Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN sử dụng phương pháp dạy học STEM nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong dạy học môn GDCD tại trường THPT triệu sơn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.84 KB, 16 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Tại điều 2 Luật giáo dục năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2020) đã chỉ
rõ “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển tồn diện con người Việt Nam có đạo
đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng
lực và ý thức cơng dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng
tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập
quốc tế”.[3] Với mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước ta là tạo ra những
con người phát triển toàn diện có đủ phẩm chất và năng lực để cống hiến cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường các em cần phát huy được tâm thế chủ động với những tri thức, là
người nắm vững và làm chủ các tri thức.
Xã hội phát triển đang ngày càng đòi hỏi con người cần phải có những
phẩm chất và năng lực hàng đầu như: năng lực làm việc nhóm, năng lực hoạt
động thực tiễn và năng lực giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra hay năng lực
hợp tác, thích ứng,… để phù hợp và tiến kịp, tiến xa với các nước trong vực và
trên thế giới. Trong giáo dục cũng cần phải có những thay đổi, những cải tiến
thiết thực để tạo ra những con người phát triển toàn diện. Tại điều 28 Luật Giáo
dục cũng nêu rõ: “Phương pháp dạy học phổ thơng phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm,
rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”.[3]
Do đặc điểm của mơn GDCD là hình thành, phát triển cho HS các phẩm
chất đạo đức và năng lực chủ yếu của người công dân thông qua các bài học về
lối sống, đạo đức, pháp luật, kinh tế, nghĩa là chuyển các giá trị văn hoá, đạo
đức, các kiến thức pháp luật, kinh tế thành ý thức và hành vi của người công
dân. Do vậy, giáo viên cần có phương pháp giáo dục phù hợp. Trong các phương
pháp dạy học tích cực đang được triển khai hiện nay thì phương pháp giáo dục


STEM là một phương pháp dạy học vô cùng hiệu quả trong việc phát huy được
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, khai thác và phát huy được
năng lực người học - một yêu cầu không thể thiếu trong giáo dục hiện nay.
Thực hiện công văn số 3089/BGDĐT-GDTrH ngày 14 tháng 8 năm 2020
về triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học. Theo hướng
dẫn nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2020- 2021, tháng 9 năm 2020 của Sở
giáo dục và đào tạo tỉnh Thanh Hóa, trong đó hướng dẫn có nội dung đẩy mạnh
triển khai giáo dục STEM trong giáo dục trung học. Đó là dạy học các môn khoa
học theo bài học STEM và tổ chức các hoạt động trải nghiệm STEM
1


Với những lý do trên, tôi xây dựng đề tài: “Sử dụng phương pháp dạy học
STEM nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong
dạy học môn GDCD tại trường THPT Triệu Sơn 2”. Do giới hạn của một sáng
kiến kinh nghiệm tôi chỉ đưa ra một số biện pháp để thực hiện phương pháp
STEM và có triển khai thực nghiệm tại trường THPT Triệu Sơn II có hiệu quả.
Tơi hy vọng rằng đây sẽ là một nguồn tài liệu hỗ trợ có ích cho các bạn bè đồng
nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục bằng phương pháp STEM cho học sinh tại trường THPT Triệu Sơn II qua
môn học Giáo dục công dân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp STEM cho
học sinh trong nhà trường phổ thông.
- Học sinh lớp 11C2, 11C3, 11C5, 11C6, 11C7 trường THPT Triệu Sơn II.
- Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của bài dạy có sử dụng phương pháp
STEM trong việc nâng cao chất lượng môn GDCD.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

