Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

skkn cua huyen 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.19 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐĂK GLEI. TRƯỜNG THCS ĐĂK PÉK -----------o0o-----------SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI:. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN TIẾT TRẢ BÀI VIẾT MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƯỜNG THCS.. Giáo viên: Trần Thị Huyền Tổ: Văn - Sử Đơn vị:Trường THCS Đăk Pét Đăk Pét ngày 21 tháng 10 năm 2012.

<span class='text_page_counter'>(2)</span>

<span class='text_page_counter'>(3)</span> MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN TIẾT TRẢ BÀI VIẾT MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƯỜNG THCS. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Công việc chấm bài và trả bài là một việc làm thường xuyên của người giáo viên nói chung. Đặc biệt với người giáo viên dạy môn Ngữ văn, đây là một công việc mà người dạy học có thể đánh giá mức độ thành thạo về kĩ năng, mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, qua đó mà giáo viên có thể phần nào tự đánh giá công việc dạy học của mình và có biện pháp điều chỉnh sao cho hợp lí, phù hợp với tình hình học tập của học sinh. Tuy nhiên không phải lúc nào công việc chấm bài và trả bài cũng được giáo viên quan tâm đúng mức. Trong thời gian tham gia hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cũng như trong thực tế giảng dạy, tôi thấy nhiều thầy cô giáo chưa quan tâm đến vấn đề này; thực ra việc chấm bài và trả bài chu đáo sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực cho công việc dạy học môn Ngữ văn. Trước đây trong các tài liệu chuyên môn cũng có nói đến vấn đề này nhưng mỗi tài liệu lại có những ý kiến khác nhau, ở các mức độ khác nhau và chưa thống nhất cụ thể gây trở ngại cho việc thực hiện tiết trả bài. Trong thực tế dạy học, nhiều thầy cô giáo cũng đã chọn cho mình giải pháp riêng nhưng nhìn chung, các giải pháp là không thống nhất. Đề tài này là sự quan tâm của bản thân tôi cũng như của nhiều đồng nghiệp về vấn đề nói trên nhằm đúc rút kinh nghiệm, đưa ra một giải pháp tối ưu trong việc thực hiện một tiết trả bài viết. Thực ra đây không phải là vấn đề mới, tuy nhiên xuất phát từ tình hình thực tế mỗi gv có những quan điểm khác nhau, có cách tổ chức khác nhau trong tiết trả bài nên việc đúc rút ra một qui trình chung MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN TIẾT TRẢ BÀI VIẾT MÔN NGỮ VĂN là điều cần thiết.. PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 2. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN : Trong hệ thống chương trình giáo dục phổ thông, chỉ có môn NV mới được bố trí tiết trả bài, trong một năm số tiết trả bài ở môn NV là từ 8 đến 9 tiếtkể cả tiết trả bài ở phân môn Văn và Tiếng Việt – đó là một thời lượng rất đáng kể đủ để nói lên tầm quan trọng của việc chấm và trả bài cho học sinh, nhất là ở các tiết trả bài viết thuộc phân môn Tập Làm Văn. Có thể nêu ra đây nhiều ý nghĩa của việc chấm bài và giờ trả bài: a.Về phía người giáo viên : - Đây là công việc lao động mà người dạy có thể đánh giá tình hình học tập của học sinh, sự tiến bộ của học sinh trong học môn Ngữ văn . - Thông qua chấm bài giáo viên có thể đánh giá kĩ năng của học sinh , mà đặc biệt là kĩ năng làm văn , kĩ năng viết văn - Thông qua việc chấm bài và trả bài giáo viên có thể giúp học sinh nhận ra những sai sót, những hạn chế của các em và giúp các em khắc phục trong những bài viết tiếp theo . - Qua việc chấm bài và trả bài, giáo viên có thể tự đánh giá quá trình dạy học của mình và có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy bộ môn Ngữ văn. - Lao động chấm bài là một việc làm có thể hiện nhiệt tình, trách nhiệm và tâm huyết của người thầy giáo đối với nghề nghiệp cũng như đối với học sinh. - Có thể thấy cả tình cảm và cách ứng xử của thầy giáo đối với học sinh trong việc chấm baì và trả bài. Thậm chí có người đặt vấn đề nếu đó là bài làm của con em chúng ta thì liệu chúng ta có ghi những lời phê nặng nề hoặc phê phán những lỗi sai một cách gay gắt hay không ! - Theo tôi tính sư phạm và tính nhân văn của người dạy học môn Ngữ văn thể hiện rất rõ trong việc chấm bài và trả bài cho học sinh. b. Về phía học sinh : - Bài làm là thành quả lao động sáng tạo của học sinh. Các em mong đến giờ trả