Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN tổ chức một số hoạt động dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh THPT trong giờ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.1 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
T
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

Nội dung

Trang

Mục lục
I. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu.


3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã thực hiện
3.1. Tổ chức trò chơi
3.2. Tổ chức hoạt động: “Bàn tròn văn học”
3.3. Tổ chức hoạt động tranh biện
3.4. Tổ chức hoạt động: “Đọc ngoại khoá”
3.5. Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát huy khả năng tư
duy sáng tạo
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục
III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.

1
2
2
3
3
3
4
4
4
5
6
6

7
9
13
14
15
15
16

1


I. MỞ ĐẦU.
1.Lý do chọn đề tài:
1.1. Từ yêu cầu của nền giáo dục hiện đại.
Một trong những mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học. Luật giáo dục
(2005) điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Thực chất của đổi mới
phương pháp dạy học là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học
theo phương pháp dạy học tích cực, rèn luyện cho học sinh có tính tự giác, chủ
động, sáng tạo… đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh trong giờ học, nhờ
vậy học sinh sẽ lĩnh hội kiến thức tốt hơn.
Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nêu:
“Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục, phát huy tích cực, sáng tạo ở người
học, khắc phục lới truyền thụ một chiều”.
Như vậy có thể thấy vấn đề tư duy sáng tạo trong dạy và học luôn được
đề cập như một mục đích trong giáo dục, trở thành động lực mạnh mẽ, tác động

trực tiếp làm thay đổi về chất lượng hoạt động giáo dục trong nhà trường, trong
đó có mơn Ngữ văn.
1.2. Đến vai trò của tư duy sáng tạo trong đời sống và trong văn học.
Trong đời sống con người thường xuyên phải đối mặt với nhiều tình
huống đa dạng, phức tạp sắp xảy ra, khi gặp phải những hồn cảnh như vậy địi
hỏi con người phải có tư duy sáng tạo để ứng phó một cách linh hoạt và phu
hợp.
Bên cạnh đó sự phát triển như vũ bão của xã hội hiện đại, cung với xu
hướng hội nhập quốc tế và nền kinh tế tri thức đặt ra yêu cầu đối với nguồn nhân
lực cạnh tranh địi hỏi con người phải có kiến thức, sức khỏe, có năng lực hoạt
động sáng tạo thì mới có thể giải quyết được những vấn đề nan giải trong cuộc
sống. Trong khi đó những kiến thức mà học sinh lĩnh hội được khi cịn ngời trên
ghế nhà trường q ít ỏi, các em vẫn phải học tập suốt đời để thích ứng với sự
phát triển của xã hội. Nên chỉ có khả năng tư duy sáng tạo mạnh mẽ mới cung
cấp đầy đủ những giải pháp pháp, đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại và
tương lai.
Vì lẽ đó phát triển năng lực sáng tạo trở thành một trong những mục tiêu
quan trọng nhất của mọi nền giáo dục. Trong dự thảo của trương trình Giáo dục
phổ thông sau năm 2015 của Bộ giáo dục và đào tạo coi sáng tạo là một trong
những năng lực cần được hoàn thành và phát triển cho học sinh.
Những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn, áp
dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại cũng như công nghệ thông tin vào dạy học
Ngữ văn luôn là vấn đề được ngành giáo dục và các tổ chun mơn và giáo viên
trăn trở, tìm tịi đổi mới với mong muốn cải thiện tình trạng dạy học môn Ngữ
văn, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh trong giờ học Ngữ văn. Thực tế văn
học trong nhà trường dần dần bám sát cuộc sống hơn, các em học sinh có hứng
2


thú hơn đối với môn học và tự tin hơn khi thể hiện quan điểm, suy nghĩ của

mình.
Tuy nhiên những thay đổi đó cịn rất nhỏ, vẫn cịn rất nhiều học sinh chưa
có tình u đối với mơn văn, ngại học, học đối phó, khơng dám bộc lộ tư duy,
diễn đạt suy nghĩ một cách vụng về, giờ học còn rất nặng nề, các phương pháp
đổi mới áp dụng còn mang tính hình thức.
Để nâng cao chất lượng dạy – học môn Ngữ văn, phát triển năng lực tư
duy sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Tô
chức một số hoạt động dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho
học sinh trung học phô thông trong giờ Ngữ văn ”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi chọn đề tài “Tô chức một số hoạt động dạy học nhằm phát triển
năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh trung học phô thơng trong giờ Ngữ
văn” nhằm mục đích:
- Tạo hứng thú học tập để học sinh đến với môn Ngữ văn một cách tự
giác, tích cực, say mê, góp phần nâng cao hiệu quả công tác dạy- học Ngữ văn
trong trường THPT.
- Rèn luyện tư duy độc lập, khả năng sáng tạo và một số kĩ năng sống cần
thiết giúp học sinh có thể giải quyết linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu.
-Sách giáo khoa Ngữ văn 11: Một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại
giai đoạn từ năm 1930 đến 1945.
- Các hoạt động dạy học.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá….

