoạt động giảng dạy chính khóa, ngoại khóa để giáo dục cho học sinh yên
tâm hơn hiểu biết sâu sắc hơn quyền và chủ quyền biển đảo Việt nam, từ đó xây
dựng cho các em niềm tin, tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm
công dân về bảo vệ đất nước, bảo vệ biển đảo trên tinh thần tôn trọng luật pháp
quốc tế và tuyên truyền đến mọi người dân hiểu về luật biển Việt nam, quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia Việt nam về biển đảo và 25 năm
Công ước Quốc tế về luật Biển năm 1982 được thực thi tại Việt Nam.
Đó là cơ sở, là lý do bản thân lựa chọn đề tài “Giải pháp giáo dục và
tuyên truyền vấn đề Biển đảo Việt Nam cho học sinh THPT Ba Đình” để

1


giảng dạy cho học sinh Trường THPT Ba Đình năm học 2020 - 2021 và các năm
học tiếp theo.

1. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Phổ biến những kiến thức:
+ Kiến thức Biển đảo Việt Nam.
+ 25 năm Công ước Quốc tế về luật Biển năm 1982 được thực thi tại Việt
Nam.
+ Luật Biển Việt Nam năm 2013.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể: Q trình giảng dạy mơn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh
bậc THPT
+ Thực trạng tiếp thu kiến thức, quyền được hiểu biết về kiến thức biển
đảo, công ước quốc tế về luật Biển 1982, luật Biển Việt Nam năm 2013 của học
sinh Trường THPT Ba Đình - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa trong năm học
2020 – 2021.
- Chủ thể: Giáo viên và học sinh Trường THPT Ba Đình.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
+ Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu
+ Tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn,
+ Điều tra dư luận (ý kiến tiếp thu, phản hồi của giáo viên và học sinh)
+ Kiểm chứng bằng thực nghiệm
- Phương pháp toán học xắc suất thống kê .
+ Đưa ra số liệu
+ Phân tích và tổng hợp số liệu.
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Thời xa xưa con người chủ yếu chỉ hoạt động trên đất liền. Về sau do yêu
cầu của cuộc sống, nhất là nhờ sự phát triển khoa học - kỹ thuật, người ta dần
dần quen sống trên biển; ngày càng thực hiện nhiều sinh hoạt đi lại, đánh bắt hải
sản, nghiên cứu, khai thác tài nguyên...Cách sinh hoạt của con người từng bước

hình thành những tập quán chung (gọi là tập quán quốc tế) và những thỏa thuận
thành văn giữa các nhà nước với nhau. Đó gọi chung là luật biển quốc tế.
2.2. Những bằng chứng chứng minh tính hợp pháp về chủ quyền Biển đảo
Việt Nam
"Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tháng Tư năm Tân Mão (1711) đã điều động
quân lính và những người có trách nhiệm mang các phương tiện đo vẽ đi thuyền
ra “đo bãi cát vàng Trường Sa dài ngắn, rộng hẹp bao nhiêu” (Đại Nam Thực
lục, tập 1, trang 126). Sự kiện nổi bật nhất thời Gia Long trong việc khẳng định
chủ quyền của quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lễ thượng
cờ và cắm mốc chủ quyền trên hai quần đảo đó. Sự kiện trọng đại ấy được miêu
2


tả hết sức vắn tắt trong Đại Nam Thực lục, tập 1, trang 922 bằng một câu: “Sai
thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.
Mười bảy năm sau, năm 1833, giám mục Giăng Lu-i Ta-be (Jean Louis Tarberd),
người đã nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong (phần đất từ đèo Ngang trở vào)
trong một cơng trình của mình đã viết khá rõ về sự kiện trọng đại đó: “Chúng tơi
biết chắc là Hồng đế Gia Long đã chú tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương
miện của ngài, vì vậy mà ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để
tiếp thâu quần đảo Hồng Sa, và chính là vào năm 1816, ngài đã long trọng treo
tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong (thời này xứ Đàng Trong được hiểu là nước Việt
Nam chúng ta)” .
Pháp cũng ký một số hiệp ước song phương với Trung Hoa hoặc ra tuyên
bố về biển, đảo với các nước (1887, 1921, 1932...). Những văn bản đó là “cơng
pháp quốc tế” ban đầu có liên quan đến biển, đảo của nước ta.
Sau 1945 đến 1975, Chính phủ Quốc gia Việt Nam (thời Bảo Đại) và Việt
Nam Cộng hịa (từ Ngơ Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu) đều có ban hành
văn bản pháp luật, ra tuyên bố tuyên cáo với các nước về chủ quyền biển và việc
quản lý, sử dụng biển, đảo Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hịa đã từng

tham gia Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất vào năm 1958. Hội nghị
này đã thông qua bốn công ước quốc tế liên quan đến biển, đảo, việc đánh bắt cá
và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia Hội nghị quốc tế về Luật
Biển lần thứ ba (từ 1973 đến 1982). Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của Cơng ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the
Law of the Sea) từ năm 1982.
Bên cạnh đó, nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật quan trọng để điều chỉnh quan hệ biển, đảo. Như Tuyên bố ngày 12-5-1977
về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam; Tuyên bố ngày 12-11-1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải Việt Nam; Luật Biên giới quốc gia ngày 17-6-2003; Nghị định số 30/CP
ngày 29-1-1980 về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng
biển Việt Nam; Bộ luật Hàng hải ngày 30-6-1990; Luật Dầu khí ngày 6-7-1993
v.v...
Việt Nam ta là một nước nằm trên bờ biển Đông, ở tuyến hàng hải chủ yếu
thông thương giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Biển Đơng của nước ta
và tám nước láng giềng: Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei, Singapore,
Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan đang chứa đựng
nhiều nguồn tài nguyên đa dạng, đặc biệt là dầu khí Biển, đảo nước ta có tiềm
năng tài ngun rất đáng kể, phong phú và đa dạng, đặc biệt là tài nguyên sinh
vật (cá, tôm, san hô, đồi mồi, chim yến...); tài nguyên thực vật, tài nguyên
khoáng sản (dầu khí, than đá, quặng sắt, titan, cát thủy tinh, phân chim...); tài
nguyên giao thông - vận tải biển, tài nguyên du lịch... Dầu khí với trữ lượng đã
thăm dị, khảo sát khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi. Riêng về hải sản có tổng trữ

3


lượng khoảng 3-4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5-1,8 triệu tấn một

năm. Một nguồn lợi mà các nước trên thế giới đều khao khát.
Ở biển Đông, nước ta có khoảng 3.000 đảo phân phối khơng đều, chủ yếu
tập trung ở hai khu vực biển Bắc bộ và Nam bộ. Những đảo và quần đảo ven
biển như: Cô Tô, Cái Bầu (Quảng Ninh); Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng);
Hòn Lớn, Hòn Tre (Khánh Hòa); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Phú Q (Bình Thuận),
Cơn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu); Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du (Kiên Giang)...
Người dân Việt Nam có quyền tự hào về tổ quốc, thể hiện tình yêu quê hương
đất nước, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc mà từ ngàn xưa ông cha ta
đã gây dựng.
Đặc biệt có hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa nằm ngồi khơi biển phía
Đơng, chạy dài từ khu vực tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế vào đến các tỉnh
Nam bộ, bao gồm nhiều đảo nhỏ, bãi cát ngầm, bãi đá, bãi san hô. Năm 1974,
Trung Quốc đã đưa quân đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; 1988, Trung
Quốc cùng với một số quốc gia có biển khu vực Đông Nam Á tiếp tục chiếm
một số đảo lớn của quần đảo Trường Sa đi trái với luật pháp quốc tế, Công ước
quốc tế về luật Biển năm 1982
2.3. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
2.3.1. Tính tích cực – Phạm vi xử lý đơn phương.
Diễn biến việc tranh chấp và giải quyết chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc và tranh chấp chủ quyền trên quần
đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipin, Đài Loan và
Brunei
Theo các tài liệu lịch sử và các tài liệu pháp lý hiện có, có thể khẳng định
các nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa hoà bình, thực sự và liên tục ít nhất từ thế kỷ thứ XVII,
sau đó chính quyền Đơng Dương lại tiếp tục củng cố chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo này thông qua các hoạt động như thành lập chính quyền, cử
lính ra đồn trú, lập các trạm thơng tin, dự báo khí tượng cũng như xây dựng các
đèn biển trên hai quần đảo. Cho đến tận đầu thế kỷ XX khơng có nước nào u
sách chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam. Các bản đồ cổ của Trung