bài để được biết thầy cô giáo đã đánh giá bài làm của mình như thế nào. Cho nên cũng dễ hiểu khi giờ trả bài là một trong những giờ học được các em trông đợi nhất, kể cả các em thường có mức điểm không cao cũng có tâm lí như thế. - Qua việc phân tích lỗi sai trong bài làm, học sinh có thể tự điều chỉnh và rút ra nhiều kinh nghiệm trong học tập nhằm đạt đến sự tiến bộ trong học tập bộ môn Ngữ Văn. - Điểm số cũng là điều quan trọng đối với các em. Học sinh mong đến giờ trả bài để biết mình được bao nhiêu điểm, mà đối với học sinh thì điểm số là điều rất có ý nghĩa trong việc học tập. Đôi khi việc cho điểm của thầy cô giáo cũng làm thay đổi tinh thần và thái độ học tập của học sinh. 2. 2 Thực trạng của vấn đề.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Thực tế của quá trình dạy học ở trường THCS cho thấy, các em học sinh, kể cả các em học sinh khối lớp 9, vẫn chưa thực sự nắm được các quy tắc về chính tả, vẫn mắc phải nhiều lỗi chính tả trong các bài kiểm tra của mình, kể cả những lỗi hết sức thông thường, giản đơn. Việc mắc các lỗi chính tả này là do thói quen sử dụng ngôn ngữ của học sinh nhất là với học sinh trên địa bàn xã Đăk Pét nói riêng và huyện Đăk Glei nói chung, các em sử dụng tiếng mẹ đẻ nhiều, ít sử dựng tiếng Kinh dẫn đến việc hiểu nghĩa của từ và cấu tạo ngữ pháp.... quả là khó khăn nên nó làm cho nội dung diễn đạt không được trọn vẹn. Đôi khi nó còn gây hiểu nhầm cho người đọc và gây cảm giác khó chịu, mệt mỏi cho người chấm bài… Từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả học tập nói chung của người học. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này có thể lí giải bằng những cách khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học. Trong quá trình học tập, học sinh dễ tiếp xúc với nhiều phương ngữ khác nhau do đặc điểm phức tạp của tình hình dân cư. Từ đó tạo cho các em nhiều thói quen ngôn ngữ không tốt. Các em ít phân biệt được sự khác nhau giữa ngôn ngữ của đời sống hằng ngày với ngôn ngữ khoa học nên tuỳ tiện trong cách sử dụng. Cũng có thể lỗi này một phần do giáo viên. Một số giáo viên, đặc biệt là giáo viên tiểu học, ngay từ đầu đã không chú trọng đúng mức tới việc rèn luyện ngôn ngữ của học sinh, giáo viên nói và viết chưa đúng chuẩn làm cho học sinh bắt chước, học theo và trở thành một thuộc tính cố hữu trong tư duy của các em. Vì vậy khi đánh giá thực trạng của vấn đề, chúng ta phải trung thực và thẳng thắn nhìn nhận vấn đề để từ đó có thể tìm ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả. 2.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN : Tuy nhiên trong thực tế, nhiều giáo viên chưa ý thức được sâu sắc vai trò của giờ trả bài làm văn với ý nghĩa cần và vốn có của nó. Nhiều giờ trả bài chưa đạt hiệu quả về nhiều mặt cả về chuyên môn, về qui trình, về tâm lí …cụ thể như sau : - Việc chuẩn bị cho giờ trả bài chưa chu đáo. Sự thiếu chu đáo đó bắt đầu từ khâu chấm bài đến việc tổ chức tiết trả bài trên lớp. - Nhiều thầy cô giáo chấm bài chỉ ghi điểm số bài làm mà không có những nhận xét, sửa chữa cần thiết, hoặc nhận xét chung chung không giúp được học sinh yếu nhận ra lỗi của mình. Đồng thời cũng có những thầy cô chấm bài viết của học sinh với thái độ bực dọc, thiếu trân trọng. Theo tôi, cả hai khuynh hướng ấy đều nên tránh..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Nhiều khi chúng ta không coi tiết trả bài là một tiết học thực sự nên việc thực hiện các qui trình vẫn còn nhiều hạn chế thậm chí là không có một qui trình mang tính khoa học và sư phạm. - Giờ trả bài nhiều khi thu gọn vào việc làm dàn bài mẫu. Có khi giáo viên dành hết thời gian của tiết trả bài vào việc hướng dẫn dàn bài mà quên đi các yêu cầu khác quan trọng hơn. - Về qui trình tổ chức hoạt động trong tiết trả bài cũng có nhiều vấn đề cần bàn. Tìm ra tiếng nói chung đôi khi cũng rất khó, thậm chí là những tranh cãi không có hồi kết. - Có khi giờ trả bài chỉ là những giây phút căng thẳng chờ đợi để biết điểm số bài làm để rồi sau đó là một không khí ồn ào, phân tán trong lớp học. - Những giờ học như thế học sinh không thu hoạch được bao nhiêu kiến thức và những điều bổ ích cho những bài viết tiếp theo. Từ thực tế đó, chúng tôi đã đúc rút kinh nghiệm và nêu lên qui trình “Tổ chức thực hiện tiết trả bài viết môn Ngữ Văn” sao cho có hiệu quả. Phạm vi đề tài này chỉ nói đến Tổ chức thực hiện