3



II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lý luận.
Tư duy sáng tạo là “chìa khóa” để đưa thế giới khơng ngừng phát triển.
Nhờ có tư duy sáng tạo mà con người đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh
thần phục vụ cho đời sống và là tiền đề không thể thiếu được cho sự phát triển
của nhân loại.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về sáng tạo và tư duy sáng tạo. Theo
các nhà tâm lý học thì tư duy sáng tạo được xem là hoạt động trí não cao nhất
của con người. Năng lực sáng tạo là cốt lõi của tư duy sáng tạo, làm tiền đề bên
trong của hoạt động sáng tạo, nó được xác định từ chất lượng đặc biệt trong quá
trình tâm lý bao gồm nhiều quá trình gắn kết như: quá trình nhớ, tư duy, xúc
cảm.
Tư duy sáng tạo là giải quyết vấn đề dựa trên tác động não để tìm ra
những phương án khả thi rời từ đó rút ra được những phương án tối ưu dựa trên
các phương án đã nêu ra.
“Tư duy sáng tạo là tư duy có khuynh hướng nhận thức phát hiện và giải
thích bản chất, thử nghiệm ý tưởng này đi đến kết quả … Kết quả này có ít
nhiều mới mẻ, có chút gì đó trước đây con người chưa bao giờ nhìn thấy có ý
thức về nó”.
Như vậy hiểu một cách chung nhất “sáng tạo là quá trình tư duy, tưởng
tượng để làm nảy sinh ý tưởng mới có giá trị dựa trên ý thức khoa học và kiến
thức chuyên sâu dưới sự tác động của kinh nghiệm, cảm xúc và động cơ cá
nhân”.
Trong giáo dục, sự sáng tạo của học sinh được thể hiện ở tính chủ động,
tích cực tư duy, vận dụng linh hoạt những kiến thức, kinh nghiệm vào tình
huống, nhiệm vụ học tập, rèn luyện, nhằm giảiquyết tốt các nhiệm vụ đặt ra.
Từ đó học sinh sẽ chủ động, hứng thú tham gia tích cực các hoạt động, tích cực
tương tác, thực hành trải nghiệm, tự tin thể hiện bản thân, có vốn hiểu biết
phong phú, ln có nhiều ý tưởng mới, có nhu cầu thiết kế, sáng chế vận dụng

những điều đã học vào thực tiễn.
Trong dạy học Ngữ Văn, việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học
sinh luôn là vấn đề được quan tâm và đặt lên hàng đầu vì bản chất của văn
chương nghệ thuật là sự sáng tạo. Văn học là một loại hình nghệ thuật và hoạt
động dạy học Ngữ Văn cũng là một nghệ thuật. Tuy nhiên không phải người
thầy nào, hay giờ học nào cũng đạt được điều đó. Trong hành trình đi đến cái
hay cái đẹp của văn chương thì giáo viên và học sinh là đồng tác giả với nhà
văn. Bởi vậy, dạy học văn phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh là “ Q trình
chuyển hóa các tiềm năng văn bản của tác giả sang sự tiếp nhận tinh thần của
bạn đọc. Đó là cách thức vật chất hóa các hoạt động hướng nội, kích thích các
năng lực sáng tạo tự thân của học sinh , để quá trình dạy học Ngữ văn trở thành
q trình tự phát triển trí tuệ, hồn thiện nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn”
(Nguyễn Trọng Hoàn).
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kính nghiệm.
Những năm gần đây học sinh có thiên hướng lựa chọn các mơn khối A,
B, C… để có hướng mở trong tương lai nên đa phần học sinh không mặn mà với
4


môn Ngữ văn, không quan tâm và coi trọng môn học như trước đây. Bên cạnh
đó có rất nhiều tiện ích giúp học sinh có thể tự học, tự tìm kiếm tri thức của mơn
học khiến vai trị của người thầy bị coi nhẹ. Xu hướng của xã hội đã đặt người
thầy trước những thách thức lớn mà nếu không thay đổi, người thầy sẽ mất đi
vai trò của mình và trở nên lạc điệu trong dàn giao hưởng của sự đổi mới. Bởi
vậy, bản thân tơi ln có ý thức học hỏi, tìm tòi đổi mới phương pháp để nâng
cao chất lượng dạy học với mong muốn mang đến niềm say mê, yêu thích và
khám phá văn chương cho học sinh.
Thực tế trong các giờ học chúng tôi đã áp dụng các phương pháp, các kĩ
thuật dạy học mới phu hợp với đặc trưng bộ môn và tình hình nhà trường cũng
như đối tượng học sinh.Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập nên việc áp dụng chưa

hiệu quả hoặc hiệu quả chưa cao. Cung với áp lực về thời gian, thi cử nên chủ
yếu vẫn nặng về dạy kiến thức để đáp ứng nhu cầu của các kì thi.
Trong các giờ thao giảng, giáo viên có sử dụng các phương pháp tích cực
để tổ chức giờ học nhưng mọi hoạt động diễn ra chủ yếu vẫn mang tính hình
thức, chưa “ kích hoạt” được năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Mặc du học
sinh tham gia tích cực hơn vào hoạt động học nhưng vẫn bị chi phối bởi cách
hiểu, cách cảm và sự áp đặt của giáo viên, bởi các câu hỏi và nhiệm vụ học tập
đặt ra cho học sinh chưa có tính vấn đề, chưa thách thức khả năng tư duy của
học sinh. Nên đổi mới nhưng chưa có tính đột phá, chưa có chiều sâu, chưa thắp
lên ngọn lửa đam mê, khát vọng học tập và làm chủ tri thức của học sinh.
Trước thực trạng đó, giáo viên cần phải đa dạng hóa các hình thức tổ chức
hoạt động dạy học, tập trung vào phát huy tính tích cực, hứng thú hoạt động
nhận thức, khuyến khích tư duy phê phán và khơng ngừng sáng tạo của học sinh
bằng việc tăng cường các hoạt động thực tiễn, tương tác, làm việc nhóm… Qua
đó cổ vũ học sinh phát huy tiềm năng tư duy sáng tạo, hình thành kĩ năng và có
những sự chuẩn bị về tri thức cũng như kĩ năng để đáp ứng yêu cầu của xã hội
hiện đại.
Vì vậy việc tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển
năng lực là rất cần thiết đối với giờ học Ngữ văn trong giai đoạn hiện nay trong
đó phát triển năng lực tư duy sáng tạo là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu vì :
“Năng lượng sáng tạo của chúng ta là một trong những nguồn lực quí báu nhất.
Nó có thể giúp chúng ta đưa ra những giải pháp đột phá với những vấn đề nan
giải nhất. ” [4.tr 65].
3. Các giải pháp đã thực hiện .
Một trong những nguyên nhân khiến giờ học Ngữ văn kém hấp dẫn là vì
học sinh khơng được nói, viết suy nghĩ thật của mình. Ở độ tuổi này học sinh
thường thích thể hiện bản thân, có tư duy độc lập, có chính kiến và đặc biệt là có
rất nhiều ý tưởng sáng tạo. Nên khi thầy cô thay đổi, giao việc cho học sinh, các
em sẽ cảm thấy hứng thú, được làm việc và được phát huy những năng lực tiềm
ẩn. Để đạt được điều đó người thầy cần thiết kế bài học theo hướng mở, tìm hiểu