Quốc cũng chỉ thể hiện phạm vi lãnh thổ phía Nam đến đảo Hải Nam. Trải qua
thời gian dài với nhiều biến chuyển lịch sử, cùng với ý đồ mở mang lãnh thổ,
năm 1956, lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc đã dùng vũ lực
chiếm phần phía Đơng của quần đảo Hồng Sa và năm 1974 tiếp tục dùng lực
lượng hải quân và không quân đánh chiếm phần phía Tây của quần đảo.
Trên quần đảo Trường Sa, chúng ta đang thực hiện chủ quyền quốc gia và
quản lý hành chính trên 21 đảo, đá và bãi cạn nửa nổi nửa chìm. Thơng qua sách
trắng các năm 1979, 1981 và 1989, Việt Nam đã thể hiện quan điểm trước sau
như một, khẳng định chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo này, bên cạnh công
tác đàm phán ngoại giao, đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng các biện
pháp hồ bình, chúng ta cũng tiếp tục củng cố vị trí của mình trên quần đảo
Trường Sa. Để giải quyết vấn đề chủ quyền, Việt Nam đã mở diễn đàn đàm phán
4


các vấn đề trên biển thực chất là giải quyết vấn đề chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa với Trung Quốc, đến nay đã đàm phán được 8 vòng.
Cùng với hoạt động đàm phán song phương, chúng ta kiên trì đấu tranh, khẳng
định chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo tại tất cả các diễn đàn quốc tế có liên
quan và đồng thời tiếp tục hồn thiện hồ sơ pháp lý lịch sử về chủ quyền của ta
trên hai quần đảo. Tháng 11/2002 tại Pnonh Penh (Campuchia), các nước
ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông (DOC),
được đánh giá là một bước tiến quan trọng, là cơ sở để duy trì ổn định khu vực
trong khi các bên tiếp tục tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài giải quyết
các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Một số đảo đá và bãi cạn khác thuộc
quần đảo Trường Sa đang bị một số nước và vùng lãnh thổ chiếm đóng trái
phép, các bên tranh chấp cũng đưa ra các lập luận, ban hành các văn bản pháp
luật để biện minh cho việc chiếm đóng này.
* Trung Quốc: Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với cả hai quần đảo bằng
việc vẽ đường đứt khúc 9 đoạn trên Biển Đơng, mà ta thường gọi là "đường lưỡi

bị" trên bản đồ Nam Hải chư đảo do Trung Hoa dân quốc xuất bản năm 1947 và
được CHND Trung Hoa in lại năm 1950, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa trong cái gọi là "biên giới trên biển" của Trung Quốc. Mặc dù bị hầu
hết các nước có yêu sách và lợi ích liên quan trong khu vực phản đối nhưng qua
việc theo dõi các động thái trên biển và trên các phương tiện tuyên truyền của
Trung Quốc, có thể thấy Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ và từng bước thực
hiện yêu sách này. Trong thời gian gần đây Trung Quốc đã liên tục ban hành
nhiều văn bản pháp luật để cụ thể hoá các yêu sách của mình trên Biển Đơng.
Hiện nay, Trung Quốc chiếm giữ 7 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa.
* Philippin: Philippin công bố Sắc lệnh 1596 tháng 2/1979 về vùng Kalayaan,
theo đó hầu hết quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Philipin
và được sáp nhập vào tỉnh Palawan. Lập luận của Philipin về việc xác định vùng
Kalayaan là tính kế cận và quyền lợi an ninh quốc phòng của Philipin đối với
quần đảo này. Hiện nay, Philipin đang chiếm đóng 9 đảo, đá thuộc quần đảo
Trường Sa.
* Malaysia: Ngày 02/12/1979, Malaysia xuất bản bản đồ qui định về phạm vi
lãnh hải và ranh giới thềm lục địa, theo đó một phần phía Nam quần đảo Trường
Sa thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Malaysia. Hiện nay, Malaysia đang
chiếm giữ 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
* Đài Loan: Ngày 21/5/1992, Đài Loan thông qua một đạo luật tuyên bố chủ
quyền và lãnh hải, theo đạo luật này toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc chủ
quyền của Đài Loan. Hiện nay, Đài Loan đang chiếm đóng trên đảo Ba Bình, là
đảo có diện tích lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Tháng 8/2003, Đài Loan đã
cho cắm cờ trên bãi Bàn Than (bãi đá san hô nửa nổi nửa chìm, rộng khoảng
400m, dài khoảng 200m thuộc quần đảo Trường Sa, nằm cách đảo Ba Bình
khoảng 4 km về phía Đơng và cách đảo Sơn Ca khoảng 6,5 km về phía Tây) và
mới đây, ngày 23/3/2004, phía Đài Loan đã xây dựng một nhà cao chân trên bãi

5



này. Như vậy, đến nay Đài Loan đang chiếm giữ một đảo và một bãi cạn thuộc
quần đảo Trường Sa.
* Brunei: Năm 1993, Brunei đưa ra Tuyên bố về ranh giới thềm lục địa 200 hải
lý nhưng chưa đưa ra toạ độ cụ thể. Tuy nhiên, phần chồng lấn với Việt Nam và
Malaysia trên quần đảo Trường Sa tương đối nhỏ, không ảnh hưởng đáng kể tới
tranh chấp. Brunei cũng là nước duy nhất trong các bên yêu sách không chiếm
giữ vị trí nào trong quần đảo Trường Sa.
a. Phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982
* Giải quyết vùng chồng lấn thềm lục địa với Malaysia
Giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng chồng lấn biển và thềm rộng
khoảng 2.800 km2 được hình thành bởi đường ranh giới thềm lục địa do chính
quyền Sài Gịn cơng bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa được
Malaysia thể hiện trên bản đồ xuất bản năm 1979. Ngày 05/6/1992, tại Kuala
Lumpur (Malaysia), hai nước đã ký thoả thuận hợp tác thăm dò khai thác chung
vùng chồng lấn, giao cho các cơng ty dầu khí của hai nước ký các dàn xếp
thương mại và tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tiềm năng dầu khí ở khu vực
này. Việc phân định vùng chồng lấn sẽ giải quyết sau. Hiện nay, hoạt động thăm
dị và khai thác dầu khí ở khu vực này đang tiến triển tốt.
* Giải quyết vùng chồng lấn ba nước Việt Nam - Thái lan - Malaysia
Vùng khai thác chung giữa Thái Lan và Malaysia rộng khoảng 7.250 km 2,
trong đó có khoảng 875 km2 là vùng chồng lấn thềm lục địa ba nước Việt Nam Thái Lan - Malaysia. Ba nước đã thỏa thuận thông qua đàm phán, thương lượng
để giải quyết vấn đề này, trước mắt đã thoả thuận được một số nội dung chủ yếu
liên quan tới mơ hình hợp tác và các vấn đề kỹ thuật.
* Giải quyết phân định biên giới biển với Campuchia
Ngày 07/7/1982, Chính phủ hai nước Việt Nam - Campuchia đã ký Hiệp
định về vùng nước lịch sử, ngoài nội dung xác định vùng nước lịch sử giữa hai
nước trong Vịnh Thái Lan, Hiệp định cũng thoả thuận sẽ hoạch định đường biên
giới biển giữa hai nước vào thời điểm thích hợp. Hiện nay, hai nước đang tập

