Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN một số biện pháp của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức, định hướng và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh lớp 11a1 ở trường THPT quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 28 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Tôi là một giáo viên công tác ở một trường miền núi vùng sâu vùng xa đến
nay cũng đã hơn mười năm, và cũng đã trải qua gần ba khóa chủ nhiệm. Với tơi
có rất nhiều trăn trở, suy nghĩ trong cơ ng tác chuyên môn cũng như công tác
chủ nhiệm lớp. Làm sao để lớp mình chủ nhiệm đạt những thành tích cao trong
học tập, cũng như tham gia các phong trào thi đua của nhà trường? Đó chính là
những trăn trở của khơng ít thầy cơ giáo chủ nhiệm. Với đội ngũ giáo viên trẻ,
tuy được trang bị những kiến thức khá chuẩn trong công việc dạy học, nhưng
khi đứng trước cơng tác chủ nhiệm, khơng ít người cảm thấy bỡ ngỡ và lúng
túng. Như vậy khi nói đến giáo viên chủ nhiệm là đề cập đến vị trí, vai trị, chức
năng của người làm cơng tác chủ nhiệm lớp, cịn nói đến cơng tác chủ nhiệm
lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người giáo viên chủ
nhiệm phải làm, cần làm và nên làm.
Trong giai đoạn đất nước ta hội nhập kinh tế, ngoài mặt tích cực nó cịn
làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc
bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào trong nước những sản phẩm đồi
trụy, phản nhân văn, nảy sinh lối sống tự do buông thả, làm xói mịn những giá
trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh
thiếu niên có dấu hiệu sa sút về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc,
kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí
khơng kiên định, khơng có tính tự chủ, dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.
Trong các nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng, số học sinh vi
phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh kết thành băng nhóm
bạo hành trong trường học đáng được báo động. Một số giáo viên chưa thật sự
là tấm gương sáng cho học sinh, chưa chú ý đến việc giáo dục đạo đức tình
cảm, tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Có một số học sinh chọn ngành nghề
khơng phù hợp với năng lực của mình và nhu cầu của xã hội. Nên có một số em
dù đậu vào trường đại học nhưng không theo kịp chương trình và ra trường
khơng tìm được việc làm.
Xuất phát từ thực trạng trên, để góp phần vào cơng tác giáo dục đạo đức và


tư vấn cho các em chọn đúng ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực
của bản thân và nhu cầu của xã hội cho học sinh. Ngồi những mơi trường khác
như gia đình, xã hội,... trường học nói chung và trường THPT nói riêng chính là
mơi trường quan trọng góp phần rèn luyện, hình thành nên tri thức và nhân cách
của học sinh. Trong đó, vai trò của trường THPT, vai trò của giáo viên chủ
nhiệm là vô cùng quan trọng. Ở lứa tuổi này, các em chưa thực sự trưởng thành,
nhưng đã có những hiểu biết nhất định về cuộc sống, về xã hội, về ngành nghề
mình sẽ chọn học sau khi học hết lớp 12 và cũng có những biến đổi lớn trong
1


tâm sinh lí theo từng năm học. Vì vậy, bên cạnh việc chú trọng truyền thụ những
tri thức khoa học cho các em, chúng ta cần phải giáo dục cho các em về đạo đức
để góp phần giúp các em trở thành một con người tồn diện có đủ cả đức lẫn tài
trước khi bước ra ngoài xã hội. Việc truyền thụ cho học sinh những tri thức khoa
học là nhiệm vụ chung của tất cả các giáo viên bộ mơn, cịn tư vấn cho các em
chọn đúng ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu
cầu của xã hội, giáo dục cho các em có đạo đức trong sáng, lành mạnh, biết yêu
thương và quan tâm tới mọi người vai trò quan trọng nhất là ở người giáo viên
chủ nhiệm lớp.
Vì vậy, những sáng kiến để tăng hiệu quả công tác chủ nhiệm thực sự rất
đáng quý và cần được phổ biến, nhân rộng. Ý thức được điều đó, trong năm học
2020-2021 này, tôi xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp của
giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức, định hướng và tư vấn
nghề nghiệp cho học sinh lớp 11A1 ở trường THPT Quan Sơn”. Có thể nói
đây là những kinh nghiệm mà tơi rút ra sau gần ba khóa chủ nhiệm lớp ở đơn vị
tơi cơng tác. Tơi rất mong được sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cơ.
II. Mục đích nghiên cứu
Từ thực trạng trên, đề tài nêu lên một số biện pháp của giáo viên chủ
nhiệm lớp. Qua đó đề xuất một số biện pháp để giáo viên giáo dục đạo đức học

sinh, định hướng và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh giúp các em chọn đúng
ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã
hội.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài thực hiện cụ thể trên công tác chủ nhiệm của bản thân tôi trong
nhiều năm liên tục trên cương vị một giáo viên bậc học phổ thông.
- Việc vận dụng và khảo sát kết quả cụ thể được thực hiện ở các lớp A1 mà
tôi đã chủ nhiệm trong các khóa học 2011-2014, khóa học 2016-2019 và khóa
học 2019-2022 ở trường THPT Quan Sơn.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm lớp, nghiên cứu và viết
sáng kiến kinh nghiệm này, người viết đã sử dụng một số phương pháp cơ bản
sau:
- Phương pháp lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về vai trị của
người GVCN lớp trong cơng tác giáo dục đạo đức và tư vấn cho học sinh chọn
đúng ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu
của xã hội trên các tập san giáo dục, thơng báo tuyển dụng và tìm việc làm, các
phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu tham khảo trên Internet.

2


- Phương pháp khảo sát: khảo sát thông tin của học sinh qua từng học kỳ,
từng năm học để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của học sinh
để có những định hướng, tư vấn phù hợp cho các em.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh, đối chiếu kết quả học tập, tu
dưỡng rèn luyện của học sinh ở những tập thể lớp có được sự quan tâm chú
trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp so với các lớp chưa được giáo viên chủ
nhiệm quan tâm định hướng, tư vấn cho học sinh.
- Phương pháp điều tra, thống kê: Trò chuyện, trao đổi với các GVBM,

HS, hội cha mẹ học sinh (CMHS), bạn bè và người thân của HS. Sử dụng phiếu
điều tra thông tin học sinh qua từng năm học.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo
dục đạo đức và tư vấn cho các em chọn đúng ngành, nghề theo sở thích, phù
hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội ở các lớp A1 khóa học
2016-2019 và khóa học 2019-2022 ở trường THPT Quan Sơn.