2


2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
STEM là viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công
nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Math (Toán học). Theo tổ chức uy tín trong
lĩnh giáo dục khoa học trên thế giới là Hiệp hội các giáo viên dạy khoa học quốc
gia Mỹ (National Science Teachers Association - NSTA) được thành lập năm
1944 đã đề xuất ra khái niệm giáo dục STEM (STEM education) với cách định
nghĩa ban đầu như sau: "Giáo dục STEM là cách tiếp cận liên ngành trong quá
trình học, trong đó các khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng
ghép với các bài học trong thế giới thực, ở đó các học sinh áp dụng các kiến
thức trong khoa học, cơng nghệ, kỹ thuật và tốn vào trong các bối cảnh cụ thể
giúp kết nối giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và các tổ chức tồn cầu,
để từ đó phát triển các năng lực trong lĩnh vực STEM và cùng với đó có thể
cạnh tranh trong nền kinh kế mới". [1]
Giáo dục STEM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những
kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, kĩ
thuật và tốn học. Nói như thế khơng có nghĩa STEM chỉ có giá trị trong lĩnh
vực bộ mơn tự nhiên. Vì suy cho cùng thì giáo dục STEM là nhằm giúp người
học vận dụng được kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề, những hoạt
động của học sinh trong thực tiễn cuộc sống. Đối với bộ môn khoa học xã hội
nói chung, bộ mơn giáo dục cơng dân nói riêng, giáo dục STEM cũng mang lại ý
nghĩa vô cùng quan trọng giúp học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng linh hoạt những gì đã học trong sách vở, ở trường học vào trong thực tiễn

cuộc sống, phát huy được năng lực của người học. Những điểm mạnh của giáo
dục STEM có thể kể đến:
Thứ nhất: Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp
cận liên môn và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn mơn học như
các đối tượng tách biệt và rời rạc (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Tốn học),
STEM kết hợp chúng thành một mơ hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng
thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách
vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Giáo dục STEM sẽ phá đi khoảng cách
giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người có năng lực làm việc “tức thì”
trong mơi trường làm việc có tính sáng tạo cao với những cơng việc địi hỏi trí
óc của thế kỷ 21.
Thứ hai: Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực
giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh
được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến
các kiến thức khoa học. Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tịi, nghiên
cứu những kiến thức thuộc các mơn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo
khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm, thiết bị cơng nghệ) và sử dụng chúng để giải
quyết vấn đề đặt ra.
3


Thứ ba: Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người
học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà
phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị;
phải biết cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng
cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết. [2]
Với việc sử dụng phương pháp giáo dục STEM để dạy học sẽ kích thích sự
sáng tạo, sự tìm tịi và tinh thần đoàn kết của các em trong học tập. Đồng thời,
giúp các em biết được nhiệm vụ của bản thân khi làm việc nhóm để phát huy
khả năng sáng tạo, chủ động với kiến thức, có trách nhiệm hồn thành nội dung

bài học. Thơng qua đó học sinh sẽ tự tin hơn, năng động hơn, rèn luyện cho các
em kinh nghiệm tổ chức quản lý khi làm việc nhóm, kinh nghiệm trải nghiệm
thực tiễn…, làm cho mối quan hệ thầy- trò cũng được cải thiện, tiết học trở
thành môi trường giao tiếp giữa thầy với trò, giữa trò với trò. Từ đó, học sinh
hứng thú hơn với mơn học, tiết học sẽ sinh động và hiệu quả hơn, năng lực của
người học cũng được phát huy nhiều hơn.
2.2. Thực trạng của việc áp dụng phương pháp giáo dục STEM vào
giảng dạy môn GDCD tại trường THPT Triệu Sơn 2
Sử dụng phương pháp giáo dục STEM vào giảng dạy môn Giáo dục công
dân thực chất là nhằm nâng cao giáo dục các kỹ năng sống cho học sinh, phát
huy hơn nữa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Đặc biệt là việc
vận dụng kiến thức liên môn vào để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Qua 12 năm
đảm nhiệm vai trị là một giáo viên dạy mơn GDCD, trong đó có 8 năm tại
trường THPT Triệu Sơn II, tơi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như
sau:
2.2.1. Thuận lợi
- Ban Giám Hiệu nhà trường, tổ chuyên môn luôn quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ
và tạo điều kiện tốt nhất để chúng tơi thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình .
- Đội ngũ giáo viên, công nhân viên trong trường THPT Triệu Sơn 2 nhiệt
tình, năng nổ, sẵn sàng giúp đỡ nhau, trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi hoạt động ngoại khóa, sinh
hoạt dưới cờ theo chủ điểm. Đó là thuận lợi rất lớn giúp khơi dậy tiềm năng sáng
tạo, tích cực, chủ động của học sinh. Từ đó, các em cũng tích cực hơn, nhạy bén
nắm bắt hơn trong giờ học và khai thác, phát huy năng lực người học có hiệu
quả.
- Học sinh phần lớn là ngoan, biết nghe lời, nhạy bén nắm bắt yêu cầu, chủ
động, sáng tạo trong việc học. Các em ngày càng được tiếp cận và được giáo
dục nhiều từ các cấp học trước về việc tự học, chủ động thảo luận, làm việc
nhóm, có sự chuẩn bị từ ở nhà và đến tiết học các em trình bày, trao đổi sản
phẩm STEM của mình, trải nghiệm, học hỏi các mơ hình là sản phẩm STEM