trung tiến hành đàm phán phân định biên giới trên đất liền, vấn đề biên giới trên
biển sẽ được tiếp tục đàm phán, giải quyết trong thời gian tới.
b. Quan điểm Đảng và Nhà nước ta
Nhà nước ta đã có những chủ trương gì trong việc giải quyết tranh
chấp biển, đảo hiện nay ?
Chủ trương của ta là giải quyết các tranh chấp ở biển Đơng bằng biện
pháp hịa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp
quốc, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Tuyên bố
về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc
năm 2002 (DOC), Luật Biển Việt Nam. Yêu cầu chiến lược của ta là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia; đồng thời giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; giữ quan hệ hữu

6


nghị hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước khác. Chủ trương
cụ thể là:
- Trong xử lý vấn đề Biển Đông, cần giữ vững độc lập, tự chủ, gắn bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia với giữ vững mơi trường hịa bình để phát triển đất
nước. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
- Tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
kiên định bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế;
tăng cường thực hiện và bảo vệ hoạt động kinh tế biển, nhất là hoạt động dầu khí
và đánh bắt cá trong phạm vi 200 hải lý; bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của
TQ.
- Duy trì ngun trạng biển Đơng; bảo vệ quyền đánh bắt cá và hoạt động đánh
bắt cá chính đáng của ngư dân ta trên biển Đông. Ta chủ động, tích cực cùng các
bên liên quan đàm phán tìm giải pháp cơ bản lâu dài mà các bên có thể chấp
nhận được đối với các khu vực tranh chấp.

- Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước, coi trọng quan hệ hữu nghị hợp
tác Việt - Trung và các nước có liên quan, phấn đấu không để xảy ra xung đột
quân sự ở biển Đông; tránh để các vấn đề tranh chấp làm đổ vỡ quan hệ giữa
nước ta với Trung Quốc.
Phương châm chung là vận dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, ngoại giao,
dư luận, pháp lý, quân sự trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì
nguyên tắc, đồng thời xử lý các tình huống, các vấn đề cụ thể một cách bình
tĩnh, chủ động.
c. Những hoạt động thực thi để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở
biển Đơng
Lập trường nhất qn của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ quyền
đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; quyền chủ quyền và quyền tài phán
trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Ta chủ động, tích cực triển khai
đồng bộ một loạt công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền
và lợi ích của ta trên biển Đông, cụ thể:
- Ban hành Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020: Chiến lược Biển Việt
Nam thể hiện rõ quan điểm hợp tác quốc tế về biển, góp phần xây dựng vùng
biển hịa bình, hợp tác, hữu nghị, cùng phát triển trên cơ sở tơn trọng chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ. Hợp tác quốc tế về biển phải nhằm phát huy tiềm năng, thế
mạnh của Việt Nam, khai thác biển có hiệu quả và phát triển bền vững biển;
trong đó chú ý đảm bảo an ninh chung và giải quyết những tranh chấp trên biển.
- Về pháp lý: Chúng ta đã xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định
ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc, đồng thời phối hợp với Ma-laixi-a xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định ranh giới ngồi thềm lục
địa phía Nam. Năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia; năm 2012, ban
hành Luật Biển Việt Nam.

7



- Về quản lý hành chính: Đã triển khai thành lập huyện đảo Hoàng Sa thuộc
thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hịa; trong đó, có
thị trấn Trường Sa và 2 xã Song Tử Tây, Sinh Tồn; hiện có nhiều hộ gia đình
sống; xây dựng nhà khách, Nhà tưởng niệm Bác Hồ, dựng tượng Quốc công Tiết
Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, xây dựng chùa…; triển khai một số
dự án quan trọng như nuôi trồng hải sản, chương trình năng lượng sạch và hệ
thống chiếu sáng ở các đảo trên huyện đảo Trường Sa; đã phủ sóng truyền hình,
đài phát thanh, điện thoại di động lên tồn bộ biển Đơng. Nhiều đồn trong cả
nước thường xuyên ra thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đang
sinh sống, làm việc trên quần đảo Trường Sa.
- Về kinh tế: Các hoạt động về thăm dị, khai thác dầu khí của ta đã và đang diễn
ra bình thường, ta đang tiếp tục duy trì hợp tác với các tập đồn dầu khí lớn của
Nga, Mỹ, Canada, Úc, Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc trên vùng đặc quyền kinh tế 200
hải lý và thềm lục địa… Các ngành chức năng và các địa phương cũng đã thực
hiện nhiều biện pháp hỗ trợ đối với ngư dân khai thác trên biển. Ngư dân ta tiếp
tục đánh bắt hải sản ở khu vực đảo Hoàng Sa, Trường Sa; sản lượng khai thác
của khối tàu cá xa bờ chiếm 40% tổng sản lượng khai thác hải sản của cả nước.
- Về quốc phòng, an ninh: Thành lập lực lượng Cảnh sát Biển, Vùng II Hải
quân… Hải quân, Không quân thường xuyên được nâng cao năng lực phòng thủ
và tăng cường hoạt động tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
Việt Nam. Các lực lượng tuần tra, kiểm sốt của bộ đội biên phịng, cảnh sát
biển thường xuyên triển khai các công việc để quản lý các hoạt động trên biển,
xua đuổi, xử lý hành chính các vụ việc tàu cá nước ngoài vi phạm vùng biển của
ta.
- Về ngoại giao: Ta kiên trì đấu tranh có lý, có tình ở các cấp khác nhau, song
phương và đa phương, qua cả kênh chính thức và khơng chính thức; kết hợp đấu
tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận và vận động quốc tế. Ta đã chủ động vận
động qua nhiều kênh, nhiều cấp khác nhau, kể cả cấp cao, làm rõ lập trường
đúng đắn của ta; phê phán yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc, ủng

hộ thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa các nước
ASEAN và Trung Quốc năm 2002 (DOC), tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử
của các bên ở biển Đông (COC) nhằm duy trì hịa bình, ổn định ở biển Đơng…
tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo thêm sức mạnh
cho ta trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
d. Chúng ta cần thể hiện thái độ, hành động như thế nào để góp phần xây
dựng, phát triển và bảo vệ biển, đảo Việt Nam ?
- Tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, mọi người nhận thức rõ giải quyết vấn đề
tranh chấp biển Đơng là lâu dài và hết sức khó khăn, gian khổ, cần kiên trì, bền
bỉ, khơng thể nóng vội; cần phối hợp đồng bộ, tổng hợp, nhiều kênh, nhiều biện
pháp, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Phấn đấu bằng mọi cách xử lý vấn đề biển
Đông bằng biện pháp hịa bình, tạo mơi trường ổn định để phát triển đất nước.
Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững nguyên tắc,