đối tượng học sinh, dạy học nêu vấn đề, chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học
sinh, phản hồi thông tin cho học sinh, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học, phương tiện và kĩ thuật dạy học, hướng dẫn học sinh nhằm phát huy tối đa
khả năng tham dự vào tiến trình dạy học của học sinh.
5


3.1. Tổ chức các trò chơi:
Tổ chức các trò chơi vừa tạo được sự sôi động trong giờ học vừa là con
đường lĩnh hội tri thức một cách ngắn nhất.
Các trị chơi có thể áp dụng trong giờ học Ngữ văn rất phong phú, đa dạng
nhưng chủ yếu là thể hiện khả năng ghi nhớ nhiều và phản ứng nhanh. Để phát
triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, giáo viên nên lựa chọn một số trò
chơi đòi hỏi học sinh phải vận động não bộ như trò chơi :“ Hiểu ý đờng đội”, “
Ai thơng minh hơn?”.
Ví dụ: Trị chơi “ Hiểu ý đờng đội”. Mục đích của trò chơi là để học sinh
ghi nhớ kiến thức, có sự tương tác, ứng xử nhanh, sáng tạo trước các tính huống
trong khi tham gia trị chơi.
Cách chơi: Chia làm hai đội chơi, mỗi đội từ 6 đến 8 học sinh, mỗi lượt
chơi một đội sẽ cử hai học sinh. Một em sẽ bốc thăm sau đó sẽ dung cử chỉ, điệu
bộ, ngôn ngữ để diễn tả lại nội dung được nói đến trong thăm, người cịn lại sẽ
đốn xem bạn của mình muốn nói về điều gì. Thời gian cho mỗi lượt chơi là
năm phút. Đội chiến thắng là đội có nhiều lần hiểu ý nhau nhất.
Trị chơi này có thể sử dụng trong hoạt động khởi động, hoạt động luyện
tập, củng cố hay trong các tiết học ôn tập. Quy mô trò chơi tuy thuộc vào quĩ
thời gian cho từng hoạt động.
Trị chơi “Ai thơng minh hơn ?”. Trị chơi này vừa có thể cá biệt hóa tiềm
năng của học sinh vừa phát huy được kĩ năng làm việc nhóm…
Cách chơi: Giáo viên chia nhóm và giao đề tài cho học sinh. Căn cứ vào
mục tiêu của tiết học mà có thể giao cung một đề tài hoặc nhiều đề tài. Các

nhóm chuẩn bị các nội dung cũng như các sản phẩm hỗ trợ sau đó cử đại diện
lên thuyết trình. Sản phẩm là bài thuyết trình, sơ đồ tư duy, tranh ảnh, trình chiếu
PowerPoint, tuy vào khả năng và điều kiện của học sinh. Thành lập hội đồng
giám khảo để học sinh tự đánh giá phân tích và lựa chọn đội chiến thắng dưới sự
giám sát của giáo viên dạy.
Trò chơi này đòi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị kĩ càng, phân cơng cơng
việc phu hợp với năng lực của từng người để phát huy được cá tính sáng tạo.
Đờng thời trị chơi cũng thu hút được tối đa lượng học sinh tham gia vào hoạt
động, làm chủ tri thức, tự tin trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình.
3.2. Tổ chức: “Bàn tròn văn học”.
Tổ chức một buổi nói chuyện, gặp gỡ với nhà văn để giới thiệu hoặc tìm
hiểu về tác giả, tác phẩm văn học.
Ví dụ: Ở hoạt động khởi động bài “ Vội vàng ” (Xuân Diệu) : Một học
sinh đóng vai tác giả Hồi Thanh- cha đẻ của “Thi nhân Việt Nam” và một học
sinh đóng vai người phỏng vấn. Người phỏng vấn giới thiệu về khách mời và tác
phẩm được coi là “một công trình thế kỉ ” về phong trào Thơ mới. Sau đó tiến
hành đặt hai hoặc ba câu hỏi về nội dung cuốn sách, ấn tượng về các tác giả của
phong trào Thơ mới. Mục đích cuối cung là để “tác giả Hồi Thanh” đưa ra
những nhận định chủ quan của mình về sự trỗi dậy của “cái tôi” cá nhân trong
phong trào Thơ mới và khẳng định Xuân Diệu là nhà thơ “ mới nhất trong các
nhà Thơ mới”. Từ đó giáo viên giới thiệu nội dung của tiết học.
Giáo viên cũng có thể tổ chức “ Bàn tròn văn học ” trong hoạt động hình
6


thành kiến thức với qui mơ lớn hơn. Ví dụ khi dạy bài “Chí Phèo”, phần tìm
hiểu khái quát về tác giả Nam Cao: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tạo ra
một cuộc gặp gỡ, trò chuyện với tác giả Nam Cao, những câu hỏi đặt ra xoay
quanh các vấn đề về đời tư, con người có ảnh hưởng đến sáng tác của ông, về
quan niệm nghệ thật, hay những vấn đề mà nhà văn quan tâm thể hiện trong