đến từ các nhóm.
4


- Xu hướng đổi mới chung của ngành giáo dục dẫn đến sự trao đổi thảo
luận của các giáo viên trong ngành rất sôi nổi đã tạo ra những kho về phương
pháp dạy có hiệu quả.
- Là trường THPT ln đứng đầu về thành tích học tập của huyện và đứng
trong tốp 10 của tỉnh. Nhà trường có cơ sở vật chất khá đồng bộ, hầu hết các
phòng học được lắp máy chiếu, loa, các giáo viên đều có máy tính xách tay nên
rất thuận tiện cho việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
2.2.2. Khó khăn
- Học sinh trên địa bàn huyện Triệu Sơn nói chung và trường THPT Triệu
Sơn 2 nói riêng sinh sống trong điều kiện kinh tế bình thường, nhiều phụ huynh
sống bằng nghề thuần nơng, kinh tế cịn khó khăn, một số gia đình phụ huynh đi
làm ăn kinh tế xa nhà nên ít quan tâm tới con em mình, chưa thể hiện vai trị
giáo dục từ phía gia đình. Vì vậy, một bộ phận khơng nhỏ các em có thói quen ỷ
lại hoặc mập mờ chưa rõ trách nhiệm bản thân khi được giao nhiệm vụ.
- Để sản phẩm STEM đạt yêu cầu cần đầu tư về thời gian, công sức và các
vật liệu cần thiết liên quan nên đôi khi cũng gặp khó khăn.
- Lớp học đơng, phịng học nhỏ, học sinh phải học nhiều môn nên hạn hẹp
về thời gian.
- Trình độ học sinh khơng đồng đều nhau nên khi giao nhiệm vụ cần có sự
tìm hiểu kĩ lưỡng.
2.3. Các giải pháp để thực hiện phương pháp giáo dục STEM vào tiết học
môn GDCD
Khi sử dụng phương pháp giáo dục STEM vào trong dạy học mơn GDCD,
có thể tiến hành thực hiện theo các bước như sau:
2.3.1. Bước 1: Cần lựa chọn chủ đề, nội dung, vấn đề để thực hiện.
Trong bài học, chương trình học bộ mơn có thể sẽ có rất nhiều chủ đề,

nhiều nội dung, nhiều vấn đề, giáo viên cần xác định nội dung nào là cơ bản,
trọng tâm, chủ đề và nội dung ấy cần tiến hành xử lý tại lớp hay phải có sự
chuẩn bị ở nhà để vấn đề được sáng tỏ hơn, hiệu quả hơn, ứng dụng trong thực
tiễn cao hơn. Nên lựa chọn những nội dung, vấn đề hay, cơ bản, có tính liên hệ
thực tế cao, nội dung dễ diễn đạt, dễ chia sẻ, có thể huy động nhiều ý kiến đóng
góp; các câu hỏi định hướng nên là câu hỏi mở, gợi ý định hướng vấn đề cho
học sinh cần rõ ràng, linh hoạt đa dạng, nhiều thể loại, sát với bài học và thực
tiễn cuộc sống… nhằm tập trung, kích thích sự sáng tạo, khám phá của học sinh,
nâng cao sự hứng thú với yêu cầu, phát huy được nhiều năng lực, tư duy sáng
tạo và khả năng ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ trong bài 1 sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 10 “Thế giới quan
duy vật và phương pháp luận biện chứng”.
5