8


đồng thời linh hoạt, khôn khéo, xem xét vấn đề một cách khách quan, cố gắng
cùng tìm giải pháp các bên có thể chấp nhận được.
- Tiếp tục củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; thực hiện chiến
lược toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tăng cường phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa phương; tăng cường
công tác nghiên cứu dự báo, kịp thời đánh giá và đề xuất các biện pháp xử lý
tình hình và những diễn biến phức tạp ở biển Đông, không để bị động, bất ngờ
xảy ra.
- Với Trung Quốc, chúng ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn
diện; tăng cường xây dựng, củng cố lòng tin, tạo cơ chế đối thoại, giải quyết
tranh chấp trên biển bằng biện pháp hịa bình. Trong quan hệ với Trung Quốc, ta
kiên định nguyên tắc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo của Tổ quốc, nhưng
ứng xử khôn khéo, tránh để rơi vào thế đối đầu trực tiếp về quân sự. Thực tiễn

cho thấy, nếu quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tốt đẹp thì các tranh chấp dễ giải
quyết.
- Với thế giới, ta cơng khai, minh bạch hóa phạm vi chủ quyền, quyền chủ
quyền, lập trường, quan điểm chính nghĩa của ta trong vấn đề biển Đông để
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước ASEAN và quốc tế đối với
ta; bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bị” của Trung Quốc.
2.3.2. Tính tiêu cực
- Hiện nay sự hiểu biết pháp luật về biển, đảo và ý thức thực hiện pháp luật của
cán bộ, nhân dân ta cịn yếu, chưa đầy đủ. Vì vậy mà có người chưa quan tâm
đúng mức đến sự nghiệp giữ gìn, phát triển biển, đảo. Một số người lại nóng
lịng thể hiện thái độ, cách nhìn nhận khơng phù hợp.
- Cũng nhân cơ hội này, nhiều thế lực phản động đã lợi dụng tình hình Biển
Đơng để xun tạc chế độ và làm nhiều người hiểu sai về các chủ trương, chính
sách bảo vệ chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta.
- Một trong những hoạt động dễ bị các thế lực phản động lợi dụng chính là
những cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành có tổ chức hay tự phát phản đối Trung
Quốc xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trong những năm qua. Đặc
biệt nhất là Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc lắp đặt giàn khoan
thăm dị dầu khí HD-981 đã diễn ra trong tháng 5 năm 2014 tại 22 tỉnh thành
của Việt Nam trong đó có: Hà Nội, Sài Gịn, Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, Thanh
Hóa. Tại đa số các thành phố những cuộc biểu tình đã diễn ra ơn hịa, thu hút
hàng ngàn người tham gia. Tuy nhiên, một số cuộc biểu tình tại Bình Dương và
Hà Tĩnh đã chuyển sang thành bạo động, cướp bóc, phá hoại tài sản khơng
những nhằm vào các cơng ty Trung Quốc mà cịn cả vào các công ty Đài Loan,
Singapore, Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam; 5 người đã phải thiệt
mạng. Ngày 15 tháng 5 năm 2014 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra Công điện
số 697/CĐ-TT để đảm bảo an ninh, trật tự.
- Lợi dụng tình cảm yêu nước của nhân dân, các thế lực chống đối Nhà nước
Việt Nam ở trong nước và ngồi nước đã và đang kêu gọi, kích động, hướng dẫn
quần chúng biểu tình, tuần hành gây mất an ninh trật tự, tạo ra các yếu tố gây

9


mất ổn định chính trị; đồng thời tác động tiêu cực tới việc thực hiện đường lối,
quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. .
- Một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin, ngộ nhận tham gia biểu tình tự
phát, coi đó là thể hiện tinh thần u nước; trong khi số đối tượng chống
đối ở trong và ngoài nước đang ráo riết lợi dụng vấn đề trên để tiến hành hoạt
động chống phá Đảng, Nhà nước.
- Âm mưu, ý đồ của họ là chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc, kích động hằn
thù dân tộc, gây chia rẽ quan hệ Việt - Trung hòng lợi dụng để tập hợp lực
lượng, gây mất an ninh trật tự và ổn định chính trị đất nước.
2.3.3. Tính pháp lý
*25 năm thực thi Công ước UNCLOS tại Việt Nam
UNCLOS đã góp phần tạo nên một hình dạng mới của Việt Nam, quốc gia
có chiều dài bờ biển hơn 3200km hướng ra biển. Theo nguyên tắc ‘Đất thống trị
biển”, chiều dài hướng ra biển sẽ cho phép quốc gia ven biển mở rộng các vùng
biển của mình được nhiều nhất. Việt Nam là nước có tỷ lệ chiều dài bờ biển/diện
tích biển hơn nhiều so với trung bình của thế giới. Việt Nam là nước đầu tiên
tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa trong khu vực Đông
Nam Á, phê chuẩn UNCLOS ngày 23/6/1994 trước khi Cơng ước có hiệu lực.
Việt Nam khơng chỉ giới hạn trong hình dạng hình chữ S của đất liền và đã trở
thành một quốc gia 2 phần biển 1 phần đất với hơn 700.000 km2 vùng biển
(chưa tính đến vùng biển ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Công ước UNCLOS đã thúc đẩy việc phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật biển của Việt Nam. Luật Biển Việt Nam 2012 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2013. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là văn bản quy định đầy đủ
nhất các vấn đề liên quan đến biển Việt Nam như: cách xác định, quy chế pháp
lý các vùng biển của Việt Nam, vấn đề thực thi quyền tài phán trên biển, vấn đề
phát triển kinh tế biển… Về cơ bản, những quy định của Luật Biển Việt Nam

2012 khá phù hợp và tương thích với các quy định của UNCLOS. Trên cơ sở
UNCLOS và Luật Biển Việt Nam 2012, Việt Nam công bố và điều chỉnh hàng
loạt các luật chuyên ngành như Bộ Luật Hàng hải 1980, sửa đổi 2005, 2015;
Luật Dầu khí 1993 sửa đổi 2000, 2008, 2014; Luật Bảo vệ môi trường 1993, sửa
đổi 2014; Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo 2015 quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và
hải đảo, Luật Thủy sản 2003, sửa đổi 2017, Luật Cảnh sát biển Việt Nam 2018,
Luật Dân quân tự vệ 2009…và một loạt các văn kiện liên quan như: Nghị định
số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3/2009 của Chính phủ về Quản lý tổng hợp tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày
18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ Quy định về Xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường; Nghị định số 104/2012/NĐ-CP ngày
5/12/2012 của Chính phủ về Quy định đối với Tàu quân sự nước ngoài đến nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định số 102/2012/NĐ-CP quy định
về Tổ chức và hoạt động của lực lượng kiểm ngư, Nghị định số 146/2013/NĐCP ngày 30/10/2013 về việc Công bố tuyến hải hành và phân luồng giao thông
10


trong lãnh hải Việt Nam; Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/2017 của
Chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam về
quản lý hoạt động hàng hải; Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017
của Chính phủ Quy định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải;
Nghị định số 05/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ Quy
định Xử lý tài sản chìm đắm trên tuyến đường thuỷ nội địa, vùng nước cảng
biển và vùng biển Việt Nam; Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 về Một
số chính sách phát triển ngành thủy sản: Nghị định số 162/2003/NĐ-CP ngày
12/11/2013 về Xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển, đảo và thềm lục
địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định 71/2015/NĐ-CP
ngày 3/9/2015 về Quản lý hoạt động trong khu vực biên giới biển, Nghị định
41/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 về Cấp phép nghiên cứu khoa học trong vùng