3


PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1. Vị trí, vai trị của giáo viên chủ nhiệm và công tác chủ nhiệm lớp ở
trường phổ thông
Giáo viên chủ nhiệm là người được hiệu trưởng bổ nhiệm, phân công chịu
trách nhiệm về một lớp. Điều lệ trường trung học ghi rõ: “Mỗi lớp có một giáo
viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng chỉ định, chọn trong số giáo viên giảng dạy
ở lớp đó”. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm
quản lý tồn diện lớp học từ giáo dục văn hóa cho đến giáo dục đạo đức nhân
cách. Chính vì thế có thể nói giáo viên chủ nhiệm là cầu nối đa chiều giữa các
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh lớp chủ
nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông là linh hồn của lớp học, là
người góp phần khơng nhỏ hình thành và nuôi dưỡng nhân cách học sinh,
những chủ nhân tương lai của đất nước. Nói như PGS.TS Đặng Quốc Bảo –
Học viện quản lý giáo dục thì giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông là

“nhà quản lý không có dấu đỏ”. Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng
đắn và sâu sắc về giáo dục, có thể coi giáo viên chủ nhiệm (GVCN) như một
nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo lớp học; Người điều khiển lớp học;
Người làm công tác phát triển lớp học; Người làm công tác tổ chức lớp học;
Người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; Người giúp hiệu trưởng thực hiện
việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của HS; Người có trách nhiệm phản hồi
tình hình lớp… Một người giáo viên chủ nhiệm giỏi sẽ góp phần xây dựng nên
một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một nhà trường
vững mạnh.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường – gia đình và xã hội. Nếu
thực hiện thành cơng cơng tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này
trở thành thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tài năng.
2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm
Chính vì có vị trí quan trọng và vai trị to lớn trong công tác giáo dục mà
nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm cũng khá nặng nề và vất vả. Xin được nêu
một số nhiệm vụ cơ bản của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Thứ nhất, giáo viên chủ nhiệm phải là người lãnh đạo, điều khiển lớp học,
bao quát toàn bộ các phương diện của lớp học, thực hiện việc kiểm tra, đánh giá
sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của học sinh.
Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm phải là cầu nối giữa BGH nhà trường, các tổ
chức trong trường, các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm.
Nói cách khác, giáo viên chủ nhiệm phải là người đại diện cho cả hai phía là đại
diện cho các lực lượng trong nhà trường và đại diện cho tập thể học sinh lớp
chủ nhiệm về mọi mặt một cách hợp lí.
4


Thứ ba, giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ giáo dục học sinh thông qua tập
thể giúp các em hiểu và giải quyết mối liên hệ giữa cá nhân với tập thể qua việc
phân công, phân nhiệm một cách kịp thời cân đối, giúp học sinh tự giải quyết

những vấn đề gắn liền với hoạt động xã hội, hoạt động tập thể như cắm trại,
tham quan, sinh hoạt đoàn, chủ điểm hàng tháng qua các tiết hoạt động ngoài
giờ giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức các hoạt động tập thể như: Tham quan,
thăm hỏi, giúp đỡ công việc gia đình của những em học sinh có hồn cảnh khó
khăn, neo đơn…giáo viên chủ niệm phải biết cách tổ chức, lôi cuốn học sinh
vào hoạt động tập thể để giáo dục dễ dàng, có hiệu quả hơn.
Với vị trí, vai trò và nhiệm vụ như vậy, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
cần có phẩm chất và năng lực, khơng ngừng học tập tích lũy kinh nghiệm để
làm cơng tác chủ nhiệm có hiệu quả.
3. Những yếu tố cần có để trờ thành người giáo viên chủ nhiệm lớp tốt
Trong trường THPT, vì giáo viên chủ nhiệm là cán bộ quản lý lớp cho nên
người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Trong giảng
dạy chuyên mơn, người giáo viên giỏi là người giáo viên có kiến thức vững
vàng về mơn học của mình, có phương pháp dạy học hợp lí, có năng lực truyền
thụ tốt tới học sinh,... cịn đối với cơng tác chủ nhiệm lớp, tố chất quan trọng
nhất để trở thành một người giáo viên chủ nhiệm lớp tốt không phải là kĩ năng
mà chính là tình thương u học sinh và năng lực quản lí. Giáo viên chủ nhiệm
lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hố. Mọi cơng việc của lớp
người giáo viên chủ nhiệm cần phải có những kế hoạch rõ ràng. Và khi đã có kế
hoạch cụ thể cho từng hoạt động giáo dục rồi thì phải bắt tay vào làm. Thấy
đúng thì làm tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo
quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết
và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu
sát, cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ
cán bộ lớp giỏi, nhiệt tình để trở thành “cánh tay phải” của mình. Nhưng điều
cốt yếu nhất là phải đối xử với học sinh chân thật và bằng tình u thương, sự
cơng bằng. Giáo viên chủ nhiệm phải vừa là người thầy, vừa là người anh,
người chị, người cha, người mẹ thứ hai, là bạn của mỗi học trị.
Bên cạnh đó, người giáo viên chủ nhiệm tốt phải là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo. Đối với học sinh trong trường học nói chung và trong trường

THPT nói riêng, mỗi lời nói, hành động, việc làm,... của người giáo viên chủ
nhiệm lớp đều sẽ tác động, ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành đạo đức và
lối sống, nhân cách của học sinh. Vì vậy, nhất thiết mỗi người giáo viên chủ
nhiệm phải là một tấm gương sáng cho HS noi theo. Để làm được điều này, theo
tôi, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp (cũng như giáo viên bộ môn) cần phải thực
hiện nghiêm túc những quy định về đạo đức, tác phong nhà giáo. Chẳng hạn
5


như để trở thành tấm gương sáng về lối sống, cung cách ứng xử với mọi người
trong xã hội cho học sinh thì người giáo viên cần phải có lối sống trung thực,
lành mạnh, những ngôn ngữ, cử chỉ, hành động phải lịch sự, có văn hóa, khơng
ngừng học tập và sáng tạo chứ tuyệt đối khơng được có những lời nói khiếm
nhã, có những hành động, lối ứng xử, thái độ không đẹp trong đời sống. Hay
như muốn học sinh chăm chỉ lao động trong hoạt động lao động của lớp thì giáo
viên khơng nên chỉ đóng vai trị là người điều hành, chỉ đạo mà còn nên lao
động cùng với lớp để từ đó học sinh nhìn vào tấm gương của mình mà chăm chỉ
lao động hơn...
Nhưng khơng chỉ có thế, người giáo viên chủ nhiệm tốt cịn phải là người
biết thơng cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi
của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả lời
chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cơ để nói
chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách trả lời...). Hỏi các
em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường... giúp các em
giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngồi lớp học, thầy cơ cịn
phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được.
Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lịng nhân ái.
II. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm
1. Tình hình chung về cơng tác chủ nhiệm của giáo viên ở trường phổ thơng
Bức tranh tồn cảnh về cơng tác chủ nhiệm ở trương phổ thơng nói chung,

trường THTP nói riêng cho thấy bên cạnh những đóng góp tích cực cho chất
lượng giáo dục cũng còn những hạn chế. Đó là nhận thức của giáo viên về ý
nghĩa, vai trị của cơng tác chủ nhiệm cịn có nơi có lúc chưa khách quan, toàn
diện. Một số giáo viên được phân cơng làm chủ nhiệm cịn chưa tâm huyết với
cơng việc, ngại khó ngại khổ mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ chủ
nhiệm lớp. Lại cũng có những giáo viên mà năng lực điều hành, quản lý lớp chủ
nhiệm cịn hạn chế...
Về cơng tác tổ chức, hướng dẫn, quản lý hoạt động phong trào ở lớp chủ
nhiệm nói riêng lại càng ít được các lực lượng giáo dục và cả bản thân giáo viên
chủ nhiệm chú trọng đầu tư công sức và thời gian xứng đáng với tầm quan trọng
của nó. Hoặc chưa có phương pháp hiệu quả để phát huy các hoạt động này đạt
kết quả cao. Có những tập thể lớp chưa tìm được tiếng nói chung giữa giáo viên
chủ nhiệm với học sinh trong hoạt động phong trào. Ví dụ như lớp thì rất muốn
hoạt động phong trào thật sôi nổi rầm rộ nhưng giáo viên chủ nhiệm lại khơng
muốn học sinh của mình tích cực tham gia vì cho rằng chỉ tốn thời gian, lãng
phí cơng sức và tiền của mà chẳng giúp ích gì cho mục tiêu học tập để thi tốt
nghiệp và vào được các trường CĐ-ĐH, vốn là mục tiêu số một của bậc học
THPT (Thực ra quan điểm này sai lầm vì như vậy học sinh khơng được cơ hội
6