Vấn đề đặt ra ở đây là cùng một sự vật, hiện tượng hay vấn đề nào đó
nhưng mỗi người lại có cách nhìn nhận hay giải quyết khác nhau. Giáo viên có
thể gợi ý một số ý tưởng như thi vẽ tranh theo nhóm trên bình hoa, trên nón lá
hay bất cứ vật phẩm gì mà em thích, hình đó là mái trường mến yêu- nơi mà các
em đang học. Mỗi nhóm sẽ có mỗi bức tranh với sự sáng tạo của mình theo chủ
đề bài học.
Hoặc trong bài 2 sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 11 “Hàng hóa, tiền
tệ, thị trường” .
Giáo viên có thể dẫn dắt vấn đề với học sinh trong cuộc sống có rất nhiều
đồ vật chúng ta có thể làm ra được để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhưng cũng
có những sản phẩm mà chúng ta muốn có nó nhưng khơng thể tự làm ra được.
Vậy làm sao để có sản phẩm ấy? Từ đó, giáo viên có thể phân cơng mỗi nhóm
làm ít nhất một sản phẩm handmade theo định hướng bài dạy (sản phẩm do lao
động tạo ra, thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người,...). Từ những sản phẩm đó
học sinh sẽ hiểu rõ hơn về phạm trù “hàng hóa”. Mặt khác, cũng từ những sản

phẩm tự làm ra, mang đến thị trường (lớp học) mà các em hiểu rõ hơn các chức
năng của thị trường,…
Có thể khái quát như sau:
Lựa chọn nội dung cụ thể trong bài học

Kết nối với những sản phẩm, vật phẩm ứng dụng trong thực tiễn
cuộc sống.

Phân tích ứng dụng đó khi kết nối với bài học hoặc chủ đề, chỉ rõ kiến
thức ứng dụng liên quan đến Stem ở chỗ nào.

Hình thành chủ đề
2.3.2. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết theo định hướng câu hỏi
STEM.
Sau khi lựa chọn, xây dựng được chủ đề, nội dung bài học, cần xem xét chủ
đề ấy sẽ đáp ứng nhu cầu nào của học sinh? Khi nào thì cần đến nhu cầu đó?
Giải quyết vấn đề đó ở đâu? Các khâu cần hỗ trợ là gì?…
Ví dụ khi tiến hành giải quyết vấn đề theo chủ đề bài 1 SGK GDCD 10
giáo viên có thể đặt những câu hỏi cho học sinh như: Từ đâu em có được bức
6


tranh này? Ngôi trường mà em đang theo học là ngơi trường như thế nào? Tình
cảm của bản thân em và em thấy mình cần có trách nhiệm gì khi ngồi trên ghế
nhà trường?…
Hoặc nội dung bài 2 SGK GDCD 11, định hướng khi làm sản phẩm đồ
handmade các nhóm học sinh phải trả lời được các câu hỏi như các em phân
cơng nhiệm vụ các thành viên trong nhóm như thế nào? Đồ làm bằng vật liệu gì?
Thời gian làm ra sản phẩm hết bao lâu? Sản phẩm đó có những cơng dụng gì?
Hướng mở cơng dụng của sản phẩm? (Kiến thức khoa học, kĩ thuật và công