biển Việt Nam; Quyết định số 103/2007/QĐ-TTg ngày 12/7/2007 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp tìm kiếm, cứu nạn trên biển, Quyết
định 1690/QĐ-TTg ngày 16/9/2010 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển thủy
sản Việt Nam đến năm 2020, Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/06/2014
của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030... Công ước
cũng là động lực để Việt Nam tham gia vào các Công ước quốc tế về biển. Việt
Nam phê chuẩn Thỏa thuận về thi hành phần XI của Công ước Luật biển ngày
27/4/2006 và là nước thứ 90 phê chuân Công ước về quản lý các đàn cá xuyên
biên giới và các đàn cá di cư xa ngày 18/12/2018. Việt Nam đã tham gia 11
Công ước của Tổ chức hàng hải quốc tế, nhất là các công ước IMO IMOSOLAS (Cơng ước về An tồn sinh mạng con người trên biển, Luân Đôn
1/11/1974), Công ước về Đường mớm nước, Cơng ước MARPOL ngày
2/11/1973 về Phịng chống ơ nhiễm biển, Công ước về Giới hạn trách nhiệm dân
sự của chủ tàu CLC 1992, Công ước về tạo thuận lợi trong giao thông hàng hải
quốc tế (FAL 65), Công ước về Tìm kiếm, cứu nạn (SAR 79).
Cơng ước UNCLOS tạo cơ sở cho Việt Nam xây dựng chiến lược biển cho
riêng mình. Nếu Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 chỉ đề cập một nền kinh tế
mới - kinh tế miền biển thì Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định phát triển
kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước: “Từng bước khai thác toàn
diện các tiềm năng to lớn của kinh tế biển, phát triển kinh tế ở hải đảo, làm chủ
lãnh hải và thềm lục địa, thực hiện chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh
tế.” Ngày 9/2/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
X đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 với mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu, mạnh. Sau 10 năm thực
hiện, ngày 22/10/2018 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa
XII ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh
tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.[21] Việt Nam bước

11


vào thời kỳ xây dựng và thực thi Chiến lược biển một cách bài bản, nhằm mục
tiêu sử dụng bền vững và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường biển. Chiến lược
2030 - 2045 đưa ra các mục tiêu tổng quát: “Đưa Việt Nam trở thành quốc gia
biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình
thành văn hố sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng; ngăn chặn xu thế ơ nhiễm, suy thối mơi trường biển, tình trạng sạt lở bờ
biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng.
Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp
thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.” Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là:
- Các chỉ tiêu tổng hợp: Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng
bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên
thế giới. Hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến biển,
đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái
biển.
- Về kinh tế biển: Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả
nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước.
Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm
soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.
- Về xã hội: Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển
cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh,
thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước.
Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc
biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục.
- Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển: Tiếp cận, tận dụng tối
đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong
ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và cơng nghệ biển đạt trình độ tiên tiến,
hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội

ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ biển có năng lực, trình độ cao.
- Về mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng:
Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu
50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản về tài nguyên, môi
trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng
điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hố về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia
sẻ và cập nhật.
Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên
phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa trên biển. Ở các tỉnh, thành
phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và
xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô
thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thơng
minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.
Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện
tích các khu bảo tồn biển, ven biển tới tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển
12


quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm
2000.
Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám
sát mơi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bao gồm cả thông qua
việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với
các nước tiên tiến trong khu vực. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế
tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.
Tới năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền
vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền
kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước cơng nghiệp hiện đại
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải

quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.
Công ước UNCLOS đưa ra các yêu cầu thay đổi tổ chức bộ máy quản lý
và lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam. Từ năm 1998, nhiệm vụ
xây dựng kế hoạch quốc gia phòng ngừa và ứng cứu sự cố tràn dầu được chuyển
từ Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường sang Uỷ ban quốc gia về Tìm kiếm,
cứu nạn trên khơng và trên biển, giúp Ủy ban này kiện toàn và mở rộng các hoạt
động của mình trên khắp vùng biển Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Từ 2007 các nhiệm vụ của Bộ Thủy sản đã được tích hợp vào Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam ra đời trong biên
chế của Bộ Tài nguyên và môi trường nhằm tăng cường thống nhất quản lý đa
ngành, đa chức năng. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực xây dựng lực
lượng Cảnh sát biển từ năm 1998. Trải qua các Pháp lệnh 1998, 2008 và Luật
Cảnh sát biển 2018, lực lượng này lớn mạnh đủ sức vươn ra thực thi pháp luật
trên các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Bên cạnh Cảnh sát
biển, Việt Nam đã tái phục hồi lực lượng Kiểm ngư và Dân quân tự vệ biển, hỗ
trợ cho Hải quân và Cảnh sát biển trong nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển. Chủ trương này đã thể hiện tính
đúng đắn của mình trong việc phối hợp các lực lượng trên biển nhằm ngăn cản
các hoạt động phi pháp của tàu thuyền và dàn khoan nước ngoài xâm phạm vùng
biển Việt Nam, đặc biệt trong các sự kiện dàn khoan HD 981 năm 2014 và tàu
Địa chất Hải dương 8 năm 2019 xâm phạm các vùng biển thuộc quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của UNCLOS.
2.4. Tương lai của việc thảo luận Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông
Đàm phán về một Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông COC là một nhiệm vụ
được đưa ra trong Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên ở Biển Đông năm 2002
nhằm bảo vệ hịa bình và thúc đẩy hợp tác giữa các nước ASEAN và Trung
Quốc tại khu vực. Dự án COC bế tắc trong hơn 18 năm, do bất đồng quan điểm,
và vấn đề này còn phải tiếp tục được các bên kiên trì thảo luận. Năm 2016,
Trung Quốc bị xử thua trong vụ kiện Biển Đông, mà Philippines khiếu nại lên
Tòa Trọng Tài Thường Trực. Năm 2018, Bắc Kinh đột nhiên muốn thúc đẩy

đàm phán về COC, nhưng lại chưa có dấu hiệu khả quan để thơng qua trong năm
2019, do còn nhiều quan điểm bất đồng. Nhiều người hy vọng việc ASEAN và
13


Trung Quốc đạt được COC sẽ giúp Biển Đông lặng sóng. Nhưng khơng ít
chun gia lo ngại Trung Quốc gây áp lực lên các nước nhỏ trong thương thuyết,
gây chia rẽ, hoặc dùng đàm phán đã câu giờ, nhằm thực thi chính sách lấn dần
từng bước. Cịn đối với một số nước ASEAN, một Bộ COC khơng mang tính
ràng buộc sẽ không ngăn chặn được tham vọng chủ quyền biển đảo của Bắc
Kinh ở Biển Đông.
Năm 2019, Trung Quốc và các nước ASEAN đã tích cực thúc đẩy đàm
phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông - COC có tính ràng buộc và hữu hiệu.
Dưới sự nỗ lực của các bên liên quan, COC bước đầu đã đạt được một số thành
công nhất định. Tuy được Trung Quốc và ASEAN thúc đẩy đàm phán, song vẫn
còn gặp nhiều khó khăn để đạt được COC trong thời gian sắp tới. Ngun nhân
chính là do có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các
vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau các
quy định của UNCLOS 1982. Quan điểm về chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán của một số quốc gia ở Biển Đơng cịn khác xa nhau, vấn đề tranh
chấp chủ quyền đối với các đảo, đá ở huyện đảo Trường Sa của Việt Nam có
nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những
động cơ chính trị khác nhau, mà điển hình là Trung Quốc, đã có những hoạt
động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác
xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã
đạt được. Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hỗn q trình thương thảo để
tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách đường
chín đoạn của Trung Quốc chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi
điều chỉnh COC thì chừng đó khơng thể có được COC. Điều đó đồng nghĩa với
việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông,

dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới đối
trọng với Mỹ. Và như vậy có thể thấy rằng cái gọi là đã đạt được bản thảo đầu
tiên của COC do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục
đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể
là đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng Khung COC với TQ.
2.5. Mĩ và đồng minh tăng cường tập trận, tuần tra trên Biển Đông để đảm
bảo quyền lợi và lợi ích chung mang tính chất hịa bình, ổn định của các
nước có liên quan và thiết lập trật tự Thế giới ở khu vực.
Trong năm 2019, các nước đồng minh của Mỹ trong khu vực có
Philippines, Thái Lan và nhất là Australia, Nhật Bản, Anh v.v…, đã thơng qua
nhiều hình thức, biện pháp để tăng cường hiện diện tại Biển Đông nhằm đảm
bảo hoạt động tự do hàng hải, hàng khơng và hịa bình, ổn định ở khu vực. Việc
các nước trên thúc đẩy chính sách, hoạt động trong khu vực đã tạo nên hiệu ứng,
góp phần duy trì ổn định ở Biển Đơng. Australia tiếp tục tăng cường hiện diện ở
Biển Đông, đưa ra nhiều tuyên bố chỉ trích hoạt động phi pháp của Trung Quốc
trong khu vực, đồng thời thúc đẩy hợp tác, giao lưu với các nước liên quan nhằm
đảm bảo hịa bình, ổn định ở Biển Đơng. Ngồi việc tăng cường hiện diện, tuần
tra, Nhật Bản cũng tích cực thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương với các
14


nước liên quan nhằm đảm bảo tự do hàng hải, hàng khơng ở Biển Đơng. Ấn Độ
cũng tích cực tăng cường hiện diện ở Biển Đông thông qua thúc đẩy hợp tác
song phương, đa phương. Ngoài việc tăng cường tuần tra ở Biển Đơng, Anh và
Pháp cũng tích cực hợp tác với các nước trong vấn đề Biển Đông.
Xu thế này sẽ được các nước đồng minh của Mỹ duy trì và đẩy mạnh trong
năm 2020. Tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore vừa qua, Bộ trưởng Quốc
phòng Pháp Florence Parly cho biết Pháp sẽ gửi tàu chiến đến Biển Đông ít nhất
2 lần mỗi năm. Năm 2019, tàu sân bay Charles de Gaulle cũng được Pháp triển
khai tới khu vực với lực lượng mạnh chưa từng có. Tàu sân bay Charles de

Gaulle vừa hồn tất chương trình tu chỉnh định kỳ vào năm 2017, thực hiện
chuyến tuần tra trên biển đầu tiên bằng toàn bộ khả năng tác chiến với gần 40
tiêm kích Rafale M. Rafale M, chiến đấu cơ đa năng có tầm tác chiến bao trùm
hơn 3.000 km và là loại máy bay chiến đấu nước ngoài duy nhất được phép hoạt
động trên các hàng không mẫu hạm của Mỹ. Charles de Gaulle cũng là tàu sân
bay duy nhất của đồng minh nhận mọi loại chiến đấu cơ Mỹ tính từ F18 C/D đáp
xuống và bay đi an toàn trong giới hạn 80 lượt cất cánh/ngày. Charles de Gaulle
có lịch sử hoạt động khá ấn tượng và là một trong những tàu sân bay tham chiến
nhiều nhất trên thế giới. Dự kiến trong năm 2020, cùng với Pháp, Anh cũng sẽ
điều hai hàng không mẫu hạm HMS Queen Elizabeth R08 và HMS Prince of
Wales R09 đến Biển Đông để phối hợp với các hoạt động quân sự của Nhật Bản
và Mỹ khi cần thiết. Ngoài ra, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia…, có thể sẽ điều tàu
sân bay, tàu chiến tới tuần tra ở Biển Đông.
2.6. Dự báo sơ lược diễn biến trên Biển Đông trong thời gian tới.
Việc các nước liên quan còn nhiều bất đồng quan điểm về vấn đề chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển đảo ở Biển Đông,
kết hợp với hàng loạt những hoạt động quân sự, tập trận không thông báo trước
ở Biển Đông trong năm 2019 đã tạo nên những hiệu ứng tiêu cực. Những hành
động như vậy sẽ tiếp tục gia tăng sự mất ổn định ở Biển Đông trong thời gian
tới. Trong năm 2020, dự báo Trung Quốc sẽ có những hoạt động quyết đốn trên
thực địa, gia tăng các hoạt động diễn tập, tập trận bắn đạn thật, khẳng định chủ
quyền một cách vô căn cứ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặc dù khơng có xung đột qn sự kể cả ở quy mô nhỏ, song sự tiếp diễn
của những hành động như tập trận bắn đạt thật, ban hành lệnh cấm đánh bắt cá
đơn phương, tuần tra quân sự của Mỹ, can dự từ một số nước lớn khác vào Biển
Đơng,… sẽ làm cho tình hình khu vực có nhiều biến chuyển mới. Do vậy, cần có
những nghiên cứu chuyên sâu, bám sát tình hình Biển Đơng để cung cấp những
dự báo chính xác về vấn đề này ở tầm dài hạn, trung hạn và nhất là ở tầm ngắn
hạn, để các cấp có thêm những luận cứ khoa học.
(TS. Nguyễn Thanh Minh, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam)

2.7. Luật Biển của Nước CHXHCN Việt Nam ra đời để khẳng định chủ
quyền Biển đảo của quốc gia với cộng đồng quốc tế: Bao gồm 7 chương và
55 điều: Có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01/ 01/ 2013 (Phần Phụ lục)

15


2.8. Khảo sát thực trạng trước và sau thực nghiệm đề tài:
* Bảng kháo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài: (bảng 1)
Chưa hiểu biết
Còn mơ hồ
Hiểu biết về tình
Khối
Số
về tình hình
về tình hình
hình Biển, đảo
TT
lớp lượng
Biển, đảo
Biển, đảo
Việt Nam
Việt Nam
Việt Nam
441 hs - chiếm
63 hs – chiếm
6 hs – chiếm
1
10
510

85,47%
13,35%
1,18%
302 hs - chiếm
88 hs – chiếm
30 hs – chiếm
2
11
420
71, 91%
20, 95%
7, 14%
243 hs - chiếm
108 hs – chiếm
44 hs – chiếm
3
12
395
61, 53%
27, 34%
11, 13%
986 hs – chiếm 259 hs - Chiếm
80 hs – chiếm
Tổng
1.325
74, 41%
19, 56%
6, 03%
* Kết quả từ bảng khảo sát trên cho thấy sự thiếu hiểu biết của thế hệ trẻ nói
chung và tuổi trẻ Trường THPT Ba Đình nói riêng về tình hình Biên giới, biển

đảo diễn biến phức tạp ở thời gian qua cịn q nhiều hạn chế nó thể hiện ở các
mặt sau:
2.8.1. Sự mâu thuẫn của vấn đề:
+ Công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ, (nhưng phần ít được khai
thác một cách có ý nghĩa, khoa học, lành mạnh phục vụ chính đáng việc học
tập, nâng cao hiểu biết…) kèm theo sự xâm nhập nhanh chóng của các loại hình
văn hóa, trị chơi khơng lành mạnh, xã hội hóa giáo dục cịn hạn chế, mặt trái
của cơ chế thị trường…đã ảnh hưởng lớn đến hệ tư tưởng, thiếu hiểu biết và
nhận thức của thế hệ trẻ về lịch sử bảo vệ độc lập chủ quyền , thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, vấn đề Biển đảo và cách ứng xử của các nước có quyền lợi trên
Biển Đông từ thời xa xưa đến nay và mâu thuẫn, sự hiểu biết này cần được giải
quyết thông qua đề tài.
2.8.2. Khó khăn của vấn đề: (Trước khi thực nghiệm đề tài)
+ Giáo dục Việt Nam chưa mạnh dạn đưa phần lịch sử “ Vấn đề Biển đảo ” vào
sách giáo khoa mơn Giáo dục Quốc phịng - An ninh cũng như các mơn học có
liên quan.
+ Tài liệu tham khảo khan hiếm.
+ Sự thật lịch sử còn chưa được cơng khai nhiều và cho rằng liên quan đến chính
sách ngoại giao, kinh tế, vấn đề địa chính trị trong khu vực.
+ Kiến thức về vấn đề này của giáo viên trực tiếp giảng dạy mơn học có liên
quan cịn hạn chế.
+ Học sinh chưa chịu tìm tịi, học hỏi dẫn đến thiếu hiểu biết hoặc chưa quan
tâm đúng mực cũng do mơn học GDQP & AN khó, tích hợp nhiều nguồn kiến
thức lại ít liên quan đến vấn đề hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp sau này.
2.8.3. Thuận lợi: (Trong và sau khi thực nghiệm đề tài)