tiết trả bài viết ở môn Tập làm văn. Tuy nhiên, nói đến trả bài là phải nói đến chấm bài và ghi điểm, thiết nghĩ đó cũng không phải là các nội dung ngoài đề tài này. 2.4 Biện pháp tiến hành Cũng cần nói thêm rằng tiết trả bài là một tiết học nên nó cũng phải đảm bảo các yêu cầu của một tiết học theo hướng đổi mới, tích cực. Cụ thể là phải đảm bảo các nguyên tắc : - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh. - Tổ chức các hoạt động nhóm. - Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn. - Thể hiện tính tích hợp giữa các phân môn. Mỗi thầy cô giáo dạy học môn Ngữ Văn cần ý thức được rằng giờ trả bài là một giờ học sinh động và có tác dụng nhiều mặt. Đây là giờ học được xây dựng thực sự từ lao động trực tiếp của học sinh, từ vốn liếng nhiều mặt của các em : vốn ngôn ngữ, vốn tri thức, vốn sống kết hợp với kĩ năng diễn đạt ở dạng văn bản viết. Qua giờ học này, các em dễ nhận ra mặt mạnh và yếu; mà nhất là mặt yếu, mặt hạn chế của mình để rút kinh nghiệm trong học tập và rèn luyện kĩ năng làm văn ngày một tiến bộ hơn. Như đã trình bày trên, muốn thực hiện tiết trả bài nghiêm túc, có hiệu quả về mặt chuyên môn, chúng ta phải bắt đầu từ bước chấm bài. a.. Việc chấm bài của giáo viên : a..1. Ý nghĩa của việc chấm bài : Chấm bài vừa là một nghệ thuật vừa là kĩ thuật : a. Nói đến nghệ thuật là nói đến cách chấm bài. Có người chấm nhanh nhưng.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> vẫn chính xác, có người chấm chậm, đọc kĩ mà vẫn đánh giá không đúng về bài làm của học sinh. Ngoài ra, còn là quan điểm, thái độ của nguời chấm đối với bài làm. b. Nói đến kĩ thuật là nói đến chuyên môn nghiệp vụ, tính khoa học trong việc chấm bài thể hiện qua đáp án, biểu điểm cụ thể, vì vậy đòi hỏi phải công bằng và chính xác không có sự sai lệch lớn trong cùng một lớp cũng như giữa các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn. Hiện tượng đánh giá không đúng bài làm của học sinh không phải là hiếm. Có khi chênh nhau trong cùng một thang điểm, có khi độ chênh lại vượt ra ngoài thang điểm. Thậm chí nhiều thầy cô giáo cho rằng độ chênh giữa các bài làm tương đương về chất lượng có thể lên đến 1 hoặc 2 điểm là điều có thể cho phép! Quan niệm dễ giải ấy dẫn đến việc tùy tiện trong chấm bài TLV của học sinh. Theo tôi, chúng ta phải dần dần thay đổi cách nghĩ như trên bởi vì thực chất đó là sự không công bằng, thiếu chính xác, thiếu khoa học và không tôn trọng thành quả lao động của học sinh, dẫn đến một số em mất niềm tin hoặc cho rằng thầy cô thiên vị để rồi nảy sinh tâm lý bất mãn, miễm cưỡng khi phải làm bài. Nhân đây, tôi cũng xin đúc rút một số việc cần làm sau đây để việc chấm bài được nghiêm túc, hiệu quả hơn : a.2. Các yêu cầu khi chấm bài : a. Trước hết cần phải xác định các tiêu chí đánh giá bài làm của học sinh. Tiêu chí này được xây dựng trên cơ sở yêu cầu của đề bài về nội dung kiến thức và rèn luyện kĩ năng viết văn bản, phương pháp làm bài, khả năng diễn đạt.... Sở dĩ phải xây dựng tiêu chí đánh giá cho từng bài TLV vì mỗi bài văn là một bước thể hiện yêu cầu giáo dục rèn luyện được chương trình hóa theo từng kiểu bài nhất định. Thực ra các tiêu chí này cũng đã được mỗi giáo viên xây dựng khi chấm bài nhưng có thể cách xây dựng từng tiêu chí, từng thang điểm ở mỗi thầy cô giáo là không thống nhất dẫn đến việc đánh giá học sinh có thể là không đồng đều ở cùng một trình độ. Việc thống nhất tiêu chí chấm bài (hướng dẫn chấm) có thể tránh được tình trạng chấm bài theo cảm tính. b. Khi chấm bài giáo viên cũng cần căn cứ vào những yếu tố phổ biến nhất của học sinh trong cùng một lớp để tiếp tục rèn luyện cho các em. Những yếu tố này được giáo viên bộ môn đúc kết qua các bài làm trước, nhờ đó mà giáo viên có thể thấy được sai sót phổ biến để tiếp tục sửa chữa không chỉ trong một bài làm mà cả trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó, mỗi bài làm cũng tập trung vào một số trọng điểm rèn luyện nhất định. Như vậy là bên cạnh việc chú ý lỗi phổ biến, ta cũng phải tập trung vào việc rèn luyện các yêu cầu kiến thức, kĩ năng cụ thể. c. Đối với từng bài làm cụ thể của học sinh, giáo viên lại phải theo dõi những.