phát triển tồn diện và gây ức chế tâm lí cho học sinh, tạo khoảng cách bất lợi
cho mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh...); Lại có lớp khơng có
khả năng giành thành tích cao trong các hoạt động phong trào thi đua nhưng
giáo viên chủ nhiệm lại áp đặt học sinh phải tham gia và giành thành tích cao.
(Quan điểm này cũng sai lầm và hậu quả là làm cho học sinh bị áp lực tâm lý
gây chán nản, không muốn tham gia hoạt động, có tham gia thì cũng khơng
xuất phát từ mong muốn của học sinh. Như vậy sẽ khơng có kết quả giáo dục
tốt).
2. Tình hình chung ở trường THPT Quan Sơn

Trường THPT Quan Sơn từ lâu công tác chủ nhiệm lớp đã được BGH nhà
trường và giáo viên của trường quan tâm, được đầu tư cơ sở vật chất cũng như
tinh thần một cách tối đa trong khả năng cho phép để nâng cao chất lượng dạy
và học nói riêng, chất lượng giáo dục tồn diện nói chung. Tuy nhiên trường
THPT Quan Sơn là một trường đóng trên địa bàn thuộc vùng đặc biệt khó khăn,
học sinh của nhà trường gồm con em của bốn dân tộc Kinh, Thái, Mường,
Mông, trong đó học sinh người Thái chiếm đa số. Do vậy trong cơng tác chủ
nhiệm ở trường có một số thuận lợi và khó khăn như sau:
- Thuận lợi: Về phía đội ngũ giáo viên của nhà trường đa số là những thầy
cơ giáo trẻ, rất u nghề, u trị. Trình độ chuyên môn đều đạt chuẩn và trên
chuẩn, đảm bảo cho cơng tác dạy học. Về phía học sinh, nhìn chung các em học
sinh của nhà trường đều chăm ngoan, lễ phép, có ý thức học tập, có tinh thần
vượt khó để vươn lên trong học tập. Có nhiều em do hồn cảnh khó khăn, sau
khi tơt nghiệp phổ thơng mặc dù đậu đại học nhưng không thể theo đuổi con
đường học vấn nhưng các em cũng đã tự tìm cho mình một nghề nghiệp phù
hợp để vừa phụ giúp gia đình vừa lo được cho bản thân.
- Khó khăn: Đối với một trường phổ thơng đóng trên địa bàn của một trong
những huyện nghèo nhất cả nước thì khơng thể kể hết những khó khăn của thầy
và trị nơi đây. Trước hết phải nói về trình độ dân trí, đa số học sinh của nhà
trường là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên trình độ dân trí cịn nhiều hạn
chế. Trong cơng tác chủ nhiệm làm sao để ngày ngày các em đến trường đầy đủ
cũng coi là một thành công của các thầy cô. Thêm vào đó, trong vài năm gần
đây số lượng học sinh được tuyển vào đầu cấp chất lượng tương đối thấp, chỉ
qua điểm liệt là đậu vào trường. Vì vậy cơng tác dạy học và cơng tác chủ nhiệm
cũng gặp khơng ít khó khăn. Bên cạnh đó, phần lớn gia đình các em đều ở rất xa
trường, có em ở cách trường hơn hai mươi km, phải qua sông qua suối, nên việc
đi lại học tập hàng ngày của các em rất vất vả. Một số học sinh thiếu thốn tình
cảm của gia đình như chỉ ở với mẹ hoặc bố, bố mẹ đi làm ăn xa, mồ cơi như em
Lị Thị Tế, em Vi Thị Phượng… Tuy phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập,


7


nề nếp của con em mình, song vì bận việc đồng ruộng, rừng rẫy… nên nhiều
gia đình khơng có thời gian để ý kèm cặp con em mình tốt nhất.
III. Các biện pháp của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức,
định hướng và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh
III.1. Lựa chọn ban cán sự lớp
Việc lựa chọn ban cán sự lớp là một trong những việc làm đầu tiên của
GVCN khi nhận lớp. Khi GVCN lựa chọn được một ban cán sự lớp có đủ năng
lực và uy tín để giúp GVCN trong việc quản lý lớp có ý nghĩa rất quan trọng. Vì
vậy để lựa chọn được một ban cán sự lớp năng động, “có tiếng nói”, GVCN có
thể căn cứ vào nhiều thơng tin như:
+ Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS.
+ Căn cứ vào sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu
mỗi năm học.
+ Căn cứ vào kết quả học tập và rèn luyện.
+ Căn cứ vào những thơng tin mà GVCN thăm dị được của HS ở địa bàn
HS cư trú.
Sau khi lựa chọn được ban cán sự lớp, GVCN sẽ tiến hành phân công
nhiệm vụ cho từng thành viên của ban cán sự lớp. Việc phân công đúng và hợp
lý cũng sẽ phát huy được năng lực và trách nhiệm của các em trong cơng việc.
Vì ban cán sự lớp đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước nhà trường về toàn
bộ hoạt động học tập, rèn luyện, đời sống của lớp trong thời gian học. Ban cán
sự lớp do tập thể lớp bầu ra, được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kỳ của
Ban cán sự lớp là một năm. Cơ cấu của ban cán sự lớp gồm:
+ Lớp trưởng
+ Bí thư chi Đồn
+ Lớp Phó học tập
+ Lớp Phó văn thể

+ Lớp Phó lao động
+ Tổ trưởng tổ 1, 2, 3, 4
* Nhiệm vụ của lớp trưởng: Lớp trưởng là người điều hành, quản lý toàn
bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp, cụ thể:
+ Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện.
+ Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh nội quy về học
tập và sinh hoạt của nhà trường, của lớp. Xây dựng và thực hiện nề nếp tự quản
của tập thể lớp.
+ Tổ chức, động viên giúp đỡ những bạn gặp khó khăn trong học tập, rèn
luyện và đời sống.
+ Chịu sự điều hành, quản lý của trực tiếp của GVCN lớp.