16


+ Được Ban Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, giáo viên trong nhà trường đặc

biệt quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện khi thực nghiệm đề tài này.
+ Phù hợp với các chương trình hoạt động ngoại khóa của nhà trường
+ Học sinh có hứng thú trong quá trình nhận thức, lĩnh hội kiến thức.
+ Khi thực nghiệm, đề tài mang tính thời sự, đáp ứng nhu cầu hiểu khám phá
lịch sử, mang tính tuyên truyền sâu rộng, hiểu biết đúng đắn và ý nghĩa đối với
tuổi trẻ Trường THPT Ba Đình nói riêng cũng như tuổi trẻ trên địa bàn huyện
Nga Sơn nói chung.
+ Phù hợp với đặc thù mơn học, trình độ của giáo viên và học sinh và xu thế đổi
mới giáo dục ở nước ta và thế giới.
2. 9. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
2.9.1. Tổ chức giảng dạy chính khóa.
a. Về phía giáo viên:
- Triển khai đến tồn bộ giáo viên giảng dạy trực tiếp mơn Giáo dục Quốc phịng
& An ninh thực hiện giảng dạy đầy đủ nội dung chương trình theo quy định của
Bộ GD&ĐT đối với 3 khối học 10, 11, 12.
- Đ/c Tổ trưởng chuyên môn tổ chức một đến hai buổi hội thảo công bố đề tài
đến các thành viên trong tổ và mời thêm đại diện Ban giám hiệu, Đoàn thanh
niên, giáo viên các tổ bộ môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân…cùng tham
gia và đóng góp, xây dựng ý kiến để đề tài được hồn thiện và thực thi.
- Bố trí giảng dạy lồng ghép nội dung hiểu biết về Biển đảo cũng như giáo dục
cho học sinh hiểu biết thêm về thực trạng cũng như Luật Biển Việt Nam đã ban
hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 vào những tiết thực hành của 3 khối học
mà do lý do thời tiết (trời mưa) khơng thể học ngồi trời được sau đó tổ chức
học bù lại khi điều kiện cho phép.
b. Về phía học sinh:
- Tích cực học tập, chuẩn bị trang phục, học cụ để tập luyện, và ghi chép bài đầy
đủ nội dung theo chương trình quy định.
- Nắm vững kỹ năng, kiến thức trong phạm vi đề tài để từ đó trở thành những
tun truyền viên tích cực tuyên truyền những hiểu biết của mình về chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán Biển đảo Việt Nam, luật Biển và q trình thực

thi Cơng ước Quốc tế về luật Biển năm 1982 của nước ta đến đông đảo quần
chúng nhân dân nơi cư trú được rõ.
2.9.2. Tổ chức hoạt động ngoại khóa.
a. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi đề tài đến tất cả giáo viên và học sinh trường
THPT Ba Đình để mọi người cùng nắm được, từ đó phối kết hợp tổ chức các
hoạt động về Biển đảo
b. Phối hợp với Đoàn trường tổ chức thi “RUNG CHUÔNG VÀNG” chủ đề về
Biển đảo với nội dung kiến thức:
- Kiến thức Biển đảo Việt Nam.
- Công ước Quốc tế về luật Biển năm 1982 được thực thi tại Việt Nam.
- Luật Biển Việt Nam năm 2013.

17


c. Phối hợp với một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn huyện Nga Sơn tổ
chức các chương trình giao lưu văn nghệ “Gần lắm Trường Sa” hay “Nối vòng
tay biển”; viết thư cho bộ đội nơi đảo xa; sinh hoạt ngoại khóa với chủ đề “Tuần
lễ cơng dân biển”... đã góp phần ni dưỡng tình u biển - đảo trong tâm hồn
mỗi học sinh.
- Sưu tầm các video clip liên quan đến vấn đề mang tính tích cực có nội dung
giáo dục, tính pháp lý cao tn thủ luật pháp quốc tế, phù hợp luật pháp Việt
Nam trình chiếu cho học sinh xem một cách rộng rãi, có tính chất tun truyền.
d. Tổ chức cho học sinh viết bài thu hoạch hiểu biết về chủ quyền biển đảo Việt
Nam.
- Phát đề cương ơn tập, tìm hiểu cho học sinh 3 khối 10,11,12 nghiên cứu sau đó
viết bài thu hoạch hiểu biết về vấn đề này
- Thành lập ban giáo khảo chấm các bài thu hoạch, công bố cơ cấu giải thưởng
mang tính động viên và trao giải thưởng vào sáng thứ 2 tiết chào cờ.
2.9.3. Hiệu quả của SKKN

1. Giáo viên nói chung: Tổ chức tập huấn về kiến thức biển đảo cho toàn bộ
giáo viên một cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền về
chủ quyền biển đảo Việt Nam sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh
trong mỗi vùng miền khác nhau.
2. Với bản thân: Đã nâng cao một cách rõ rệt chất lượng giờ dạy chính khóa
cũng như ngoại khóa, tự tin, vững vàng đứng trên bục giảng, khẳng định tầm
quan trọng của môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh, tạo được hứng thú cho
người dạy và người học hiểu biết hơn về vấn đề này, từ đó đã góp phần xây
dựng tình u quê hương, đất nước, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ một cách bền vững và sâu sắc, góp phần vào việc giáo dục tồn diện
cho học sinh THPT
- Đã có 78/81 cán bộ giáo viên là đồn viên Cơng đồn, Chi đồn giáo viên,
Đồn thanh niên trường THPT Ba Đình tham gia học tập và tổ chức các hoạt
động, phong trào về Giáo dục hiểu biết về Biển đảo chiếm 96,29%, họ đã tỏ ra
rất hào hứng và nhận thức được ý thức trách nhiệm của bản thân một cách sâu
sắc hơn.
3. Học sinh: Đã góp phần ni dưỡng ý thức trách nhiệm cơng dân tình yêu
biển - đảo trong tâm hồn mỗi học sinh, sẵn sàng tham gia các lực lượng chấp
pháp thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của tổ quốc trên
cơ sở tuân thủ luật pháp Quốc tế.
- Số lượng 1.325/1.325 học sinh học tập và tham gia các hoạt động do Giáo viên
lựa chọn đề tài này phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tổ chức
thực hiện chiếm 100%.
* KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ĐỐI CHIẾU VỚI (bảng1)
* Bảng kháo sát thực trạng sau khi thực hiện xong đề tài: (bảng 2)
TT Khối
Số
Chưa hiểu biết
Cịn mơ hồ
Hiểu biết về tình

lớp lượng
về tình hình
về tình hình
hình Biển, đảo
Biển, đảo Việt
Biển, đảo Việt
Việt Nam
18