nghệ). Sản phẩm làm ra chỉ để sử dụng hay bán? Nếu bán, sau khi khấu trừ
nguyên liệu đầu vào, công sức bỏ ra (kiến thức của tốn học)… Dự kiến nhóm
sẽ bán ra với giá bao nhiêu? Làm sao để được sử dụng sản phẩm đó? Mua sản
phẩm đó ở đâu?…
2.3.3. Bước ba: Các kiến thức để giải quyết vấn đề (S.T.E.M)
Khi xác định được các vấn đề cần giải quyết chính là hoạt động sáng tạo
khoa học, kĩ thuật, cơng nghệ và tốn học được tạo ra. Nhờ đó giúp học sinh
hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực thông qua đề xuất, kiểm chứng
các giả thiết khoa học hoặc thử nghiệm giải pháp kĩ thuật.
Ví dụ như khi học sinh làm đồ handmade (yêu cầu trong bài 2 SGK GDCD
11), học sinh muốn hồn thành bình hoa được chế tạo từ rác thải nhựa (chai, ly
nhựa đã qua sử dụng) học sinh cần phải tiến hành thu gom và khử khuẩn bằng
xà phòng hay dung dịch sát khuẩn (Kiến thức của công nghệ). Thiết kế như thế
nào cho bắt mắt, thân thiện môi trường, kĩ thuật cuốn dây trang trí phù hợp, kích
thước dây, chất liệu, kích thước bình hoa như thế nào để phù hợp trang trí đặt
trên bàn học, kệ tủ hay phịng khách… Kiểu dáng thế nào để phù hợp cắm từng
loại hoa,… Làm từ chai nhựa hay ly nhựa nên khá nhẹ có thể bị đổ bất cứ khi
nào nên học sinh cần suy nghĩ thiết kế sản phẩm sao cho đủ độ nặng, có thể cắm
hoa mà khơng bị đổ, phải giới thiệu sản phẩm như thế nào để thu hút được thật
nhiều khách hàng… Tất cả những kĩ năng đó có được cần dùng đến kiến thức
của khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học cùng với các sáng tạo xã hội khác.
2.3.4. Bước bốn: Xác định mục tiêu dạy học.
Giáo viên cần xác định qua mỗi nội dung bài học, chủ đề học sinh cần đạt
những kiến thức, kĩ năng gì. Nói cách khác xác định mục tiêu bài học chính là
đánh giá học sinh qua bài học. Qua bài học, học sinh sẽ nắm bắt được những
kiến thức gì? Hình thành và phát triển những năng lực nào? Kĩ năng nào?
Ví dụ sau khi học xong chủ đề này, bài học này học sinh nghe được, viết
được, phát biểu được, trình bày, biểu diễn được. Cụ thể ở bài 2 SGK GDCD lớp
11, sau khi học xong, học sinh cần đạt được các mục tiêu sau:
*Về kiến thức:

- Hiểu được khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa.
7


- Hiểu được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ, thị trương và các chức
năng của thị trường.
*Về kỹ năng:
- Biết phân biệt giá trị với giá cả của hàng hóa.
- Biết nhận xét tình hình sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm hàng hóa ở địa
phương.
*Về thái độ, phẩm chất:
- Quan tâm đến tình hình phát triển sản xuất hàng hóa; Coi trọng đúng
mức vai trị của hàng hóa
*Các năng lực và phẩm chất hướng tới hình thành và phát triển ở học sinh
Về phẩm chất: Thơng qua việc giảng dạy sẽ góp phần hình thành,
phát triển cho học sinh các phẩm chất như: chăm chỉ, trách nhiệm.
Về năng lực:
Năng lực chung: năng lực thuyết trình, hùng biện, năng lực tự học và tự
chủ, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
Năng lực đặc thù môn GDCD: thông qua bài học sẽ góp phần hình thành,
phát triển cho học sinh như: năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản
thân, năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương
2.3.5. Bước năm: Xây dựng nội dung bài học.
Giáo viên cần xác định rõ nội dung hay chủ đề bài học sẽ có những hoạt
động nào? Các hoạt động đó nhằm mục đích gì? Vận dụng kiến thức giáo dục
STEM liên quan đến bài học hay chủ đề thế nào cho phù hợp và hiệu quả? Mối
liên hệ thực tiễn cuộc sống như thế nào?
Khi xây dựng nội dung bài học cần lưu ý sẽ vận dụng các kiến thức tổng
hợp của STEM như thế nào? Các kiến thức đó có q sức với học sinh khơng?
Có mất q nhiều thời gian để chuẩn bị hay không? Việc ứng dụng giáo dục

STEM có ý nghĩa thực tiễn như thế nào? Học sinh sẽ được trải nghiệm ra sao
thông qua những hoạt động đó?..,
Ví dụ trong nội dung bài 2, SGK GDCD lớp 11 sẽ có rất nhiều nội dung,
giáo viên cần tổ chức thành nhiều hoạt động nhưng phải đảm bảo về mặt thời
gian. Từ nội dung của phạm trù “hàng hóa”, học sinh sẽ biết vận dụng vào thực
tiễn để thiết kế các sản phẩm tái chế phù hợp với khả năng của bản thân mà
không mất quá nhiều thời gian. Từ đó, học sinh hiểu được việc tạo ra một sản
phẩm để sử dụng hoặc để bán (hàng hóa) có ý nghĩa như thế nào? Một sản phẩm
muốn có giá trị sử dụng và giá trị thì cần phải cân nhắc, tính tốn ra sao? Các em
sẽ có những trải nghiệm vô cùng thú vị khi tự tay tạo ra những sản phẩm có
cơng dụng, biết đặt mình vào vị trí của nhà sản xuất, kinh doanh,…Đến nội dung
của phạm trù “thị trường”, giáo viên có thể lựa chọn phần “Các chức năng của
thị trường” để học sinh tiến hành hoạt động thuyết trình, giới thiệu về sản phẩm
STEM của nhóm mình. Khi sản phảm của nhóm mình được đánh giá cao, có
nghĩa các em hiểu được “thị trường” đã thừa nhận giá trị sử dụng và giá trị của
sản phẩm đó. Khi tất cả các nhóm đã trình bày sản phẩm trước lớp (có sự đa
dạng và phong phú về sản phẩm), có nghĩa các em hiểu được chức năng “thông
8