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> chỗ yếu nhất để tiếp tục uốn nắn, rèn luyện. Chấm một bài văn vừa là chấm theo yêu cầu chung cho cả lớp, đồng thời lại còn chú ý đến yêu cầu riêng ở từng học sinh. d. Về thái độ của giáo viên khi chấm bài : - Chấm bài văn không nên chấm theo kiểu thủ - vĩ nghĩa là chỉ đọc phần mở bài và kết bài để đánh giá và cho điểm. - Không nên chấm theo định kiến và ấn tượng với học sinh. Điều này dễ dẫn đến việc không thấy được sự tiến bộ của học sinh yếu, cái hay của học sinh trung bình- khá, sự chủ quan của học sinh khá - giỏi. - Không nên tỏ rõ sự chê bai trên bài làm học sinh. Thay vào đó là những lời nhận xét đánh giá, chỉ ra chỗ sai cụ thể. Có thể dùng kí hiệu đã được qui ước để nhắc nhở trực tiếp vào bài làm của học sinh để các em biết mình sai chỗ nào. Đồng thời những kí hiệu này cũng giúp cho giáo viên dễ dàng tổng hợp những sai sót để nhận xét, đánh giá chung về bài làm của cả lớp trong một lượt làm bài. e. Về lời phê : - Chấm bài xong phải ghi lời nhận xét cụ thể. Lời nhận xét phải thể hiện hai phần : khen và chê. Phải thấy được sai sót tiêu biểu nhất, phải thấy được các em có tiến bộ hay chưa để có hướng phấn đấu ở bài làm sau. - Lời phê trong bài làm phải ân cần, chu đáo, tế nhị và khuyến khích các em. - Tránh những lời nhận xét chung chung, ít bổ ích, chỉ mang tính xếp loại như: còn yếu, khá, thường, giỏi … - Tránh những lời phê thiếu trân trọng, thiếu tính khích lệ. * Có ý kiến cho rằng xem lời phê trên bài văn học sinh có thể thấy được người thầy dạy văn đó như thế nào- nói như vậy thiết nghĩ rằng không phải là quá lời. g. Về ghi điểm : Thường thì giáo viên có thể ghi điểm sau khi đã đọc, nhận xét tổng hợp về bài làm, có đối chiếu với những bài làm trước. Điểm số là kết quả cuối cùng của bài làm, của việc chấm bài. Điểm số tất nhiên phải tuân theo những tiêu chí đánh giá được đặt ra nhưng cũng cần xem xét theo tình hình chung của cả lớp và đặc thù của một số học sinh cần được quan tâm đúng mức. b. Tổ chức thực hiện tiết trả bài : Đây là phần trọng tâm của chuyên đề. Một giờ trả bài cũng cần được chuẩn bị chu đáo trên giáo án theo một tiến trình sư phạm cần thiết. Qua thực tế dạy học bộ môn, chúng tôi đúc rút qui trình tối ưu sau đây để tiết trả bài có thể đạt được hiệu quả cao nhất : b.1. Hoạt động 1 : Nêu những yêu cầu chính của bài làm : -Giáo viên chép đề lên bảng , gợi dẫn để học sinh làm tốt phần tìm hiểu đề cũng như tư tưởng, kĩ năng, phương pháp làm bài..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> b.2. Hoạt động 2 : Xây dựng dàn bài mẫu : - Giáo viên gợi dẫn để học sinh lập được dàn ý, thống nhát dàn ý - Có thể cho học sinh chép dàn bài mẫu để học tập, rút kinh nghiệm. b.3. Hoạt động 3 : Nhận xét -Giáo viên nên để học sinh tự nhận ra ưu khuyết điểm trong bài viết của mình rồi giáo viên mới nhận xét * Nhận xét chung Khi tổng kết về tình hình làm bài của học sinh cần nêu được : 1. Tinh thần, thái độ của học sinh khi làm bài. 2. Những ưu điểm và nhược điểm chính. 3. Những cá nhân đáng biểu dương. 4. Những hiện tượng đáng chú ý. 5. Kết quả chung của cả lớp và của cá nhân tiêu biểu. Khi tổ chức hoạt động này giáo viên nên có thái độ khen nhiều hơn chê. Nếu là chê cũng nên ân cần, nhẹ nhàng để các em học sinh yếu khỏi có mặc cảm về sự yếu kém của bản thân trong học tập bộ môn Ngữ Văn. b.4. Hoạt động 4:Trả bài cho học sinh : - Sau khi học sinh đã nắm được yêu cầu bài làm và sơ bộ đánh giá bài làm của mình, giáo viên mới trả bài cho học sinh. - Trước khi trả bài, giáo viên cũng cần chuẩn bị tư tưởng chung cho cả lớp. - Đây là bước mà học sinh nôn nóng nhất bởi tâm lí học sinh bao giờ cũng mong muốn biết điểm số của bài làm. - Sau khi trả bài, giáo viên nên dành thời gian cho học sinh đọc lại bài làm của mình cũng như của các bạn trong nhóm : xem lại những chỗ thầy cô giáo phê hoặc lưu ý bằng mực đỏ. Đây là công việc cần thiết để học sinh chuyển sang một hoạt động khác quan trọng hơn là sửa lỗi trong bài làm của mình, của bạn. b.5. Hoạt động 5 : Sửa lỗi điển hình : Đây là một trong những hoạt động quan trọng của tiết trả bài bởi mục đích cao nhất của giờ sửa bài là phát hiện và khắc phục tồn tại của bản thân học sinh trong làm văn và rút kinh nghiệm để sửa chữa trong các bài làm sau. Như trên chúng tôi đã trình bày, muốn sửa bài chu đáo thì ở khâu chấm bài, giáo viên phải chuẩn bị thật chu đáo, phải ghi chép thật cụ thể các lỗi tiêu biểu để việc định hướng sửa bài có hiệu quả hơn.. Việc sửa lỗi nên tập trung vào một số mặt sau đây : 1. Sai sót về nội dung và phương pháp làm bài : a. Lỗi lạc đề : chưa hiểu đề nên sai lạc về nội dung và phương pháp..