sáng tác của mình…
Cũng có thể tạo ra một nhóm học tập cung tham gia thảo luận về một đề
tài liên quan đến nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy học bài “ Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) giáo viên có thể cho
học sinh thảo luận vấn đề: “Cuộc sống của những đứa trẻ nơi phố huyện”. Một
học sinh trong vai người dẫn chương trình đồng thời cũng là người điều khiển
“bàn tròn văn học” sẽ đặt ra các câu hỏi, các học sinh tham gia trả lời và lí giải
vấn đề theo hiểu biết của mình. Chẳng hạn:
- Là một truyện ngắn tiêu biểu cho lối viết nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu
sắc của Thạch Lam, ngay từ nhan đề của truyện “Hai đứa trẻ ” đã gợi lên nhiều
suy nghĩ. Vậy theo bạn, nhan đề của truyện có ý nghĩa gì ?
- Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nhà văn Thạch Lam đã miêu tả chân
thực cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trước cách mạng
tháng Tám. Ngoài “Hai đứa trẻ ” là hai chị em Liên và An, truyện còn miêu tả
cuộc sống của những đứa trẻ nào? Cuộc sống của chúng ra sao?
- Vì sao đêm nào hai chị em Liên cũng thức chờ,đoàn tàu đi qua phố
huyện?
- Qua cảnh đợi tàu, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp gì?
- Những cảm nhận của bạn về tấm lòng của nhà văn Thạch Lam ?
Để tổ chức được hoạt động như vậy địi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị
cơng phu, học sinh tham gia là những học sinh khá, giỏi, có năng lực tổ chức
hoạt động. Giáo viên chỉ gợi ý nội dung khi học sinh chuẩn bị và quan sát quá
trình học sinh thực hiện, sau đó đưa ra những định hướng về kiến thức, kĩ năng.
Tổ chức “bàn trịn văn học” để học sinh có thể chia sẻ những hiểu biết của
mình về văn học, cung trao đổi, bày tỏ tư duy độc lập và chính kiến của mình về
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học, hoàn thành nhiệm vụ học tập mà
giáo viên chuyển giao, thay đổi khơng khí lớp học mà khơng mất đi bản sắc văn
chương.
3.3. Tổ chức hoạt động tranh biện:
Tranh biện là q trình giao lưu ngơn ngữ địi hỏi người tham gia phải

chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận
logic. Hoạt động tranh biện giúp học sinh tự nắm vững được tình hình học tập
của chính mình. Học sinh biết mình cịn có những chỗ thiếu sót hoặc sai lầm nào
để bổ sung hoặc sửa chữa, xác lập mục tiêu học tập mới. Đồng thời trong quá
trình tranh biện của mình học sinh sẽ phát triển toàn diện năng lực, trí tuệ và mài
sắc tư duy. Nó cũng sẽ kích thích hứng thú học tập của học sinh, bởi vì các em
luôn muốn là người chiến thắng trong các cuộc tranh luận.
Hình thức tổ chức: Tranh biện theo nhóm: Là hình thức tổ chức cho học
sinh học tập theo nhóm, trao đổi, phản biện theo từng nhóm, cung giải quyết một
vấn đề dưới sự điều khiển và tổ chức của giáo viên. Khi tổ chức tranh biện theo
7


nhóm sẽ diễn ra đờng thời hai hoạt động: Việc thảo luận giữa các thành viên
trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh biện giữa các nhóm với nhau.
Tranh biện giữa học sinh với học sinh: Đây là hình thức có khả năng
phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của từng học sinh, giúp học sinh khám
phá ra những giá trị tiềm ẩn của mình như kĩ năng hung biện trước đám đông, kĩ
năng tự chủ…
Chẳng hạn khi dạy xong tác phẩm “ Chữ người tử tu”, giáo viên có thể tổ
chức tranh biện về vấn đề: Trong thiên truyện này theo các em Nguyễn Tuân ca
ngợi ai? Huấn Cao hay Viên quản ngục? Học sinh thảo luận theo nhóm, tìm các
lí lẽ để bảo vệ và làm sáng tỏ ý kiến của mình.
Cũng có thể tranh biện giữa giáo viên với học sinh. Có những học sinh
ln nhạy bén, có khả năng xem xét vấn đề từ nhiều góc độ, ln đặt ra những
câu hỏi thú vị cho giáo viên và đồng thời tìm kiếm câu trả lời cho mình. Gặp
những trường hợp như vậy giáo viên nên khích lệ, tạo điều kiện để học sinh nói
lên những suy nghĩ riêng của mình, tránh vội vàng phủ nhận, phán quyết vì như
vậy sẽ thủ tiêu con đường nhận thức chân lí mới mẻ của các em.
Tranh biện có thể áp dụng ở hoạt động khởi động nhằm tạo tâm thế nhập