tin” của thị trường bằng câu hỏi “thị trường hôm nay có gì?”,…Cho nên, việc
lựa chọn và xây dựng nội dung bài học để phù hợp sử dụng phương pháp STEM
là việc có ý nghĩa quan trọng quyết định đến thành công của bài dạy.
2.3.6. Bước sáu: Thiết kế nhiệm vụ dạy học.
Sau khi xây dựng được nội dung bài học giáo viên cần thiết kế các nhiệm
vụ sao cho đảm bảo học sinh phát huy được các năng lực như năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực quản lý, sáng tạo, năng lực giao tiếp,…
thông qua các hoạt động cơ bản như:
Hoạt động 1: Xác định vấn đề, những yêu cầu của bài học.
Hoạt động 2: Nghiên cứu và đưa ra các giải pháp thiết kế.

Hoạt động 3: Trình bày và thảo luận các phương án thiết kế
Hoạt động 4: Chế tạo mơ hình (sản phẩm) theo phương án đã thiết kế đưa
vào thử nghiệm và đánh giá.
Hoạt động 5: Trình bày và thảo luận về sản phẩm được thiết kế. Cùng một
vấn đề các nhóm có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Qua đó học sinh sẽ
học được cách tiếp cận và giải quyết vấn đề, chấp nhận được thất bại để cố gắng
cũng như nỗ lực hơn nữa khi thành công.
2.3.7. Bước 7: Tổ chức thực hiện và đánh giá.
Về tổ chức thực hiện: giáo viên giới thiệu nội dung chủ đề, tạo điều kiện
cho học sinh trải nghiệm thực tiễn và kết thúc.
Về đánh giá: Lưu ý hai vấn đề cần đánh giá là đánh giá năng lực học sinh
và đánh giá tính hiệu quả của chủ đề,
Giáo viên tạo điều kiện cho học nhận xét sản phẩm của các nhóm, có thể
phản biện ý kiến của các nhóm trình bày làm tăng sự tương tác giữa các thành
viên lớp, tăng thêm hiệu quả nội dung bài học.
Giáo viên cần có sự cơng tâm, cơng bằng, nắm chắc kiến thức, linh hoạt xử
lý tình huống phát sinh. Sau khi các em nhận xét, đánh giá, giáo viên chốt lại nội
dung vấn đề để các em nắm vững kiến thức một cách chủ động.
2.4. Kết quả đạt được của đề tài
2.4.1. Về mặt định tính
Khi áp dụng cụ thể ở các lớp tôi phụ trách dạy, chia sẻ phương pháp với
đồng nghiệp ở các lớp khác, kết quả đạt được là các em tham gia với thái độ rất
nhiệt tình, thể hiện sự năng động của tuổi trẻ, tự giác tìm tòi kiến thức, được trải
nghiệm thực tiễn, sẵn sàng hợp tác, hỗ trợ nhau trong hoạt động học tập và rút ra
được những bài học bổ ích.
9


Kết quả đạt được sau tiết học bằng sản phẩm dựa trên ứng dụng kiến thức
giáo dục STEM: các nhóm đều hoàn thành sản phẩm STEM, làm việc với tinh

thần hào hứng, khai thác linh hoạt theo nội dung bài học và ứng dụng được vào
trong thực tiễn ở các mức độ khác nhau.
Năm học 2020 - 2021, học sinh trường THPT Triệu Sơn 2 tham gia tiết
học nhiệt tình, hào hứng, chủ động nắm bắt nhiệm vụ, trao đổi, thảo luận sơi nổi,
tích cực và sáng tạo trong từng yêu cầu. Các sản phẩm STEM đa dạng, phong
phú, có giá trị thực tiễn cao.