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> b.Lỗi nội dung sơ sài: chưa xác định đúng trọng tâm yêu cầu bài làm hoặc xác định được trọng tâm song viết chưa sâu sắc, kĩ càng . 2. Sai sót về hình thức bài làm : a. Nhóm lỗi về dùng từ, lỗi chính tả. b. Nhóm lỗi về diễn đạt ý, viết câu văn, sai về ngữ nghĩa. c. Nhóm lỗi về đoạn văn, bố cục. d. Nhóm lỗi về trình bày bài làm ... Khi chữa bài giáo viên nên lập theo bảng sau để học sinh tiện theo dõi đối chiếu, chỉnh sửa Lỗi Nhóm lỗi về dùng từ, lỗi chính tả Nhóm lỗi về diễn đạt ý, viết câu văn, sai về ngữ nghĩa ................ Nguyên nhân. Sửa lại. Nguyên nhân mắc lỗi và cách chỉnh sửa các em đã học ở bài " Chữa lỗi dùng từ" trong chương trình lớp 6 và chữa lỗi diễn đạt ở lớp 7...... Giáo viên có thể gợi dẫn để học nhân ra và sửa lại cho đúng đồng thời rút kinh nghiệm cho bản thân mình khi nói và viết văn. Ví dụ: Ví dụ 1: Gv ghi câu lủng củng lên bảng. Học sinh đọc câu lủng củng . Trong nhà em có một người mà em rất yêu mến, đó là bà em rất kính yêu. Em có nhận xét gì về cách diễn đạt nội dung? ( diễn đạt nội dung rườm rà). Em có thể sửa như thế nào? ( Trong nhà em, bà là người thật đáng kính). Ví dụ 2: Đứng trước cảnh đẹp hùng vĩ của dãy núi Yên Phụ. Em cảm thấy trong lòng đang cố gắng đưa quê hương Kinh Môn giàu đẹp hơn. - Đoạn văn của em đã được chưa? Sai ở đâu? ( Chấm câu sai, sau từ "Yên Phụ" thay bằng dấu phẩy)..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Còn sai ở đâu nữa? (dùng từ chưa sát nghĩa " em cảm thấy..."). Cụm từ " em cảm thấy..." Cần phải thay bằng cụm từ nào cho sát nghĩa hơn? ( Cần phải thay bằng cụm từ: "em càng thêm yêu quê hương đất nước và quyết tâm học tốt để đưa quê hương Kinh Môn ngày một giàu đẹp hơn") Em hãy nhận xét câu đã được sửa và câu chưa sửa? . Giáo viên có thể thay đổi hình thức sửa bằng cách cho hai em đổi vở cho nhau để tìm ra lỗi sai kết hợp cùng giáo viên để tìm ra cách sửa sai. - Ngoài ra giáo viên còn đưa ra hoặc lồng ghép dạy mẹo chữa lỗi chính tả trong các tiết chương trình địa phương, phụ đạo để học sinh có kĩ năng viết đúng. Ví dụ:. 1. Các lỗi về dấu thanh: Lỗi này chủ yếu là lẫn lộn giữa dấu hỏi(?) và dấu ngã(~), đặc biệt phổ biến ở vùng Trung và Nam Bộ. Để chữa lỗi này, ta có thể dùng một số mẹo sau: a. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy. Đặc điểm nổi bật của từ láy tiếng Việt là luôn có sự tương ứng về thanh điệu. Các thanh điệu trong từ láy tiếng Việt bao giờ cũng cùng một nhóm. Người ta chia nhóm thanh điệu trong từ láy tiếng Việt như sau: Nhóm: huyền, ngã, nặng. Nhóm: sắc, hỏi, không. Có thể dễ dàng nhớ mẹo này như sau: “Chị huyền mang nặng ngã đau Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành” Theo mẹo này, khi gặp một tiếng, ta còn lưỡng lự không biết dấu gì thì ta thử tìm từ láy tương ứng với nó. + Nếu tiếng kia có dấu huyền hoặc nặng thì nó mang dấu ngã. Ví dụ: nũng nịu, rộng rãi, lộng lẫy. + Nếu tiếng kia có dấu không hoặc sắc thì nó mang dấu hỏi. Ví dụ: ngớ ngẩn, vớ vẩn, sáng sủa, nhỏ nhen….

<span class='text_page_counter'>(12)</span> b. Mẹo theo tiếng gốc cùng hay gần nghĩa: Các tiếng gốc cùng hay gần nghĩa với nhau sẽ mang dấu cùng nhóm với nhau. Ví dụ: cũng- cùng; dẫu-dầu; mõm-mòm….. c. Mẹo “ mình nên nhớ viết là dấu ngã” Đối với các từ Hán Việt, trong trường hợp phân vân nên viết dấu hỏi hay ngã ta làm như sau: + Nếu tiếng đó bắt đầu bằng một trong những âm trong câu trên đây như : m, n, l, d, ng, nh thì được viết dấu ngã. + Các trường hợp còn lại thì viết với dấu hỏi. Ví dụ: Với m: mãn cảm, mãnh liệt, mỹ lệ… Với n: nữ nhi, nỗ lực, noãn bào… Vói nh: nhẫn nại, nhãn quan, tham nhũng… Với v: uy vũ, vĩ đại, vãng lai, viễn thị… Với l: lữ khách, lễ độ, thành luỹ… Với d: dũng mãnh, hoang dã, kiều diễm… Với ng: bản ngã, ngoại ngữ, ngưỡng mộ… Có thể dễ dàng nhớ mẹo này như sau: Mình nên nhớ viết là dấu ngã.. Một số trường hợp ngoại lệ: không được viết phụ âm đầu là một trong bảy phụ âm nói trên nhưng vẫn được viết là dấu ngã như: phẫu thuật, linh cữu, tống tiễn, hoả tiễn, kĩ năng, bãi khoá, ấu trĩ, huyễn tưởng, hữu dụng, công quỹ, hỗn chiến, thực tiễn…. 2. Các lỗi về vần: a. Lỗi lẫn lộn iêu-iu-ưu: Chúng ta còn nhớ: vần iu chỉ xuất hiện trong một số từ ngữ như: líu lưỡi, bĩu môi, địu gạo, ỉu xìu, chịu chơi, chịu đựng….