8


+ Chủ trì các cuộc họp lớp để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét
học bổng, đề nghị thi đua khen thưởng đối với tập thể và cá nhân trong lớp.
* Nhiệm vụ của các lớp phó:
+ Ðôn đốc học sinh đi học đầy đủ, đúng giờ, đảm bảo học tập nghiêm túc.
+ Ðiểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, kịp thời.
+ Lập danh sách các bạn thuộc diện đối tượng ưu tiên, hồn cảnh khó
khăn, báo cáo với giáo viên chủ nhiệm.
+ Tổ chức và quản lý các bạn trong lớp thực hiện công việc lao động và
các hoạt động liên quan đến sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của lớp.
+ Tổ chức động viên, thăm hỏi những bạn có hồn cảnh khó khăn, ốm đau,
tai nạn...
* Nhiệm vụ của Bí thư chi Đồn:
+ Nắm bắt và tiếp thu những thơng báo, chỉ thị của Đoàn trường để kịp
thời triển khai cho Đoàn viên trong chi đoàn thực hiện đầy đủ.
+ Thực hiện các phong trào ủng hộ, quyên góp… do huyện Đoàn và Đoàn

trường phát động.
* Nhiệm vụ của các tổ trưởng:
+ Thực hiện và duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ theo chủ đề lớp đã chọn.
III.2. Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội
Nhà trường, gia đình và xã hội đều có vai trị quan trọng trong giáo dục
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh. Các phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói riêng được hình thành và
phát triển trong các mơi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai
trị của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp phần
quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trị của
nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cho HS THPT và tư vấn cho các em chọn đúng
ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của
hội, GVCN phải kết hợp chặt chẽ với gia đình.
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trị giáo dục khác nhau đối với sự
hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. Trong
mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng
trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là mơi trường giáo dục
tồn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên
nghiệp nhất nên nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ
những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình
và xã hội.
Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện
hút vv… cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức,
9


không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà
trường dù là một “pháo đài” vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía
ngồi. Nhà trường khơng phải là một ốc đảo tách khỏi xã hội, tách xa thực tiễn.

Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có các nhân tố của kinh tế
thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng, có khi sơi động dồn dập.
Đặc biệt là xã hội bị luồng văn hoá ngoại lai, đồi truỵ, bạo lực... len lỏi vào mọi
tầng lớp nhân dân trong đó có học sinh. Vậy, việc phối hợp với nhà trường, gia
đình và xã hội, GVCN phải làm như thế nào?
Phối hợp với nhà trường: giáo viên chủ nhiệm lớp cần thường xuyên báo
cáo đầy đủ, trung thực về tình hình lớp theo từng tuần với Ban giám hiệu nhà
trường qua buổi hợp chủ nhiệm mỗi tuần. Khi lớp có học sinh cá biệt, học sinh
chậm tiến cần thường xuyên báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về tình hình
của học sinh đó để tìm phương pháp giáo dục hợp lí nhất. GVCN cũng cần báo
cáo với Ban giám hiệu những kế hoạch của lớp trong năm học để Ban giám hiệu
nắm bắt được và có những chỉ đạo hợp lí.
Phối hợp với gia đình học sinh: giáo viên chủ nhiệm lớp thường xuyên
có mối liên hệ và phối hợp với gia đình học sinh thơng qua một số biện pháp
chủ yếu sau:
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp cần nắm được đầy đủ tên tuổi, nghề nghiệp, quê
quán, nơi ở, đặc điểm gia đình của từng gia đình học sinh để hiểu từng học sinh
hơn và khi cần thiết có thể đến nhà học sinh thăm hỏi, động viên, hoặc gặp trực
tiếp phụ huynh để bàn về việc học tập, rèn luyện đạo đức và tư vấn cho các em
chọn đúng ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu
cầu của xã hội của con em họ.
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp cũng cần phải nắm được số điện thoại và mạng
xã hội của từng phụ huynh học sinh để việc trao đổi, thông tin về về việc học
tập, rèn luyện đạo đức và tư vấn cho các em chọn đúng ngành, nghề theo sở
thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội của con em họ
được thường xuyên và dễ dàng hơn.
+ Giáo viên chủ nhiệm cũng cần thường xuyên đến thăm gia đình học sinh,
đặc biệt là những gia đình học sinh có hồn cảnh khó khăn. (Phụ lục 1, ảnh
GVCN thăm gia đình học sinh). Trong các buổi đến thăm gia đình học sinh như
vậy nên có thêm một hoặc hai thành viên là ban cán sự lớp cùng đi. Đây là một

trong những cách làm mà tôi thấy rất hiệu quả. Vì sau mỗi chuyến đi thăm như
vậy những em được cơ giáo đến thăm dường như tích cực hơn, chăm ngoan
hơn. Giáo viên chủ nhiệm cũng hiểu và chia sẻ với các em những khó khăn
trong cuộc sống và có thể kêu gọi sự trợ giúp của những nhà hảo tâm, các tổ
chức xã hội để giúp đỡ các em. Năm học 2018-2019, thông qua các mối quan hệ
tôi đã xin được một xuất học bổng mười triệu đồng của cô Đặng Thị Thanh Hà
10


(Hà Nội) gúp đỡ cho em Vi Thị Hà ở lớp tôi chủ nhiệm đã giúp đỡ phần nào cho
em Hà trong học tập.
Phối hợp với xã hội: giáo viên chủ nhiệm lớp thường xuyên liên hệ và phối
hợp chính quyền địa phương; Phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đồn thể trên
địa bàn như Cơng an, Giao thơng, Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu Chiến binh, Hội
Khuyến học, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên xã và các tổ chức có liên quan trong
việc giáo dục học sinh trong và ngoài nhà trường. Đặc biệt phối hợp với lực
lượng Công an giao thông để tuyên truyền và giáo dục học sinh thực hiện tốt
việc tuân thủ luật lệ giao thông. (Phụ lục 2: HS trường THPT Quan Sơn tham
gia tiếp sức mùa thi và thực hiện an toàn giao thông cổng tường học).
III.3. Phối hợp với giáo viên bộ môn
Trong trường THPT, cùng với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn là
người trực tiếp tiếp xúc, giảng dạy học sinh của lớp. Vì vậy, việc phối hợp với
giáo viên bộ mơn để nắm được tình hình học tập của từng học sinh để đưa ra
phương pháp giáo dục hợp lí là vơ cùng cần thiết và quan trọng. Để phối hợp tốt
với giáo viên bộ môn trong việc giáo dục học sinh, người giáo viên chủ nhiệm
lớp cần thực hiện tốt những điều sau:
Thứ nhất, cần nắm được danh sách giáo viên bộ mơn giảng dạy lớp mình
về môn dạy, họ tên, số điện thoại, nơi ở để khi cần có thể liên lạc được ngay với
giáo viên bộ mơn đó.
Thứ hai, cần thường xun, chủ động gặp gỡ giáo viên của từng bộ mơn để

nắm về tình hình học tập của từng học sinh và tình hình học tập chung của lớp
để có những điều chỉnh phương pháp giáo dục hợp lí.
Thứ ba, cần lắng nghe những ý kiến nhận xét, đóng góp của giáo viên bộ
mơn về biện pháp giáo dục của mình và về tình hình học tập của học sinh lớp
mình. Khi thấy cần thiết, có thể góp ý cho giáo viên bộ mơn những điều chỉnh
hợp lí từ những phản ánh của học sinh và phụ huynh.
III.4. Phối hợp với ban cán sự lớp
Trong q trình thực hiện cơng tác chủ nhiệm, GVCN cần phải phối hợp
thật tốt với ban cán sự lớp, tùy vào sĩ số học sinh mỗi lớp mà giáo viên chia lớp
ra thành từng tổ cho dễ quản lí. Thông thường mỗi lớp được chia làm 04 tổ với
số thành viên trong tổ tương đương nhau. Trong mỗi tổ có một tổ trưởng quản lí
tổ của mình về mọi mặt. Để nâng cao chất lượng giáo dục, giáo viên chủ nhiệm
nên cho học sinh theo dõi chéo giữa các tổ với nhau theo hình thức mỗi tổ trong
lớp là một tổ trực tuần.
Tổ trực tuần sẽ làm nhiệm vụ thống kê cụ thể mọi hoạt động của lớp và sau
đó đến buổi sinh hoạt lớp, tổ trưởng tổ trực tuần sẽ thay mặt tổ lên đọc nhận xét
về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức của lớp qua sự theo dõi của tổ mình. Với
những tổ trực tuần làm tốt cơng việc của mình giáo viên cần khen ngợi kịp thời
11