10


Hình ảnh sản phẩm STEM do học sinh làm phục vụ bài học.
2.4.2. Xét về mặt định lượng
11


Để định lượng kết quả học tập của các em trong suốt q trình học tập, tơi
ln theo sát sự tiến bộ của từng em, cũng như chú trọng đánh giá kết quả sau
mỗi bài kiểm tra để đánh giá khách quan và đúng nhất. Cuối năm học 20202021, tôi đã khảo sát 203 học sinh của 5 lớp (11C2, 11C3, 11C5, 11C6, 11C7)
sau khi áp dụng phương pháp giáo dục STEM vào trong dạy học và so sánh với
bài khảo sát trước khi thực hiện giải pháp, kết quả thu được như sau:
Câu
hỏi

Nội dung

Trước khi áp
dụng giải
pháp.

Sau khi áp

dụng giải
pháp.

(2019 - 2020) (2020 - 2021)
Số
lượng

1

2

3

4

Tỷ lệ
(%)

Số
lượng

Tỷ lệ
(%)

Môn GDCD mang lại cho em sự hứng
thú trong học tập ở mức nào?
Rất thích

26


12,80 35

17,24

Thích

77

37,93 120

59,11

Bình thường

59

29,06 26

12,80

Khơng thích

41

20,19 2

0,98

Kiến thức đơn giản, sau này thi tốt nghiệp 43
nếu chọn môn KHXH.


21,18 37

18,32

Giáo viên vui vẻ, bài học hấp dẫn, sinh 80
động.

39,4

61

30

Kiến thức dễ nắm bắt

38

18,7

22

10,8

Kiến thức gắn với thực tế nhiều

42

20,72 83


Vì sao em thích học mơn giáo dục cơng
dân?

40,88

Khi học môn giáo dục công dân em
muốn được học một tiết học như thế
nào?
Nghe giảng rồi sau đó giáo viên đọc cho
chép bài.

27

13,3

11

5,37

Nghe giảng, thảo luận, phát biểu ý kiến

89

43,84

95

46,8

Được trải nghiệm thực tế nhiều


87

42,86

97

47,83

Nội dung bài học
12


Tập trung nhiều lý thuyết

72

35,48

47

23,15

Không cần liên hệ thực tế

43

21,18

14


6,9

Giảm bớt lý thuyết, tăng cường các hoạt
động trải nghiệm thực tiễn

88

43,34

142

69,95

Qua khảo sát cho thấy tỷ lệ học sinh thích học môn GDCD tăng lên từ
37,93% năm học 2019- 2020 lên 59,11% năm học 2020- 2021( tăng 21,18%).
Tỷ lệ học sinh khơng thích học mơn GDCD giảm từ 20,19% năm học 20192020 xuống 0,98% năm học 2020- 2021 (giảm 19,21%). Tỷ lệ học sinh khơng
thích học và bình thường cũng giảm đi.
Qua thực nghiệm cho thấy khi sử dụng phương pháp giáo dục STEM, các
em thấy được vai trò của học sinh với hoạt động thực tiễn tăng lên nhiều hơn từ
20,72% năm học 2019- 2020 lên 40,88% năm học 2020- 2021 (tăng 20,16%).
Các em thấy kiến thức môn GDCD gắn với thực tiễn cuộc sống, đem lại cho các
em nhiều điều thú vị. Có thể nói khi được trải nghiệm thực tiễn giúp các em phát
huy nhiều năng lực và hứng thú nhiều hơn trong học tập.
Kết quả trên chứng tỏ việc vận dụng phương pháp giáo dục STEM trong
giảng dạy bộ mơn giáo dục cơng dân là có tính khả quan, làm cho học sinh tích
cực, chủ động, khơng ngừng sáng tạo giúp hình thành và phát triển năng lực của
học sinh trên nhiều phương diện. Thông qua việc thuyết trình các ý tưởng và sản
phẩm STEM, chúng ta cịn phát hiện và có thể bồi dưỡng được những tài năng
hùng biện hay MC dẫn chương trình, từ đó có thể tư vấn và định hướng nghề

nghiệp cho các em trong tương lai.