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Ngoài ra, nó chỉ xuất hiện trong từ láy âm như: phụng phịu, đìu hiu, hắt hiu, dịu dàng… Đối với các từ Hán Việt thì bao giờ cũng có thể viết ưu hay iêu. Ví dụ: trìu tượng, bưu điện, hưu trí, lưu lạc, hiếu chiến, diễu hành, hiệu trưởng, quan liêu… b. Lỗi lẫn lộn iêu-ươu- ưu: Người miền Bắc hay lẫn lộn ươu và iêu. Người miền Nam hay lẫn lộn ươu với ưu. Để khắc phục lỗi này cần nhớ: + Vần ươu chỉ xuất hiện hạn chế trong các từ như: cái bướu, con hươu, chai rượu, con khướu. + Các từ Hán Việt không viết với vần ươu.. 3. Các lỗi về phụ âm đầu: a. Lẫn lộn L và N: Lỗi này phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ, ta có thể khắc phục lỗi này bằng cách sau: a.1. Mẹo láy âm: Khi ở vị trí thứ nhất trong một từ láy âm, L có thể láy với các âm đầu khác còn N thì không có khả năng này. Nếu gặp một tiếng mà ta còn phân vân thì ta hãy tạo một từ láy âm, nếu tiếng đó có thể đứng trước thì viết là L. Ví dụ: lắp bắp, lốm đốm, lờ đờ, lúi húi, loay hoay, la cà, lục cục, lò dò, liu điu… Khi tiếng đó đứng ở vị trí thứ hai, ta lại có quy tắc khác.. N láy âm với Gi và âm đầu Z còn L láy với các âm khác . Ví dụ: Lông bông, lảng bảng, chói lọi. Giẫy nẩy, gian nan, áy náy. a.2. Mẹo âm đệm: L có thể đứng trước âm đệm (O,U) còn N thì không thể..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> a.3 Mẹo đồng nghĩa: Khi nó đồng nghĩa với một tiếng khác viết với âm Nh thì được viết là L. Ví dụ: lài- nhài, lầm –nhầm, lanh- nhanh. b. Lẫn lộn Tr và Ch: Lỗi này phổ biến ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Ta chữa lỗi này bằng các cách sau: b.1 Mẹo láy âm: Trong tiếng Việt, Ch láy âm với các phụ âm khác trừ 4 ngoại lệ: trọc lóc, trụi lũi, trót lọt, trẹt lét. Như vậy, nếu gặp một tiếng mà ta còn phân vân giữa Tr và Ch mà có thể láy âm với các phụ âm khác thì đó là Ch. Ví dụ: chơi bời, cheo leo, chểnh mảng, lanh chanh, lổm chổm… b.2. Mẹo thanh điệu trong từ Hán Việt: Những từ Hán Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với Tr chứ không đi với Ch. Ví dụ: trịnh trọng, trị giá, truyền thống, phong trào… b.3. Mẹo đồng nghĩa: Khi còn phân vân một tiếng chưa biết viết Tr hay Ch, nếu thấy nó đồng nghĩa với một tiếng viết âm Gi thì tiếng đó viết với Tr. Ví dụ: tranh giành, tra-già , trùn –giun, trầu-giầu…. b.4. Mẹo nhóm nghĩa: + Mẹo cha-chú: Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết với Ch chứ không viết với Tr. Ví dụ: cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chút, chít,… + Mẹo chum-chạn: Các đồ dùng trong gia đình được viết với Ch chứ không viết với Tr. Ví dụ: cái chum, cái chạn, cái chai, chiếc chiếu, cái chổi..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Ngoại lệ: cái tráp. c. Lẫn lộn S và X: Lỗi này phổ biến ở vùng Bắc Bộ. c.1. Mẹo láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các âm đệm khác. S không có khả năng này. Ví dụ: bờm xờm, bung xung, lao xao, loà xoà, xích mích, xo ro… c.2. Mẹo kết hợp âm đệm: S không đi với 4 vần: oa, oã, oe, uê. Khi gặp 4 vần này thì viết là X. Ví dụ: xoa tay, xoay xở, tóc xoăn, xuề xoà. Ngoại lệ: soát trong, soát vé, kiểm soát. Soạn trong: soạn bài, sửa soạn. c.3. Mẹo nhóm nghĩa: Tên các thức ăn và các dụng cụ nấu ăn đều viết là X. Ví dụ: xôi, xa lát, xúc xích, cái xoong, cái xiên… Các từ còn lại viết là S. + Danh từ chỉ người: sư sãi, đại sứ. + Danh từ chỉ sự vật: sen, sim, sắn. + Danh từ chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, súc vải. + Danh từ chỉ các hiện tượng tự nhiên: sao, sương, sông, suối. Những nội dung trình bày ở trên là những mẹo nhỏ giúp chúng ta xác định ranh giới cho các từ và có cách chữa các lỗi sai một cách phù hợp. Khi hướng dẫn sửa lỗi nêu trên, giáo viên cần chuẩn bị các dẫn chứng cụ thể lấy từ bài làm của học sinh. Tránh nói chung chung thiếu tính cụ thể sẽ không có tác dụng sửa lỗi cho học sinh. Có thể tổ chức hoạt động nhóm nhỏ để học sinh cùng thảo luận, phát hiện và nêu hướng giải quyết. Sau khi giáo viên hướng dẫn sửa bài chung, cho học sinh trao đổi bài làm trong nhóm để cùng đọc và rút kinh nghiệm. Có thể cho các em chấm bài nhau,.