cũng như cần nghiêm túc phê bình những tổ trực tuần làm không tốt. Những học
sinh vi phạm nội quy, quy định của nhà trường sẽ được tổ trực tuần ghi vào biên
bản trực tuần và phân công lao động cho lớp vào tuần kế tiếp. Sổ trực tuần sẽ là
căn cứ để giáo viên chủ nhiệm xếp loại hạnh kiểm đạo đức theo từng kì và cả
năm học. (Phụ lục 3: Biên bản trực tuần)
III. 5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tham quan di tích lịch sử
Đây là một trong những biên pháp khá táo bạo của tôi, và tôi nhận thấy
biện pháp này nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Để thực hiện được các
hoạt động ngoại khóa, trước hết GVCN phải báo kế hoạch chi tiết với ban giám

hiệu và phối hợp tốt với hội cha mẹ học sinh. Địa điểm tham quan hoạt động
ngoại khóa là các di tích lịch sử như Thành Nhà Hồ, khu di tích Lam Kinh, quê
Bác, trường Đại học Vinh. GVCN cùng với hội cha mẹ học sinh chuẩn bị chu
đáo mọi việc như thuê xe đi lại, liên hệ điểm ăn nghỉ, nơi tham quan học tập, chi
phí cho chuyến đi… Đặc biệt hoạt động này cần có sự tham gia của đại diện hội
cha mẹ học sinh và có thể mời thêm một số thầy cô giáo bộ môn của lớp cũng
như các thầy cơ trong Ban chấp hàn Đồn trường cùng tham gia.
Khi tôi thực hiện biện pháp này trong công tác chủ nhiệm tơi được sự hỗ
trợ rất lớn từ phía các bậc phụ huynh vì khi được tham gia trải nghiệm cùng các
con, phụ huynh đã thấy được sự hữu ích khi cho các con được học tập trải
nghiệm cùng các bạn. Đặc biệt, khi HS được tham quan trải nghiệm ở một môi
trường mới là trường đại học Vinh đã giúp các em có thêm động lực trong học
tập, được đến những nơi mà các em mới được nghe qua bài giảng. (Phụ lục 4:
Học sinh học tập trải nghiệm).
Tuy nhiên, biện pháp này của tơi cũng cịn gặp một số khó khăn như việc
đi lại của HS, kinh phí thực hiện… nên việc áp dụng chỉ có thể thực hiện ở
những lớp mà GVCN thực sự chú ý đến HS, có sự hỗ trợ của hội cha mẹ HS.
III. 6. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những học
sinh này đa số gây khơng ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm, đơi khi họ rất
mệt mỏi vì nói hồi mà các em khơng nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các
em sẽ thu mình lại hoặc phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này khơng
những khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm mà cịn có thể ảnh hưởng đến chuyện
thi đua của cả lớp nữa.
Giáo viên chủ nhiệm lớp thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện
do HS gây ra. Đối với những học sinh yếu kém thì GVCN chỉ có thể khuyên
bảo hoặc dạy kèm ngoài giờ. Đối với học sinh cá biệt về đạo đức thì GVCN
thường răn đe, xử phạt, thậm chí cịn hù dọa. Nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả
tức thời, rồi đâu lại vào đó, HS vẫn trở lại như cũ vì do giáo viên chủ nhiệm lớp
12



không hiểu được nguyên nhân sâu xa xuất phát từ tâm lý của HS. Cũng có giáo
viên chủ nhiệm lớp mời phụ huynh đến để thơng báo về tình trạng của HS với
mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn,
có phụ huynh thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh
con trước mặt giáo viên rồi dẫn con về cho nghỉ học ln vì cảm thấy xấu hổ.
Điều này đã cho thấy chính phụ huynh cũng bất lực trước con mình...
Khơng phải tự nhiên mà HS trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của các vết
thương tâm lý mà vơ tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ
lúc sống trong mơi trường gia đình cũng như ở trường học.
Vậy giải pháp nào để giáo dục những học sinh cá biệt này?
Trước hết, về phía bản thân người giáo viên chủ nhiệm. Giáo dục học sinh
cá biệt, người giáo viên chủ nhiệm lớp cần dành cho các em một tình u
thương thực sự, thậm chí là cần nhiều hơn những học sinh bình thường khác,
cần kiên trì cố gắng động viên, giảng giải, phân tích những điều hay, lẽ phải để
giúp học sinh hiểu được phải làm gì và từ đó cố gắng vươn lên; sự giúp đỡ tận
tình học sinh trong học hành, lối sống. Cố gắng trở thành người bạn để học sinh
đó tâm sự, là người anh, người chị, người mẹ thứ hai mẫu mực để học sinh đó
noi theo. Giáo viên chủ nhiệm lớp nên thường xuyên có những buổi nói chuyện
với các em kể cả gặp trực tiếp hay qua điện thoại, gửi Email,... để hiểu các em
hơn và cũng là để phân tích cho các em sâu hơn thế nào là một học sinh ngoan,
thế nào là một học sinh tốt...
Thứ hai, trong tập thể lớp giáo viên chủ nhiệm lớp cần duy trì thật tốt nề
nếp kỷ cương của lớp, của trường để mọi học sinh tự nhận thức, tự khép mình
trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao
đổi, thỏa sức đóng góp. Giáo viên chủ nhiệm lớp cũng cần nghiêm khắc, công
bằng, thưởng phạt nghiêm minh. Đối với những học sinh cá biệt, những lỗi lầm
của các em mắc phải không thể bỏ qua và vẫn xử lí bình thường như những học
sinh khác như bỏ tiết học, nghỉ học không phép lần đầu cho làm bản kiểm điểm,

lần hai khiển trách trước lớp, lần ba mời phụ huynh và thông báo lên Ban giám
hiệu nhà trường,... tuy nhiên với những cố gắng hay những thành tích, những
việc tốt mà các em đã làm được người giáo viên chủ nhiệm cũng cần khéo léo
động viên trước tập thể lớp để các em có động lực phấn đấu vươn lên.
Thứ ba, Giáo viên chủ nhiệm lớp cần thường xuyên báo cáo với Ban giám
hiệu nhà trường về tình hình học sinh cá biệt của lớp mình để nhà trường nắm
được từ đó đưa ra phương pháp giáo dục hợp lí.