Nam
0 hs - chiếm
0,00%
0 hs - chiếm
0, 00%
0 hs - chiếm
0, 00%

Nam
34 hs – chiếm
476 hs – chiếm
1
10
510
6, 67%
93, 33%
12 hs – chiếm
408 hs – chiếm
2
11

420
2, 86%
97, 14%
04 hs – chiếm
391 hs – chiếm
3
12
395
01, 01%
98, 99%
Tổn
50 hs - Chiếm
1.275hs – chiếm
1.325
0
g
3, 77%
96, 23%
* Đối chiếu 2 bảng số liệu thực trạng trước và sau khi thực hiện đề tài:
- Đã có 1.325/ 1.325 học sinh học tập và tham gia các hoạt động do Giáo viên
lựa chọn đề tài này khi phối hợp với cán bộ giáo viên các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường tổ chức thực hiện chiếm 100%.
- Quá trình nhận thức của học sinh Trường THPT Ba Đình khi thực hiện đề tài:
Khảo sát trước khi thực nghiệm và sau khi thực nghiệm thông qua 2 bảng thống
kê số liệu (Bảng 1 và 2) cho thấy sự thành công của đề tài với sự hiểu biết đạt
trung bình đến 96,23% tổng số học sinh tồn trường, được hầu hết Ban Giám
hiệu, các tổ chức đoàn thể và cán bộ giáo viên hưởng ứng và tham gia, đặc biệt
là giáo viên 4 tổ, nhóm bộ mơn Giáo dục Quốc phòng- An ninh, Lịch sử, Địa Lý
và GDCD
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận.
- Thực tế hiện nay, đa số học sinh phổ thơng đều cịn thiếu kiến thức về biển đảo
và chủ quyền vùng biển Việt Nam. Với số lượng bài học về biển đảo còn hạn
chế trong chương trình mơn GDQP & AN, Địa lí, Lịch sử… chưa thể giúp học
sinh có cái nhìn tồn diện và hiểu biết cụ thể về các vấn đề biển đảo Việt Nam.
Mặt khác, các bài học này chỉ nêu vài nét khái quát về tình hình phát triển kinh
tế xã hội ở vùng biển chứ khơng nói lên được giá trị lịch sử, kinh tế, chính trị…
về Biển đảo để học sinh có thể hiểu biết hơn từ đó các em mới ý thức trách
nhiệm của bản thân trước vận mệnh của đất nước, định hướng nghề nghiệp…
cho nên khi đưa ra lý do chọn và triển khai vận dụng đề tài này cho giáo viên và
học sinh trường THPT Ba Đình thực hiện, bản thân thấy cũng hợp lý được đồng
nghiệp và học sinh đánh giá cao, nhiệt tình ủng hộ.
- Thơng qua giáo viên và học sinh, đề tài có thể là cơng cụ để tun truyền rộng
rãi đến quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện Nga Sơn hiểu biết hơn về giá trị
vật chất và tinh thần của Biển đảo, vững tin trước chủ trương, đường lối, luật
biển, con đường ngoại giao của Đảng, nhà nước ta về việc giải quyết các tranh
chấp ở Biển đông với các nước trong khu vực trên cơ sở hịa bình và tn thủ
luật pháp Quốc tế.
- Bồi đắp tình yêu, ý thức trách nhiệm, sự trân trọng của các tầng lớp nhân dân
trong đó có học sinh đối với độc lập - chủ quyền - toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; khơi dậy và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cộng đồng
19


người Việt Nam ở nước ngoài và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế về vấn đề biển,
đảo, biên giới, lãnh thổ Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của
Tổ quốc.
3.2. Kiến nghị
- Các Bộ Ngành có liên quan cần tổ chức nhiều lớp tập huấn về kiến thức biển

đảo cho toàn bộ giáo viên một cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong việc
tuyên truyền về chủ quyền biển đảo Việt Nam sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối
tượng học sinh trong mỗi vùng miền khác nhau. Mỗi địa phương, đặc biệt là các
tỉnh/thành giáp biển đều chú trọng việc tuyên truyền thành tựu KT - CT - XH
với việc nhấn mạnh vai trò của kinh tế biển. Tun truyền, nhân rộng các mơ
hình phát triển kinh tế biển hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống phần mềm học tập về biển đảo, chủ quyền biển đảo, các
Công ước Liên hiệp Quốc về biển đảo, luật biển Việt Nam,… Tăng cường in ấn
các ấn phẩm, xuất bản nhiều sách viết và giới thiệu về biển đảo Việt Nam. Mở
các trung tâm triển lãm tranh ảnh về biển đảo. Giới thiệu các bộ phim, video,
phóng sự về biển đảo Việt Nam.
- Nếu có thay sách giáo khoa nên đưa thêm phần chủ quyên Biển đảo Việt Nam
vào sách giáo khoa để học sinh năm rõ kiến thức và hiểu rõ vấn đề hơn như các
quốc gia có Biển vẫn làm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 17 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Mai Văn Đại

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Baochinhphu.vn
[2]. Nghiencuubiendong.vn
[3]. Nhandan dientu.com.vn
[4]. Biendong.net
[5]. Thanhnien.vn
[6]. Wikipedia.org
[7]. Thuvienphapluat.vn
[8]. Tài liệu Tập huấn GDQP & AN tháng 9 năm 2017
[9]. Báo QĐND online

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN


Họ và tên tác giả: Mai Văn Đại
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Trường THPT Ba Đình

TT
1.

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Tên đề tài SKKN


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2012

Nâng cao nhận thức cho học
sinh về một số vấn đề biển

Ngành

đảo
----------------------------------------------------

PHỤ LỤC
Luật Biển Việt Nam bao gồm bảy chương và 55 điều: Có hiệu lực bắt đầu
từ ngày 01/ 01/ 2013
Chương I: Những quy định chung
Gồm có 7 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải
thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ
biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lý nhà nước về biển.



a. Ðiều 1 của Luật Biển Việt Nam nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường
cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt
động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ biển,
đảo. Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong luật là sự tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn
đề này, đã được nêu rõ trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam phê
chuẩn Công ước Luật Biển năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
b. Về nguyên tắc và chính sách quản lý, bảo vệ biển, Luật Biển Việt Nam nêu rõ
quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật
Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế
khác mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
c. Luật Biển Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Nhà nước
ta là giải quyết các tranh chấp liên quan biển, đảo với các nước bằng các biện
pháp hịa bình, phù hợp Cơng ước Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn
quốc tế. Nhà nước ta đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực, trong đó nêu nhiều lĩnh vực hợp tác cụ thể về biển và
đại dương.
d. Về cơ chế quản lý biển, quản lý biển là một công việc lớn và phức tạp, có liên
quan đến nhiều bộ, ngành và địa phương trong cả nước. Ðể bảo đảm nguyên tắc
quản lý biển thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, Luật Biển Việt Nam quy định
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước; các bộ,
cơ quan ngang bộ, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung
ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước
về biển.
Chương II: Vùng biển Việt Nam
Gồm có 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các
vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển

thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
a. Về đường cơ sở, Luật Biển Việt Nam quy định đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ cơng bố.
Hiện nay ta đã có đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực
hiện nay chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo Hồng Sa,
Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định và công bố sau khi được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội phê chuẩn.
b. Nhà nước ta thực hiện chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải Việt Nam. Nội
thủy của nước ta là vùng nước nằm giữa bờ biển và đường cơ sở. Lãnh hải của
nước ta rộng 12 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng
trời, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển của nội thủy và lãnh hải cũng thuộc chủ
quyền của nước ta. Nhà nước ta thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vùng đặc quyền kinh tế của


×