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> cùng chỉ ra các sai sót trong bài làm và ghi vào phiếu học tập hoặc vở bài tập. Giáo viên cũng nên dành thời gian cho học sinh nêu lên những thắc mắc về bài làm của mình, của các bạn trong nhóm, kể cả những thắc mắc về điểm số. Giáo viên có thể chủ động đến với một vài em mà mình biết rằng những em đó có những vấn đề cần thắc mắc hay thất vọng. b.6. Hoạt động 6 : Đọc bài văn tiêu biểu : Có thể đọc một vài đoạn văn hay, nêu một vài ý hay hoặc đọc cả bài văn tiêu biểu tùy theo tình hình lớp học. Sau khi đọc, có thể cho học sinh nhận xét, đánh giá về bài văn, đoạn văn ấy để các em cùng học tập. Khi thực hiện hoạt động này, không nên tập trung vào một số học sinh giỏi của lớp mà còn chú ý vào cả những em trung bình, khá nhưng có tiến bộ trong làm bài để khuyến khích, động viên học sinh. - Nếu còn thời gian giáo viên nên đọc bài mẫu cho học sinh tham khảo. Giáo viên chủ động liên hệ mượn tài liệu tham khảo cho các em đọc và học theo. b.7. Hoạt động 7 : Củng cố, dặn dò : - Củng cố cho học sinh về phương pháp thực hiện kiểu bài. - Nhấn mạnh những yêu cầu quan trọng trong việc tạo lập văn bản. - Tổng kết các lỗi sai phổ biến, cơ bản để rút kinh nghiệm. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau nhiều năm nghiên cứu thực hiện đề tài, qui trình Tổ chức thực hiện tiết trả bài viết môn Ngữ Văn đã được áp dụng vào thực tế dạy học của bản thân cũng như của các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn. Tôi thấy đề tài đã phát huy tính hiệu quả về nhiều mặt, cụ thể như sau : 1. Học sinh có hứng thú hơn trong giờ học. 2. Hiệu quả sửa bài cao hơn. 3. Chất lượng bài làm được nâng lên. Cụ thể như sau : Bảng 1: Bảng thống kê, phân loại lỗi dùng từ: STT 1 2 3 4 STT 1 2 3 4 5. Loại lỗi từ Trước tác động Sau tác động Sai nghĩa 18 9 Lặp từ, thừa từ 20 10 Sai phong cách 7 3 Tổng số lỗi 45 22 Bảng 2: Bảng thống kê phân loại lỗi đặt câu Trước tác Loại lỗi câu Sau tác động động Dấu câu 16 5 Không rõ nghĩa 7 5 Sai nghĩa 11 7 Không tương hợp giữa các thành phần diễn đạt 7 5 Không xác định được thành phần 3 3.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 6 7 8 9 10 11. Thiếu chủ ngữ Thiếu chủ ngữ + vị ngữ Thiếu bổ ngữ Thiếu vị ngữ Thừa thành phần Tổng số lỗi. 3 3 11 10 4 75. 1 2 6 5 2 41. ( Bảng đánh giá hiệu quả đề tài trên đây dựa vào thực tế dạy học của cùng một giáo viên dạy ở lớp 9A2 trường THCS Đăk Pét có chất lượng đầu vào mức trung bình trong 2 năm liên tục - Kết quả trên là sự ước tính để tham khảo) Tất nhiên chất lượng dạy học bộ môn ngữ văn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và việc chấm trả bài một cách khoa học và sư phạm cũng góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. GIÁO ÁN MINH HỌA Ngữ văn 9 - Tiết 115 TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 5 A. Mục tiêu cần đạt : 1. Giúp hs nhận rõ những ưu khuyết điểm trong bài làm của mình, biết cách sửa chữa những lỗi diễn đạt cơ bản. 2. nắm vững hơn phương pháp và cách viết bài văn nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. B. Chuẩn bị : 1. Giáo viên : - Chấm bài, ghi lại các lỗi sai của học sinh theo nhóm lỗi cụ thể. - Thiết kế phần trình chiếu trên P.Point để tăng hiệu quả sửa bài. 2. Học sinh : - Ôn lại phương pháp làm bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. C. Tiến trình tiết dạy : 1. Ổn định lớp 2. Nêu mục đích tiết trả bài 3. Chữa,trả bài Hoạt động của thầy Nội dung hoạt động 1. Hoạt động 1 : Nêu yêu cầu của đề I. Chữa bài bài . * Đề bài: Bàn về tinh thần tự học. - Xác định kiểu bài ? - Kiểu bài : nghị luận về một vấn đề tư - Xác định nội dung nghị luận ? tưởng đạo lí. - Nội dung nghị luận: tinh thần tự học. Tìm hiểu các yêu cầu của đề bài. (Thảo luận nhóm) 2. Hoạt động 2 : Xây dựng dàn bài . - Gv yêu cầu học sinh đọc lại đề bài và. Dàn bài khái quát: 1.Mở bài : Giới thiệu ý nghĩa của tinh thần tự học..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> nêu lại những luận điểm chính để giải quyết vấn đề. Thảo luận nhóm để xây dựng dàn bài. - Tìm các luận điểm và luận cứ chính. - Ghi lại dàn bài vào vở.. 2. Thân bài : - Luận điểm 1 : Giải thích thế nào là tinh thần tự học ? - Luận điểm 2 : Nêu lợi ích của tinh thần tự học ? - Luận điểm 3 : Cách rèn luyện tinh - Hướng dẫn hs lập dàn ý. thần tự học ? (Trình chiếu dàn bài mẫu trên màn 3. Kết bài : Khẳng định ý nghĩa của hình) tinh thần tự học. -Thảo luận nhóm để xây dựng dàn bài. II. Nhận xét 3. Hoạt động 3 : Đánh giá bài làm Nhận xét chung : của học sinh. a. Ưu điểm : - Tinh thần và thái độ làm bài: nghiêm - Nêu cụ thể các ưu điểm và khuyết túc, có cố gắng hơn so với bài trước. điểm. - Biết vận dụng phương pháp vào làm bài, các luận điểm được thể hiện rõ… - Đánh giá tình hình làm bài của học b. Tồn tại : sinh. - Nhiều bài làm chưa đạt chất lượng, luận