Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.34 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hỗ
trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là
trung thực và kết quả trong đề tài này là trung thực, việc tham khảo có trích dẫn đầy
đủ. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về tính trung thực của Luận văn này.
Người cam đoan

Nguyễn Văn Thanh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI BẰNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ............................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục
hành chính .............................................................................................................. 7
1.2. Thẩm quyền, nguyên tắc và trình tự giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ
tục hành chính ......................................................................................................15
1.3. Những yếu tố tác động đến giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành
chính .....................................................................................................................26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
BẰNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở TỈNH QUẢNG NGÃI.........................31
2.1. Quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục
hành chính ............................................................................................................31
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính ở tỉnh
Quãng Ngãi ..........................................................................................................44

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở
TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY ...................................................................66
3.1. Phương hướng tăng cường giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành
chính ở tỉnh Quảng Ngãi ......................................................................................66
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ
tục hành chính ở tỉnh Quảng Ngãi .......................................................................68
KẾT LUẬN .........................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TCĐĐ

:

Tranh chấp đất đai

TAND

:

Tòa án nhân dân

HTX

:

Hợp tác xã


UBND

:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Lượng đơn giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai từ tháng

50

bảng
2.1

01/2015 đến 11/2017


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với lịch sử phát triển đất nước, chính sách, pháp luật về quản lý đất
đai ở Việt Nam cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ. Tương ứng với từng
thời kỳ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong

lĩnh vực đất đai cũng có những điểm khác nhau, phù hợp với tình hình lịch sử,
chính trị của đất nước. Tuy nhiên, việc thay đổi chính sách, pháp luật về quản lý
đất đai, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã kéo theo sự gia tăng về số lượng và sự phức tạp về tính chất của các vụ
tranh chấp đất đai, nhất là ở những vùng đơ thị hóa nhanh. Điều này xuất phát từ
nhiều ngun nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó có ngun nhân
từ sự sai sót trong cơng tác quản lý đất đai dẫn đến khó khăn trong giải quyết.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh
vực đất đai. Sự ra đời của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp
luật khác đã khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn chế phát sinh trong
lĩnh vực quản lý đất đai. Tuy nhiên, đất đai là lĩnh vực phức tạp, có nhiều vấn đề
do lịch sử để lại. Trong khi đó, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn
nhiều quy định chung chung, chưa thống nhất; việc giải thích, hướng dẫn của các
cơ quan có thẩm quyền cũng chưa đầy đủ, kịp thời. Do đó, trong những năm vừa
qua, tình hình giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền vẫn để xảy ra tình trạng chậm trễ, kéo dài, có vụ việc cấp dưới “phớt lờ” ý
kiến chỉ đạo của cấp trên gây nên bức xúc và ảnh hưởng đến niềm tin của người
dân đối với đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính ở tỉnh
Quảng Ngãi từ khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực đã có nhiều chuyển biến
tích cực, giải quyết được số lượng lớn đơn yêu cầu, khiếu nại về tranh chấp đất

1


đai; khắc phục phần nào những sai sót trong cơng tác quản lý đất đai trước đây.
Cũng như nhiều địa phương khác trên tồn quốc, tỉnh Quảng Ngãi cịn gặp nhiều
khó khăn trong giải quyết tranh chấp đất đai xuất phát từ những nguyên nhân
phổ biến và những nguyên nhân mang tính đặc thù của tỉnh Quảng Ngãi, dẫn đến

chất lượng công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp đất
đai bằng thủ tục hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn
thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích nghiên cứu những
giải pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý nhà nước cả về phương diện pháp lý
lẫn thực tiễn ở lĩnh vực đất đai của tỉnh Quảng Ngãi.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định pháp luật về đất đai nói
chung và giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu ở các khía cạnh khác nhau như:
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hảo, Khoa Luật - Trường Đại
học quốc gia Hà Nội, Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai, năm 2014.
Đề tài đã nghiên cứu, làm rõ về mặt lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai; nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai trong sự so sánh với quy định của pháp luật các nước
khác và quốc tế. Nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai bằng con
đường hòa giải trên nhiều địa phương khác nhau. Luận văn chủ yếu tập trung
nghiên cứu quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai của Việt
Nam, không đi sâu vào việc nghiên cứu tổng quan các quy định của pháp luật
trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hải Thanh, Học viện Khoa
học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Giải quyết tranh chấp đất
đai bằng Tòa án từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, năm 2016. Đề
tài nghiên cứu lý luận chung về giải quyết tranh chấp và giải quyết tranh chấp