cuộc, trong hoạt động hình thành kiến thức nếu đơn vị kiến thức nảy sinh những
vấn đề mâu thuẫn, nghịch lí và xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển
năng lực phản biện.
Chẳng hạn khi dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, giáo viên
khởi động bằng một lời dẫn mang tính tranh biện để khơi dậy trong học sinh
hứng thú tiềm tàng và động cơ học tập tích cực, khơi dậy khát khao giao cảm
với thế giới nghệ thuật của học sinh: Hàn Mặc Tử là một tài thơ đặc biệt trong
phong trào Thơ mới. Đương thời dư luận đánh giá tài năng của ơng rất khác
nhau. Có ý kiến cho rằng: “Hàn Mặc Tử? Thơ với thẩn! Toàn nói nhảm”. Cịn
Chế Lan Viên thì quả quyết: “Tơi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau,
những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại cái của thời kì
này một chút gì đáng kể - đó chính là Hàn Mặc Tử”. Vậy đâu là lời nhận xét
đúng nhất về thơ của Hàn Mặc Tử? Chúng ta hãy cung tìm hiểu bài thơ “Đây
thôn Vĩ Dạ” để có câu trả lời khách quan nhất.
Hoặc khi dạy bài “Tràng giang” của Huy Cận có thể nêu ra những cách
hiểu khác nhau về bài thơ để khơi gợi hứng thú phản biện ở học sinh: Có ý kiến
cho rằng “Tràng giang” là bài thơ thể hiện sự rung động của con người trước
thiên nhiên cảnh vật? Còn ý kiến khác lại khẳng định: Bài thơ thể hiện tình yêu
quê hương đất nước âm thầm mà sâu sắc? Vậy đâu là giá trị đích thực của tác
phẩm? Tiết học hôm nay chúng ta cung tìm hiểu bài thơ.
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện ngắn “ Chí Phèo” trong đoạn mở
đầu giới thiệu về sự xuất hiện của nhân vật, để phát huy năng lực phản biện của
học sinh, thay vì câu hỏi “Chí Phèo chửi ai?”, “ Chí Phèo chửi như thế nào?” ,
“Tiếng chửi ấy có ý nghĩa gì ?”, giáo viên đặt ra vấn đề:
- Về tiếng chửi của Chí Phèo, có ý kiến cho rằng: Đó là tiếng chửi vu vơ,
vơ thức của những thằng say rượu. Có ý kiến lại khẳng định: Đây là tiếng lịng
của một người ít nhiều ý thức được bi kịch của cuộc đời mình. Em hãy bày tỏ
quan điểm của mình về các ý kiến trên?
8



Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, tách thành hai lập luận. Học sinh được
phân cơng vào nhóm nào thì phải tuân thủ yêu cầu của nhóm. Vì vậy, để bảo vệ
quan điểm của mình, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu kĩ mới có những lập luận
về vấn đề mà mình cần bảo vệ.
Trong quá trình diễn ra hoạt động phản biện, giáo viên phải làm tốt vai trò
là người tổ chức hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt ra
khỏi khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc giáo viên thu nhận được nhiều
thơng tin phản hời nhất. Giáo viên vừa có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của
học sinh để xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát
được thái độ, hứng thú học tập của các em.
Được coi là tinh hoa của năng lực ngơn ngữ, hoạt động tranh biện có thể
giúp học sinh làm chủ tri thức, tự tin trong giao tiếp, giải quyết vấn đề một cách
sáng tạo. “Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị
cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công hơn trong cuộc
sống ”(Bui Thế Nhưng)..
3.4. Tổ chức hoạt động: “ Đọc ngoại khóa”
“ Xét ở một góc độ nhất định: tổ chức và hướng dẫn học sinh đọc ngoại
khóa văn học là một hoạt động sư phạm nhằm cung cấp cho học sinh các kĩ
năng tiếp nhận văn học và từng bước rèn luyện cho học sinh trở thành những
người đọc thực sự… Vì thế chừng nào “ đọc ngoại khóa” văn học cịn bị xem
nhẹ chúng ta cịn chưa nói đến việc nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn .”
(Trương Thanh Tòng - Tạp chí khoa học giáo dục).
“Đọc ngoại khóa” là một hoạt động trải nghiệm sáng tạo thú vị nhất giúp
học sinh có cơ hội hồn thiện dần vốn kiến thức đã được lĩnh hội trong quá trình
học, mở rộng và khắc sâu tri thức đọc - hiểu văn bản, phát huy tối đa khả năng
tư duy sáng tạo, phát triển toàn diện về mọi mặt. Qua họat động học sinh nhận ra
giá trị của bản thân và tích lũy những kinh nghiệm cá nhân từ đó có thể vận
dụng giải quyết các tình huống đặt ra từ thực tiễn cuộc sống.
“Đọc ngoại khóa” có thể diễn ra trong phạm vi lớp học với các tiết học

theo chủ đề, ôn tập… hoặc tổ chức các hoạt động ngoại khóa trong nhà trường.
Trong phạm vi lớp học yêu cầu về thời gian cho từng phần ít hơn, nội dung đơn
giản hơn.
Để có thể tổ chức hoạt động, giáo viên và học sinh phải có sự tích hợp
kiến thức và kĩ năng trong cả một quá trình học các tác phẩm văn học theo chủ
đề, theo từng giai đoạn, xây dựng các dự án học tập, giao nhiệm vụ cụ thể cho
từng nhóm học sinh…
Ví dụ : Tổ chức hoạt động đọc ngoại khóa về chủ đề :Văn học hiện đại
Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1945.
Thời gian : 90 phút. Tổ chức vào tiết ôn tập văn học.
Chia lớp thành 2 đội thi . Các đội lựa chọn và phân công nhiệm vụ cho
từng thành viên tương ứng với các phần thi.
Thành lập hội đờng giám khảo, thư kí. Các học sinh còn lại là cổ động
viên cho 2 đội thi . Giáo viên là người dẫn chương trình, tổ chức hoạt động.
Nội dung:

9


Phần thi thứ nhất: Tìm hiểu kiến thức.
Thời gian: 25 phút.
Vòng 1. Khởi động:
Mỗi đội thi cử một học sinh trả lời các câu hỏi trong thời gian 2 phút. Mỗi
câu trả lời đúng được 10 điểm.