điểm thiếu sức thuyết phục, luận - Nhận xét về chất lượng bài viết. cứ sơ sài … - Còn nhiều lỗi phổ biến như: dùng từ, . Kết quả chung : 75% trên Tr.bình đặt câu, viết đoạn văn … trong đó có 5% đạt loại giỏi (> 8 điểm) - Nhiều bài làm giống nhau, có tham 25 % dưới trung bình khảo, phụ thuộc nhiếu vào tài liệu . . Hoạt động 4 : III. Trả bài Trả bài . - Sau khi trả bài, dành cho học sinh khoảng 5- 10 phút để đọc lại bài làm của mình và của bạn trong nhóm. - Đối chiếu các định hướng đã nêu, chú ý chỗ gạch đỏ. 5. Hoạt động 5 : Sửa lỗi điển hình. IV. Sửa lỗi Phần này thực hiện trên P.Point : - Gv lần lượt trình chiếu các lỗi cơ bản. - Thảo luận nhóm để nêu cách sửa Lỗi Nguyên Sửa chữa. nhân Trình chiếu kết quả sửa lỗi. Các nhóm lỗi điển hình : - Lỗi chính tả. - Lỗi dùng từ và đặt câu. - Lỗi diễn đạt ý. - Trình tự sắp xếp ý trong bài. - Cách chuyển ý, chuyển đoạn..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Gv cần phân tích nguyên nhân và cách khắc phục các lỗi trên. Hoạt động nhóm : Thảo luận về cách sửa các lỗi được nêu. Ghi điểm 6. Hoạt động 6 : Đọc bài văn hoặc đoạn văn hay. - Phân tích cái hay của các đoạn, bài mẫu. - Chọn đoạn văn tiêu biểu có cách diễn đạt hay. - Chọn bài văn để đọc mẫu. V. Đọc bài văn mẫu - Đọc bài mẫu. - Nhận xét bài mẫu. độ, nêu lên giải pháp ... 7. Hoạt động 7 : Củng cố: - Củng cố về nội dung và phương pháp làm bài. Trình chiếu nội dung củng cố trên P.Point. Nội dung củng cố chính : - Khi làm bài nghị luận xã hội phải đánh giá vấn đề trên nhiều phương diện, chỉ ra nguyên nhân, bày tỏ thái độ, nêu lên giải pháp ... - Củng cố lại các kiến thức và năng cơ bản khi làm bài. 1. Về nhà ghi lại các lỗi của bài làm vào sổ tự học. 2. Đọc thêm một số bài văn mẫu ở các sách tham khảo. 3. Soạn bài “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải) - Tiết 116. D. Rút kinh nghiệm. PHẦN III. KẾT LUẬN Qui trình chấm bài, trả bài là qui trình kĩ thuật, tỉ mỉ, công phu gắn liền với tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, tình yêu thương quí trọng thành quả lao động sáng tạo của giáo viên đối với học sinh. Việc thực hiện tiết trả bài trong tổ bộ môn thống nhất theo qui trình trên.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> có thể xem là tiêu chuẩn xếp loại tiết dạy - đối với tiết trả bài. Đề tài đã và đang thực hiện thống nhất tại tổ bộ môn Ngữ văn trường THCS Đăk Pét không gặp khó khăn trở ngại , được sự đồng thuận của tập thể giáo viên trong đơn vị. Đề tài cũng góp phần tháo gỡ những băn khoăn của một số giáo viên bộ môn Ngữ văn khi thực hiện dạy học kiểu bài này. Đề tài “Một số biện pháp tổ chức thực hiện tiết trả bài viết môn Ngữ văn” đã góp phần giải quyết một trong nhiều yêu cầu chuyên môn còn để ngỏ. Đề tài này tôi đã áp dụng nhiều năm nay và có kết quả khá tốt. Đã có nhiều học sinh nhận ra lỗi dùng từ, đặt câu, diễn đạt.... và sửa được lỗi. Chất lượng học sinh lớp tôi dạy được nâng lên rõ rệt. Nhân đây, tôi đề nghị tổ nghiệp vụ bộ môn Ngữ văn nghiên cứu, triển khai để tạo tính thống nhất toàn đội ngũ trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đồng thời phát huy hiệu qủa của đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường, tổ Ngữ văn và đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm trên. Trong quá trình làm sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các đồng nghiệp góp ý để tôi học hỏi và rút kinh nghiệm. Tôi xin cảm ơn.. Xác nhận của nhà trường................ .......................................................... .......................................................... Xếp loại:............. Giáo viên làm đề tài Trần Thị Huyền. TÀI LIỆU THAM KHẢO : 1. Nguyễn Minh Thuyết- Tiếng Việt thực hành( năm 2001) - Nhà xuất bản GD 2. Nguyễn Huy Quát – Hoàng Hữu Bội.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> “Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường” Nhà xuất bản Giáo Dục – 2001 3. Bộ GD ĐT - Vụ giáo dục Trung học “Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III” ( 2004- 2007) – Môn Ngữ văn - Quyển 1 Nhà xuất bản Giáo Dục – 2005 4. Ngữ pháp Tiếng Việt- Đỗ Hữu Châu. MỤC LỤC.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> STT 1 2 3 4 5 6 7 8. Nội dung Phần 1: Đặt vấn đề Lí do chọn đề tài Phần 2: Giải quyết vấn đề Cơ sở lí luận Thực trạng vấn đề Biện pháp tiến hành Hiệu quả của SKKN Phần 3: Kết luận. Trang 1 1 2 2 3 4 14 18.

<span class='text_page_counter'>(23)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×