13


Thứ tư, cần phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình học sinh. Giáo
viên chủ nhiệm lớp cần thường xun thơng báo với gia đình học sinh về tình
hình học tập rèn luyện đạo đức của con em mình khi học sinh đó có biểu hiện
khơng tốt cũng như khi học sinh đó có những biểu hiện tiến bộ. Trong việc giáo
dục học sinh cá biệt, phối hợp với gia đình học sinh khơng chỉ là mời phụ huynh
học sinh đó đến trường rồi thơng báo kết quả học tập, rèn luyện của con em họ
mỗi khi có sự việc gì học sinh đó gây ra mà nên xem việc gặp gỡ, trao đổi với
cha mẹ học sinh là chuyện bình thường. Hơn nữa, để giáo dục học sinh đó được
tốt hơn, giáo viên chủ nhiệm cũng nên chủ động tới thăm nhà các em, gặp các
thành viên trong gia đình động viên họ quan tâm nhiều hơn nữa tới các em.
Thứ năm, Giáo viên chủ nhiệm lớp cũng cần phối hợp chặt chẽ với giáo
viên bộ môn, các đoàn thể xã hội khác để cùng phối hợp, thống nhất nội dung,
mục đích, biện pháp giáo dục học sinh trong trường và xã hội.
III.7. Giáo dục đạo đức HS và tư vấn nghề nghiệp cho các em thông qua
sinh hoạt 15 phút đầu giờ và tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần
Theo qui định của nhà trường học sinh phải có mặt trước 15 phút đầu giờ
của mỗi buổi học để ổn định lớp, cán sự bộ môn giải bài tập, nếu buổi học nào
khơng có bài tập thì các em hát những bài hát ca ngợi đất nước, ca ngợi quê
hương, ca ngợi Đảng, Đoàn… Cũng trong 15 phút sinh hoạt đầu giờ này giáo

viên chủ nhiệm uốn nắn, nhắc nhở kịp thời những học sinh vi phạm nội quy
như: Đi học trễ, không mang phù hiệu, không mặc đồng phục, đi vào lớp phải
nhẹ nhàng, không gây tiếng ồn… Cách nhắc nhở phải nhẹ nhàng, không được
có những lời lẽ xúc phạm các em. Ví dụ các em nữ không mặt áo dài, hoặc váy
áo dân tộc thì giáo viên chủ nhiệm nên nói cho các em biết, việc mặc áo dài, váy
áo dân tộc trước hết là để bảo tồn văn hóa của dân tộc, là nét đẹp, là niềm tự hào
của người phụ nữ Việt Nam. Tà áo dài là nguồn cảm hứng cho rất nhiều bài thơ
ra đời. Váy áo dân tộc Thái hay Mơng là để góp phần gìn giữ nét văn hóa truyền
thống của dân tộc mình.
Có nhiều em đi vào lớp mang dép gây tiếng ồn giáo viên chủ nhiệm nhắc
lại bài học đạo đức đầu tiên mà các em đã học từ lớp 1 "là một học sinh ngoan
các em đi vào lớp nhẹ nhàng và các em càng ngoan hơn nếu các em thuộc bài và
hiểu bài", đồng thời tuyên dương kịp thời những em học tốt và thực hiện nội qui
tốt.
Còn trong tiết chủ nhiệm giáo viên chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để
tổng kết tình hình học tập, rèn luyện đạo đức... của lớp; 30 phút còn lại tổ chức
cho học sinh sinh hoạt, giáo dục đạo đức và tư vấn cho các em chọn đúng
ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã
hội. Mỗi tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản.
14


Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của
cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đầu bài, phiếu cờ đỏ của
Đoàn trường, các GVBM, GVCN nhận xét, đánh giá từng học sinh. GVCN luôn
luôn nhắc nhở và động viên tinh thần các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng
hơn. GVCN phải thật sự gắn bó, quan tâm tới lớp mới nắm rõ đặc điểm tâm
sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết quả học tập, năng khiếu, tính
cách của mỗi học sinh mà GVCN góp ý kiến với từng học sinh về việc lựa chọn
nghề nghiệp cho mình thật phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã

hội.
Qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, người giáo viên chủ nhiệm lớp cần kết hợp
dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người, biết
vượt khó trong học tập, trong cuộc sống. Như kể chuyện cho các em nghe
truyền thống hiếu học của nhà trường, những tấm gương học sinh nghèo vượt
khó như em Vi Thị Hà thuộc diện hộ nghèo, bố mẹ khơng có công việc ổn định,
luôn phải đi làm thuê ở thành phố, ở nhà có ba chị em, Hà là con cả, bản thân lại
bị tàn tật nhưng Hà luôn học giỏi và chăm lo cho các em thay bố mẹ.
Để thể hiện sự quan tâm tới người khác GVCN phải có những hành động
đẹp để học sinh noi theo như những em học sinh nào trong lớp có hồn cảnh
khó khăn thì GVCN vận động các em trong lớp đóng góp, ủng hộ và GVCN
cũng phải ủng hộ. GVCN với vai trị là người anh, người chị ngày tết có thể
tặng cho em một chiếc áo trắng. Khi GVCN làm đề kiểm tra cho lớp mình chủ
nhiệm cũng khơng nên thu tiền. Những hành động đó của GVCN tuy nhỏ nhưng
có tính giáo dục to lớn đối với học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm cần phải linh hoạt chứ không nên chỉ là những lời nói
lí lẽ, lí thuyết đều đều. Để giáo dục đạo đức học sinh đạt được hiệu quả cao
nhất, đạt tới "chân thiện mỹ", người giáo viên chủ nhiệm cần biết kết hợp nhiều
những phương pháp giáo dục khác nhau như: phân tích cho các em hiểu về cách
sống, cách làm người, kính già mến trẻ. GVCN có thể đọc một bài thơ hoặc hát
một bài hát về ông bà cha mẹ như bài thơ “Nhớ ông” của Nguyễn Ngọc Hưng,
bài hát “Mẹ yêu” của Phương Uyên hoặc tổ chức đóng kịch tình huống để các
em bày tỏ quan điểm của cá nhân mình, tổ chức trị chơi, các buổi diễn đàn, hội
thảo nhỏ,...
Cũng trong tiết sinh hoạt cuối tuần, thông qua các thông tin đại chúng giáo
viên chủ nhiệm phải cập nhập thường xuyên các ngành, nghề nào mà xã hội
đang cần để thông báo kịp thời cho các em biết mà chọn học nhưng phải phù
hợp với năng lực của mình để sau khi tốt nghiệp ra trường sẽ có cơ hội tìm việc
làm. Ví dụ một số ngành hiện nay xã hội đang cần như điện tử - viễn thơng, cơ
khí - luyện kim, Giao thông vận tải - Thủy lợi, Dệt - May - Giày da, Nhựa - Bao

bì, Mộc - Mỹ nghệ, Chế biến thực phẩm, Quản lý điều hành, nhân sự, Xây dựng
15


- Kiến trúc, Dược, Công nghệ sinh học… Hoặc một số nghề phù hợp với khả
năng của các em cũng như nhu cầu ở địa phương như nghề làm tóc, chăm sóc
da, nấu ăn…
Để có một việc làm tốt sau này, các em không nên đua theo các ngành
nghề “cao sang” mà nên chọn nghề phù hợp với năng lực của mình. Vì có phù
hợp với khả năng của mình thì mình mới có thể học giỏi. Vì có thích thì mới
học tốt và hẳn nhiên cơ hội việc làm sau tốt nghiệp ln dành cho những ai có
kết quả học tập tốt nhất. Để các em học tốt và thi đậu vào ngành, nghề mình đã
chọn. GVCN phải ln luôn động viên các em ra sức học tập, các em sẽ tự tin,
hy vọng mình sẽ đậu vào ngành, nghề mình đã chọn. Trong mỗi tiết sinh hoạt
như vậy ln phải có biên bản sinh hoạt lớp. (Phụ luc 5: Biên bản sinh hoạt
lớp).
III.8. Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS
Ngay từ đầu năm học, GVCN phải thơng qua HS tiêu chí đánh giá xếp loại
hạnh kiểm học sinh và lấy ý kiến đóng góp của HS để đi đến nội dung thống
nhất. Sau đó sẽ được thông qua trong buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm để phụ
huynh cũng nắm được những tiêu chí để xếp loại hạnh kiểm học sinh với nội
dung như sau:
a. Loại tốt
Ln kính trọng người trên, thầy giáo, cô giáo, cán bộ và nhân viên nhà
trường; thương yêu và giúp đỡ các em nhỏ tuổi; có ý thức xây dựng tập thể,
đoàn kết với các bạn, được các bạn tin yêu.
Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sáng, lành mạnh,
trung thực, giản dị, khiêm tốn, hịa nhã.
Hồn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập, cố gắng vươn lên trong học tập.
Thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành tốt luật pháp, quy