Học sinh lớp 11A5 trong vịng 1: Khởi động, phần thi “Tìm hiểu kiến thức”.
Vòng 2: Vượt chướng ngại vật:
Các đội lựa chọn câu hỏi để trả lời và giải ô chữ . Trả lời đúng ô chữ hàng
ngang được 10 điểm, ô chữ hàng dọc được 30 điểm. Nếu trả lời đúng ô chữ hàng
dọc trước khi trả lời hết các ô chữ hàng ngang sẽ được 60 điểm. Thời gian suy

nghĩ cho mỗi câu hỏi là 5 giây.
Câu hỏi:
1. Điền từ còn thiếu vào dấu ba chấm trong câu sau: “Ta thoát lên tiên
cung Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cung Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cung Xuân Diệu. Nhưng động tiên
đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn
ngơ buồn trở về hờn ta cung…”?
2. Từ nào sau đây nói đúng nhất về nhà thơ Nguyễn Bính ?
A. Hung tráng
B. Kì dị
C. Quê mua
D. Ảo não
3. Bài thơ “Tràng giang ” của Huy Cận được in trong tập thơ nào?
4. Lời nhận xét “Xuân Diệu là người của đời, một người ở giữa lồi
người. Lầu thơ của ơng được xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” là
của nhà thơ nào?
5. Trong bài thơ “Chiều tối ” của tác giả Hờ Chí Minh, chữ nào được xem
là “nhãn tự ” của bài thơ?
6. Điền từ còn thiếu trong câu thơ sau:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
10


Mặt trời. …….. chói qua tim
7. Nhà thơ có cuộc đời bi thương, bất hạnh nhất phong trào Thơ mới là
ai?
8. Ông được mệnh danh là “người của hai thế kỉ”, là người “báo tin xuân
cho phong trào Thơ mới”, ông là ai?
9. Điền từ còn thiếu trong câu thơ sau:
Cịn trời đất nhưng chẳng cịn tơi mãi,

Nên ………………. tơi tiếc cả đất trời.
10. Sự nghiệp thơ ca của nhà thơ này gắn liền với những chặng đường của
cách mạng Việt Nam. Đó là nhà thơ nào?
11. Ơng được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.
Ông là ai?
12. Nhà phê bình văn học xuất sắc nhất về phong trào Thơ mới là ai?
Ô chữ hàng dọc sẽ là : “Cái tơi cá nhân”.

Ơ chữ phần thi: Vượt chướng ngại vật
Vịng 3: Về đích:
Mỗi đội bốc thăm một gói câu hỏi về 1 tác phẩm văn học, mỗi câu trả lời
đúng được 20 điểm. Thời gian dành cho mỗi đội là 5 phút.
Gói câu hỏi về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
1. Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” có nhằm mục đích đối
thoại khơng? Ý nghĩa của câu hỏi đó?
2. Em hãy phác họa lại bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ qua tưởng tượng của
nhà thơ?
3. Tâm trạng của nhà thơ ở khổ thơ thứ hai? Theo các em tác giả mong
chờ gì ở con thuyền chở trăng?

11


4. Theo các em, “khách đường xa” là ai? Điệp ngữ “khách đường xa”
được sử dụng trong câu thơ có tác dụng gì?
5.Đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng hai lần trong một dòng thơ là chỉ ai
và hàm ý nghĩa gì?
6. Theo các em bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ về tình yêu hay tình
q? Hãy lí giải ngắn gọn.
Gói câu hỏi về bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu.

1.Bài thơ ra đời trong hồn cảnh nào?
2. Bài thơ có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của
Tố Hữu?
3. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh nào để chỉ lí tưởng và niềm vui khi bắt
gặp lí tưởng? Ý nghĩa của những hình ảnh đó?
4. Từ khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản, Tố Hữu đã có sự
chuyển biến như thế nào trong nhận thức và hành động?
5. Bút pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ?
6. “Cái tôi” cá nhân của nhà thơ Tố Hữu có điểm gì khác so với “cái tôi”
cá nhân của các nhà thơ của phong trào Thơ mới?
Kết thúc phần thi Tìm hiểu kiến thức, ban thư kí tổng hợp và cơng bố
điểm số của từng đội.
Phần thứ 2: Tranh biện.
Thời gian: 20 phút
Giáo viên đưa đề tài tranh biện. Hai đội thảo luận trong 5 phút, sau đó
trình bày và bảo vệ quan điểm của nhóm. Sau khi một nhóm trình bày xong,
nhóm cịn lại nêu câu hỏi phản biện. Vì thời gian có hạn nên mỗi nhóm chỉ nêu
một hoặc hai câu hỏi và nhóm trả lời nếu dài quá một phút sẽ bị trừ điểm.

Nội dung phần thi tranh biện
12


Phần thứ 3: Phần thi dành cho khán giả.
Thời gian: 10 phút.
Để tạo khơng khí sơi nổi và thu hút sự chú ý tham gia của tất cả các học
sinh trong lớp học, giáo viên nên có vài câu hỏi và các phần quà nho nhỏ dành
cho các cổ động viên
Phần thứ 4: Phần thi năng khiếu.
Thời gian: 30 phút.