13


3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Với học sinh phổ thông, việc theo học các môn học STEM có ảnh hưởng
tích cực tới khả năng lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Khi được học nhiều dạng
kiến thức trong một thể tích hợp, học sinh sẽ chủ động thích thú với việc học tập
thay vì thái độ e ngại hoặc tránh né một lĩnh vực nào đó, từ đó sẽ khuyến khích
các em có định hướng tốt hơn khi chọn chuyên ngành cho các bậc học cao hơn
và sự chắc chắn cho cả sự nghiệp về sau. Những học sinh học theo cách tiếp cận
giáo dục STEM đều có những ưu thế nổi bật như: kiến thức khoa học, kỹ thuật,
cơng nghệ và tốn học chắc chắn; khả năng sáng tạo, tư duy logic; hiệu suất học
tập và làm việc vượt trội; và có cơ hội phát triển các kỹ năng mềm tồn diện hơn
trong khi khơng hề gây cảm giác nặng nề, quá tải đối với học sinh.
Chính vì vậy. việc đẩy mạnh ứng dụng phương pháp dạy học STEM vào
các mơn học nói chung và mơn GDCD nói riêng có một ý nghĩa rất lớn đối với
việc hình thành tư duy tích cực, hành động tích cực để các em có một hành trang
vững chắc, tự tin bước vào tương lai.
Việc sử dụng phương pháp giáo dục STEM với học sinh THPT là hoàn toàn
khả quan khơng chỉ với mơn GDCD nói riêng mà cịn có thể áp dụng ở nhiều
môn học khác, đặc biệt lợi thế hơn với các môn khoa học tự nhiên.
Mặc dù phạm vi nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ thơng qua một vài tiết
học cụ thể, song đó là sự cố gắng và kinh nghiệm của bản thân trong quá trình
giảng dạy. Rất mong nhận được sù chia sẻ từ các bạn đồng nghiệp để có thêm
kinh nghiệm cho quá trình dạy học đạt kết quả tốt nhất.
3.2. Đề xuất, kiến nghị
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, để phòng tránh tai nạn đuối

nước một cách hiệu quả, tôi mạnh dạn đưa ra một vài đề xuất như sau:
- Đối với Sở GD&ĐT: Tổ chức các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp
dạy học cho giáo viên để chúng tơi có thêm những kỹ năng và biện pháp giáo
dục hiệu quả hơn. Xây dựng mô hình lớp học với sĩ số lớp phù hợp để thực hiện
các nhiệm vụ học tập hiệu quả hơn. Xây dựng các mơ hình STEM để học sinh
tham quan và trải nghiệm.
- Đối với trường phổ thông: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá năng
lực chuyên môn và phương pháp dạy học của từng giáo viên. Từ đó thúc đẩy
quá trình tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn và nghiệp vụ
cho giáo viên. Trong quá trình giảng dạy, nhà trường tạo điều kiện về trang thiết
bị giảng dạy đầy đủ để giờ giảng thu được kết quả tốt nhất. Nhà trường cũng
cần tiếp tục tạo điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa, các hoạt động
trải nghiệm thực tiễn để giúp các em phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động
và sáng tạo trong mọi lĩnh vực. Việc khen thưởng kịp thời cho những giáo viên
tích cực trong việc đổi mới ứng dụng những phương pháp trong dạy học cũng là
14


một hình thức cổ vũ động viên hiệu quả. Ngồi ra nhà trường cần mở rộng mơ
hình giáo dục STEM, mở các câu lạc bộ sinh hoạt STEM hoặc phối hợp các cơ
sở, doanh nghiệp, địa phương… để học sinh có điều kiện giao lưu và trải nghiệm
thực tiễn.
Trên đây là báo cáo phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng
dạy học của tôi. Rất mong được sự góp ý của các q lãnh đạo, các thầy cơ giáo
đồng nghiệp để bản thân tơi hồn thiện và góp phần nâng cao chất lượng dạy
học tại cơ sở công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05
năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết sáng kiến
Trịnh Thị Linh

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Website:
2. Website:
3. Website:

16



×