định về trật tự, an toàn xã hội, an toàn giao thơng; tích cực tham gia đấu tranh,
phịng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và tiêu cực trong học tập, kiểm tra, thi cử.
Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ mơi trường.
Tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục quy định trong Kế hoạch giáo
dục, các hoạt động chính trị, xã hội do nhà trường tổ chức, tích cực tham gia các
hoạt động của Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chăm lo giúp đỡ gia
đình.
b. Loại khá: thực hiện được những quy định của loại tốtnhưng chưa đạt đến
mức của loại tốt, đơi khi có thiếu sót nhưng sửa chữa ngay khi thầy giáo, cơ
giáo và các bạn góp ý.
c. Loại trung bình: có một số khuyết điểm trong việc thực hiện các quy định
của loại tốt nhưng mức độ chưa nghiêm trọng, sau khi được nhắc nhở, giáo dục
đã tiếp thu sửa chữa nhưng tiến bộ còn chậm.
16


d. Loại yếu: nếu có một trong những khuyết điểm sau đây:
Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong việc
thực hiện quy định tại khoản a, được giáo dục nhưng chưa sửa chữa.
Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên,
nhân viên nhà trường, đánh nhau, gây rối trật tự, trị an trong nhà trường hoặc
ngoài xã hội.
Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, thường xuyên bỏ tiết.
Vào cuối học kỳ I và cuối học kỳ II, GVCN cần đưa ra một phiếu đánh giá
xếp loại hạnh kiểm cho học sinh để các em có thể đánh giá xếp loại các bạn
trong lớp, đồng thời tự đánh giá xếp loại cho bản thân mình. GVCN sẽ là người
tổng hợp kết quả và dựa vào quá trình theo dõi học sinh trong cả kỳ học, năm
học để có thể đánh giá, xếp loại hạnh kiểm học sinh một cách khách quan nhất.
(Phụ lục 6: Phiếu tự nhận xét, đánh giá hạnh kiểm bản thân).
IV. Kết quả

Sau khi thực hiện những biện pháp trên với các lớp mà tơi đã chủ nhiệm
trong các khóa học 2016-2019 và khóa học hiện nay tôi đang chủ nhiệm 20192022 ở trường THPT Quan Sơn đã đạt được một số kết quả khả quan.
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã
đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực
hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp
GVCN khơng cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Đây là một trong
những nhân tố quyết định thành tích lớp đạt được.
Giáo viên chủ nhiệm lớp đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm trong việc
phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường có hiệu quả về
cơng tác giáo dục đạo đức cho HS yếu kém, học sinh cá biệt và loại bỏ được
nguy cơ bỏ học giữa chừng như em Lương Kiều Oanh lớp 10A1 năm học 2016
- 2017 là học sinh có hồn cảnh đặc biệt, bố mẹ ly thân, em ở với ông bà ngoại
đã già yếu. Oanh muốn bỏ học để đi làm kiếm tiền khi em mới 16 tuổi. GVCN
đã gần gũi, động viên và liên lạc với mẹ của em để giúp em ổn định việc học.
Đến nay, sau khi em tốt nghệp lớp 12, em đã học được nghề làm tóc và tự kiếm
tiền để trang trải cuộc sống. Mỗi lần có dịp em nghé về quê đều đến thăm cô
giáo chủ nhiệm thật ấm áp.
Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt
lớp giúp HS luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong học tập và
cuộc sống.
Đa số các em đã chọn đúng ngành, theo sở thích, phù hợp với năng lực của
bản thân và nhu cầu của xã hội. Có nhiều em đậu vào các trường đại học như
đại học Kiến trúc, đại học Khoa học xã hội và nhân văn, đại học Hồng Đức,
Học viện cơng nghệ bưu chính viễn thơng, Đại học Điện lực… Có những em đã
đi học nghề và đã tự lo được cuộc sống của mình… có những em chọn con
đường xuất khẩu lao động, du học, vừa học vừa làm… và một số em trở về quê
làm kinh tế trên ngay mảnh vườn của gia đình mình…
17



* Về kết quả học tập, rèn luyện đạo đức của các lớp như sau:
1. Lớp 12A1 năm học 2018 - 2019
- Về học tập:
+ Học lực Giỏi: 04/36 học sinh đạt 11,1%
+ Học lực Khá: 23/36 học sinh đạt 63,9%
+ Học lực TB: 9/ 36 học sinh đạt 25,0%
- Về hạnh kiểm:
+ Hạnh kiểm Tốt: 36/36 học sinh đạt 100%
- Về kết quả thi đua của lớp: Lớp 12A1 có điểm thi đua cả năm xếp thứ
2/19 lớp trong toàn trường, đạt danh hiệu lớp Xuất sắc.
- Về kết quả thi Tốt nghiệp THPT QG: Đậu tốt nghiệp 36/36 em, và cũng
là lớp duy nhất trong toàn trường đậu tốt nghiệp 100%.
- Về số HS đậu nguyện vọng 1 vào các trường đại học: 12/13 em tham gia
thi đại học.
- Về các kết quả khác: 09 em đi học nghề và hiện nay đã có việc làm ổn
định; 03 em đi xuất khẩu lao động; 05 em đi làm việc ở các nhà máy xí nghiệp,
07 em tham gia làm kinh tế tại địa phương.
2. Lớp 10A1 năm học 2019-2020
- Về học tập:
+ Học lực Giỏi: 01/30 học sinh đạt 3,3%
+ Học lực Khá: 18/30 học sinh đạt 60,0%
+ Học lực TB: 11/30 học sinh đạt 36,7%
- Về hạnh kiểm:
+ Hạnh kiểm Tốt: 27/30 học sinh đạt 90,0%
+ Hạnh kiểm Khá: 03/30 học sinh đạt 10,0%
- Về kết quả thi đua của lớp.
+ Kết quả thi đua cuối năm đạt danh hiệu lớp Xuất sắc.
+ Kết quả thi đua cả năm: xếp thứ 2/19 lớp.
3. Lớp 11A1 năm học 2020-2021
- Về học tập:

+ Học lực Giỏi: 02/31 học sinh đạt 6,5%
+ Học lực Khá: 26/31 học sinh đạt 83,8%
+ Học lực TB: 03/31 học sinh đạt 9,7%
- Về hạnh kiểm:
+ Hạnh kiểm Tốt: 27/31 học sinh đạt 87,1%
+ Hạnh kiểm Khá: 04/31 học sinh đạt 12,9%
- Về kết quả thi đua của lớp.
+ Kết quả thi đua cuối năm đạt danh hiệu lớp Xuất sắc.
+ Kết quả thi đua cả năm: xếp thứ 2/19 lớp.
Kết quả trên tuy chưa cao nhưng tơi nhận thấy đó là sự nỗ lực rất lớn của
đội ngũ thầy cô giáo của nhà trường được phân công giảng dạy tại lớp tôi chủ
nhiệm, và cũng là sự cố gắng rất lớn của bản thân các em học sinh. Cịn với tơi,
một GVCN tuy khơng phải là giáo viên bộ mơn chính nhưng tơi đã có những
18


định hướng đúng đắn giúp các em có được những thành quả ấy. Điều nói lên
thành cơng trong cơng tác chủ nhiệm của tơi ở khóa chủ nhiệm trước và khóa
chủ nhiệm hiện nay đó là dù các em ở đâu, hễ là ngày lễ tết tôi luôn nhận được
rất nhiều tình cảm của các em đó là những lời chúc mừng qua tin nhắn hoặc qua
điện thoại, hay các em đi đâu về cũng ghé về thăm tôi như người mẹ thứ hai của
các em vậy. Tôi nghĩ rằng đó chính là sự thành cơng của tơi trong cơng tác chủ
nhiệm, giáo dục đạo đức và định hướng tư vấn nghề nghiệp cho học sinh khi
các em đang ở ngưỡng cửa cuộc đời.

19


PHẦN III. KẾT LUẬN
Với sáng kiến kinh nghiệm này có thể ở nhiều trường, nhiều nơi các thầy

cô đã áp dụng, nhưng ở đơn vị trường THPT Quan Sơn, một số biện pháp, cách
làm của tôi được xem là mới mẻ, táo bạo. Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy
rằng giáo dục đạo đức học sinh và tư vấn cho các em chọn đúng ngành, nghề
theo sở thích, phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội thành
cơng hay thất bại cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên
áp dụng rập khn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục nào bởi lẽ sản
phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục tốt nhất, ta cần phải biết chọn điểm xuất
phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng học sinh,…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ
chức đoàn thể và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với Hội Cha
mẹ học sinh, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đồn thể
và nhân dân địa phương.
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà
chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là cán bộ
lớp đặc biệt là “lớp truởng”. Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người
giáo viên chủ nhiệm lớp phải là người có “tín”, có “tâm”, dám nghĩ, dám làm
trước, tập hợp được sức mạnh tổng hợp.
Thành công trong công tác chủ nhiệm không bao giờ là công lao của một
cá nhân mà là kết quả của tinh thần đoàn kết tập thể và cố gắng hết mình của
mỗi các nhân. Giáo viên chủ nhiệm phải vừa là “ông bầu”, vừa là đạo diễn vừa
là diễn viên trên mọi hoạt động của lớp mình chủ nhiệm để gắn kết, phát huy
sức mạnh tập thể ấy.
Giáo viên chủ nhiệm phải chân thành và khách quan: khen, chê, thưởng,
phạt nghiêm minh, kịp thời, đúng mức.
Giáo viên chủ nhiệm cũng luôn phải tự rút kinh nghiệm sau mỗi đợt thi
đua, mỗi hoạt động để học sinh có thể phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế,
nhược điểm cho những công việc sau thành cơng hơn. Phải ln có được sự
đồng thuận của cha mẹ học sinh. Không bao giờ được xem nhẹ nhân tố này khi
làm công tác chủ nhiệm lớp.

Điều cuối cùng và cũng vô cùng quan trọng là đừng bao giờ mất niềm tin
vào học sinh của mình, phải luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu để tìm
được tiếng nói chung với học sinh, hãy là bạn của các em trước khi là thầy của
các em.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tơi về q trình giáo dục đạo đức và tư
vấn cho các em chọn đúng ngành, nghề theo sở thích, phù hợp với năng lực của
bản thân và nhu cầu của xã hội cho học sinh của người giáo viên chủ nhiệm lớp.
Tôi nghĩ rằng những biện pháp trên mà tôi đã áp dụng có thể áp dụng cho nhiều
lớp trong nhà trường. Tuy nhiên, những kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm
của tôi cịn ít và mang tính chủ quan. Vậy kính mong các đồng nghiệp giúp đỡ
tôi để tôi đạt được kết quả tốt hơn trong công tác chủ nhiệm lớp./.
20


Mục Lục
PHẦN I. MỞ ĐẦU..............................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................................................2
IV. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................2

PHẦN II. NỘI DUNG........................................................................................4
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.............................................................................................4
1. Vị trí, vai trị của giáo viên chủ nhiệm và công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông.............4
2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm................................................................................................4
3. Những yếu tố cần có để trờ thành người giáo viên chủ nhiệm lớp tốt........................................5
II. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................................6
1. Tình hình chung về cơng tác chủ nhiệm của giáo viên ở trường phổ thơng................................6
2. Tình hình chung ở trường THPT Quan Sơn...................................................................................7
III. Các biện pháp của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức, định hướng và tư vấn

nghề nghiệp cho học sinh......................................................................................................................8
III.1. Lựa chọn ban cán sự lớp............................................................................................................8
III.2. Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội..........................................9
III.3. Phối hợp với giáo viên bộ môn................................................................................................11
III.4. Phối hợp với ban cán sự lớp....................................................................................................11
III. 5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tham quan di tích lịch sử...............................................12
III. 6. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt.......................................................................................12
III.7. Giáo dục đạo đức HS và tư vấn nghề nghiệp cho các em thông qua sinh hoạt 15 phút đầu
giờ và tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần.......................................................................................14
III.8. Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS................................................................16
IV. Kết quả.............................................................................................................................................17

PHẦN III. KẾT LUẬN.....................................................................................20

21


PHỤ LỤC

22


Phụ lục 1, ảnh GVCN thăm gia đình học sinh

Gia đình HS: Vi Thị Hà (Trung Xuân)

Gia đình HS: Hà Minh Tuấn (Trung Hạ)

Gia đình HS: Lị Thị Tế (Trung Tiến)
23



Phụ lục 2: HS trường THPT Quan Sơn tham gia tiếp sức mùa thi và thực hiện an
tồn giao thơng cổng tường học

24


Phụ lục 3: Biên bản trực tuần
BIÊN BẢN TRỰC TUẦN
Trường THPT QUAN SƠN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Lớp: …….
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tổ trực tuần:...........
Quan Sơn, ngày..... tháng......
năm......
BIÊN BẢN TRỰC TUẦN, TUẦN THỨ...... NĂM HỌC 20... - 20...
(Từ ngày.....tháng......năm...... đến ngày.....tháng......năm......)
I. Học sinh vi phạm nội quy
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
II. Học sinh được khen
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
III. Về học tập
Ưu điểm
........................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................

Nhược điểm
........................................................................................................................
................................................................................................................................
...............................................................................................................................
2. Về rèn luyện đạo đức.
Ưu điểm
........................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Nhược điểm
........................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
IV. Nhận xét chung
........................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Giáo viên chủ nhiệm
Lớp trưởng
Tổ trưởng
25


×