Học sinh có thể tự do đăng kí thể hiện năng khiếu. Có thể đóng kịch, hung
biện.., tuy khả năng của từng đội. Thời gian cho mỗi đội thi từ 7 đến 10 phút.
Vì tổ chức trong giờ học nên không thể tránh khỏi một số hạn chế như:
Thời gian ít, các nội dung khơng thể chun sâu, khơng có sự đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị, lớp học ồn ào …Nhưng những lợi ích mà hoạt động “đọc
ngoại khóa” mang lại thì vơ cung lớn: nó tạo nên niềm hứng thú, đam mê học
tập và khát khao chinh phục những thử thách của học sinh, các em tích cực tham
gia các hoạt động, có tinh thần trách nhiệm, hợp tác, đồn kết. “Qua hoạt động
ngoại khố Văn học, học sinh được phát triển cân đới về trí tuệ, đạo đức, thể
dục và mĩ dục" [3; Tr. 381].
3.5. Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát huy khả năng tư duy sáng tạo.
Kiểm tra và đánh giá là hai khâu quan trọng trong một quy trình thống
nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiểm tra là thu thập
thông tin từ riêng lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học, đánh
giá là xác định mức độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học.
Một thời gian dài dạy học môn Ngữ văn chủ yếu nhằm cung cấp kiến thức
và ít chú ý đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục đơi khi tích lũy được
khơng ít kiến thức nhưng lại thụ động, không thể hiện được khả năng linh hoạt,
sáng tạo của học sinh. Khi kiểm tra, đánh giá giáo viên chủ yếu kiểm tra việc ghi
nhớ kiến thức, đề ra thường mang tính tái hiện mà ít định hướng vào khả năng
vận dụng tri thức đã được học vào giải quyết những tình huống thực tiễn. Nguồn
tài liệu phong phú, dễ kiếm cũng khiến cho học sinh lười tư duy, làm bài thường
chép văn mẫu nên học sinh càng khơng có hứng thú và xem nhẹ môn học.
Xây dựng hệ thống bài tập và đề kiểm tra phát huy tính sáng tạo của học sinh
là rất quan trọng và cần thiết bởi vì nó sẽ đặt học sinh vào những thách thức mới đòi
hỏi phải tư duy mà tư duy chỉ có thể nảy sinh khi gặp hồn cảnh có vấn đề. Để làm
được điều đó giáo viên phải có kĩ năng đặt câu hỏi, mở ra những miền liên tưởng,
tưởng tượng để học sinh có cơ hội bày tỏ những suy nghĩ thực của mình.
Một số bài tập luyện tập, vận dụng khi dạy học phần văn học hiện đại Việt
Nam trong chương trình lớp 11:

- Hãy tưởng tượng, khi hai chị em Liên và An (“Hai đứa trẻ” - Thạch
Lam) đang háo hức đợi tàu, có một vị khách x́ng mua hàng. Đó là Xuân Tóc
Đỏ. Biết vị khách từ Hà Nội đến, hai chị em háo hức hỏi về Hà Nội. Xn Tóc
Đỏ nói rằng “Hà Nội khơng phải cái gì cũng đẹp, có những thứ xấu xí và đáng
sợ nữa”. Sau đó Xuân Tóc Đỏ tạm biệt hai chị em để lên tàu. Ngồi trên tàu,
nghĩ đến hai chị em và nghĩ đến những lời mình đã nói, Xn Tóc Đỏ thấy hơi

13


day dứt, liền viết cho hai chị em Liên và An một lá thư. Em hãy viết lại lá thư
đó.
- Các bạn trẻ ngày nay đang sống vội vàng, theo em liệu đó có phải là lới
sớng “Vội vàng ” của nhà thơ Xuân Xuân Diệu không?
- Từ nội dung bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” ( Hàn Mặc Tử), em hãy viết một
bài văn với chủ đề “cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy/ ta có thêm ngày nữa để
yêu thương”.
- Thử tưởng tượng trên đường đến nhà Bá kiến địi lương thiện, Chí Phèo
đã gặp ơng giáo và Lão Hạc, họ đã đưa ra những lời khuyên như thế nào khiến
Chí Phèo thay đổi ý định, quyết tâm làm lại cuộc đời? Em hãy viết lại cuộc gặp
gỡ đó.
Với những bài tập như thế này học sinh vừa phải nắm chắc kiến thức vừa
có thể tự do sáng tạo. Khi chấm bài cho học sinh, giáo viên nên trân trọng những
ý tưởng mới, nhân văn tích cực và uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, thiếu trong
sáng để các em có những nhận thức đúng đắn. Những bài viết có tính sáng tạo
được đọc trước lớp để khích lệ tinh thần học tập của học sinh.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục.
Tổ chức một số hoạt động dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy sáng
tạo là hình thức dạy học có tính thực tiễn cao, có thể phát huy tối đa tính tích
cực, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động. Khi học sinh

tham gia hoạt động các em được rèn luyện và phát triển tồn diện về trí lực,
năng lực, phẩm chất. Học sinh được học tập trong một môi trường an toàn, được
trải nghiệm những điều mới và học hỏi. Khơng khí lớp học thoải mái, vui vẻ, có
tính dân chủ cao sẽ giảm các áp lực về tâm lí sẽ khiến học sinh tích cực tham
gia vào quá trình dạy học, rút ngắn khoảng cách giữa lí thuyết và thực hành, tạo
ra những thay đổi rõ rệt trong tư duy. Học bằng các hoạt động trải nghiệm cũng
tăng mức độ tương tác, khả năng giao tiếp và kiểm soát các hành vi ứng xử…
Học sinh thực sự thay đổi, các em đã tự tin hơn, dám mạnh dạn bày tỏ những
suy nghĩ của bản thân khi trình bày một vấn đề, u thích mơn học và khi tham
gia các chương trình ngoại khóa do nhà trường tổ chức các em đã tích cực, cung
nhau hợp tác và đạt được những kết quả vượt trội.
Khuyến khích tư duy sáng tạo của học sinh đồng thời tư duy của người thầy
cũng thay đổi. Bản thân giáo viên cũng phải không ngừng học hỏi để cập nhật
thông tin, tri thức, nắm bắt xu hướng để xử lí khéo léo các tình huống xảy ra
trong khi tổ chức hoạt động. Thiết kế giáo án theo hướng mở, linh hoạt, phu hợp
với từng lớp, từng đối tượng học sinh.Trao quyền tự chủ và giao nhiệm vụ cho
học sinh nhưng người thầy vẫn phải nắm chắc tay chèo, định hướng, dẫn dắt để
học sinh chiếm lĩnh tri thức đồng thời tự tìm ra tri thức cho bản thân, khơng cịn
tình trạng dạy học theo lối thuyết giảng, truyền thụ kiến thức mà thay vào đó là
gợi mở, kích thích sự sáng tạo và làm việc tích cực của học sinh.

14


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Sinh thời, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Học sinh học
nhiều, nhớ nhiều là điều khuyến khích, nhưng đó quyết khơng phải là điều chủ
yếu. Điều chủ yếu là dạy học sinh suy nghĩ, sáng tạo.” [1; tr389 ]. Điều đó cho
thấy vấn đề trọng tâm của đổi mới phương pháp dạy học là chuyển từ dạy học

định hướng nội dung sang dạy học phát triển năng lực.
Có nhiều phương pháp để dạy học sinh tư duy sáng tạo nhưng áp dụng
cách thức tổ chức một số hoạt động trong giờ học nhằm phát triển năng lực tư
duy sáng tạo của học sinh thực sự đã làm thay đổi khơng khí giờ học, thay đổi
cách dạy và cách học so với phương pháp truyền thống. Trong những giờ học
giáo viên có tổ chức các hoạt động, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được
lơi cuốn vào hoạt động học, có nhiều cơ hội để bộc lộ và khẳng định bản thân.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi thích khẳng định mình, có tư duy nhạy bén,
có nhiều suy nghĩ mới mẻ, sáng tạo đồng thời các em cũng được tiếp xúc với rất
nhiều nguồn thông tin trên mạng xã hội nên khi học sinh đóng vai trị chủ đạo
trong các hoạt động học, giáo viên có điều kiện quan sát, nắm được cách nhìn
người, nhìn cuộc sống của học sinh, nắm bắt được tâm tư, tình cảm của các em
để từ đó hướng các em đến những giá trị sống vĩnh hằng, có bản lĩnh nói khơng
với cái xấu, cái ác…
Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng sáng kiến, giáo viên cũng đứng trước
nhiều thách thức. Để có thể tổ chức được các hoạt động học một cách hiệu quả,
giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về kiến thức, sưu tầm tài liệu, sử dụng
tương đối tốt công nghệ thông tin, hệ thống âm thanh, hướng dẫn học sinh các
nhiệm vụ cụ thể, kiểm duyệt nội dung, quản lí lớp học… Giáo viên ln phải
chấp nhận đổi mới, không thể cứ dạy theo lối hàn lâm, giảng bình. Phải luôn cập
nhật kiến thức, nghiên cứu và áp dụng linh hoạt các phương pháp, đầu tư thời
gian cập nhật, xử lí thơng tin, nắm bắt xu hướng của giới trẻ…Bên cạnh đó giáo
viên cũng cần phải đảm bảo nội dung chương trình, cân đối thời gian, lựa chọn
những thời điểm thích hợp để tổ chức hoạt động…
Các hoạt động được tổ chức tuy là tình huống giả định nhưng phải lựa
chọn các tình huống có vấn đề, vừa phu hợp với nội dung bài học vừa phải gần
với cuộc sống, trình độ và tâm lí lúa tuổi, sở thích cũng như kinh nghiệm sống
của học sinh.
Trong giờ học cần khuyến khích học sinh tham gia vào hoạt động càng
nhiều càng tốt và phải yêu cầu học sinh tham gia luân phiên, tránh trường hợp

chỉ có vài học sinh tích cực, cịn các em khác khơng tham gia.
Học Ngữ văn hiện nay không chỉ học kiến thức mà cần gắn với các hoạt
động thực tiễn. Nói như người Do Thái “ Tri thức mà thiếu thực tiễn chẳng khác
nào chú lừa chỉ biết thồ trên lưng sách vở”. Học Ngữ văn là học cách làm ngườicon người trong thời đại 4.0 phải là những con người có khả năng làm chủ bản
thân, có sức khỏe, có trí tuệ, giàu lịng nhân, có khả năng giải quyết vấn đề và
sáng tạo…Qua các hoạt động đa dạng phong phú của môn học, giáo viên đã tạo
được môi trường học tập trải nghiệm để học sinh thực hành các kĩ năng, chuẩn
bị hành trang để bước vào cuộc sống.
15


2. Kiến nghị.
Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn quan tâm, giúp đỡ, tạo điều
kiện để giáo viên dạy Ngữ văn ứng dụng thành công các phương pháp dạy học
mới, tạo môi trường học tập tốt nhất để học sinh có nhiều cơ hội phát triển năng
lực.
Đề nghị Sở giáo dục và đào tạo tổ chức các đợt tập huấn chuyên đề, tập
trung nhiều hơn vào vấn đề tổ chức các hoạt động dạy học, để giáo viên các cụm
trường có thể trao đổi kinh nghiệm và dạy thực nghiệm về vấn đề này.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ tôi đã áp dụng trong thực tế dạy học.
Trong quá trình nghiên cứu và triển khai thực hiện khơng tránh khỏi những sai
sót, tơi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các thầy cơ để đề tài được
hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
Tác giả

Nguyễn Thị Thắng


.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Đồng .Tuyển tập văn học. NXB văn học 1996
2. Phan Trọng luận. Phương pháp dạy văn. Nxb Đại học Quốc gia 1996
3. Nguyễn Trọng Hoàn. Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác
phẩm văn chương. NXB giáo dục 2003.
4. Tom Kelly và David Kelly. “Tự tin và sáng tạo”. NXB Lao động 2019.
5. Tạp chí giáo dục
6. Một số bài viết trên Internet

17


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

TRƯỜNG THPT HỒNG LỆ KHA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TỔ CHỨC MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC NHẰM PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
THPT TRONG GIỜ NGỮ VĂN

Người thực hiện:Nguyễn Thị Thắng
Chức vụ : Giáo viên

SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HĨA NĂM 2021

18



×