2


đất đai; làm sáng tỏ về mặt lý luận của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án, nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về giải quyết tranh

chấp đất đai bằng Tòa án, qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Thanh Thủy, Khoa Luật – Trường Đại
học quốc gia Hà Nội, Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội, năm 2009.
Đề tài đã nghiên cứu những vẫn đề chung về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai thông qua các cơ quan hành chính nhà nước trong giai đoạn áp
dụng Luật đất đai năm 2003. Đánh giá thực trạng pháp luật đất đai thơng qua
việc tìm hiểu, phân tích thực trạng áp dụng trên địa bàn huyện Thanh Trì- Hà
Nội, qua đó đưa ra những định hướng và đề xuất giải pháp góp phần hồn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Văn Hoàng, Học viện Khoa học
xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Pháp luật hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, năm 2017. Đề tài đã
nghiên cứu những vấn đề chung về thủ tục hòa giải và pháp luật về hòa giải
trong giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính. Đánh giá thực trạng
quy định Luật đất đai năm 2013 về hòa giải trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp
dụng tại huyện Chương Mỹ. Từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao chất lượng hịa giải nói và cơng tác giải quyết tranh
chấp đất đai.
Bên cạnh đó có những bài viết nghiên cứu về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính trên các tạp chí như: Nguyễn
Thắng Lợi (2014), Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp
hành chính trong lĩnh vực đất đai, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng
4/2014; Nguyễn Thắng Lợi (2013), Một số giải pháp đổi mới mơ hình giải quyết
tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số

3



10/2013; Nguyễn Thắng Lợi (2013), Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành
chính trong lĩnh vực đất đai ở nước ta hiện nay, Báo điện tử Bộ tư pháp.
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu trong thời gian qua đã đã nghiên cứu
những khía cạnh khác nhau về pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua thủ tục hành chính và Tịa án, đề ra những giải pháp, kiến nghị hay
mà thực tiễn áp dụng cần xem xét. Tuy nhiên, trong khả năng tiếp cận thơng tin
nghiên cứu của tác giả, chưa có cơng trình nào nghiên cứu tổng quan về giải
quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính. Do vậy, trong quá trình nghiên
cứu đề tài Luận văn của mình, tác giả sẽ có sự tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các
kết quả nghiên cứu trước đây làm cơ sở để nghiên cứu đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết đất
đai bằng thủ tục hành chính nói chung và tại tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp đất
đai bằng thủ tục hành chính.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra đối với tác giả của luận
văn như sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, nguyên tắc và
trình tự giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính; những yếu tố tác
động đến giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai
bằng thủ tục hành chính tại tỉnh Quảng Ngãi; phân tích, làm sáng tỏ những thành
tựu và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính.

4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ
tục hành chính tại Quảng Ngãi; những quy định pháp luật hiện hành về giải
quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính. Luận văn không tập trung
nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại
Tòa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tỉnh Quảng Ngãi
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2014 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích và tổng hợp, diễn giải, quy nạp, các nhóm phương pháp thống kê, so
sánh, đối chiếu.
Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải,
quy nạp để đưa ra các khái niệm; nhận diện những đặc điểm và vai trị của cơng
tác giải quyết tranh chấp đất đai, đồng thời phân tích cụ thể nhằm có nền tảng lý
luận để nghiên cứu chương 2.
Chương 2: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp,
đối chiếu, so sánh, thống kê... nhằm phân tích các quy định của pháp luật, phân tích
thực trạng để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trên cơ sở quy định của pháp
luật.
Chương 3: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
trong chương này với mục đích tham khảo quan điểm ở nhiều địa phương khác


5


nhau và đưa ra những quan điểm cá nhân để có phương hướng, giải pháp phù
hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về lý luận, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất
đai bằng thủ tục hành chính nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ
tục hành chính tại tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
Về thực tiễn, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
nhà quản lý thực hiện nhiệm vụ liên quan đến quản lý, xây dựng chính sách,
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính.
7. Bố cục của luận văn
Kết cấu luận văn gồm 3 chương, … tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ
tục hành chính
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành
chính tại tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường giải quyết tranh chấp
đất đai bằng thủ tục hành chính tại tỉnh Quảng Ngãi.

6


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
BẰNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết tranh chấp đất đai
bằng thủ tục hành chính

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Quyền sử dụng đất
Đất đai là một bộ phận quan trọng và mang tính lãnh thổ, chủ quyền quốc
gia và có ý nghĩa đối với việc tồn tại, duy trì một ranh giới quyền lực nhà nước
trong một cộng đồng dân cư nhất định. Đối với con người, đất đai là một tài
nguyên vô tận và là tư liệu sản xuất phục vụ cho cuộc sống. Chính bởi vậy pháp
luật quốc tế và Việt Nam ln chú trọng công tác quản lý và sử dụng đất đai.
Hiến pháp năm 2013, Điều 53 quy định về quyền sử dụng đất: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản cơng
thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”
và khoản 2 Điều 54: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng
đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất
được pháp luật bảo hộ.”
Luật Đất đai năm 2013 tại Điều 4 khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Theo
đó, với vai trị chủ sở hữu đại diện, Nhà nước có quyền định đoạt đất đai thông
qua các quyền: quyền quyết định mục đích, thời hạn, hạn mức sử dụng đất;
quyền phân bổ đất đai thông như giao đất cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng

7


đất; thực hiện quản lí nhà nước ở về phương diện hành chính và kinh tế thơng
qua việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với người sử dụng đất, điều chỉnh
các thu nhập đối với người sử dụng đất và quyền giải quyết các tranh chấp, bất
đồng, các khiếu nại về đất đai.

Với các quy định về quyền sở hữu đất đai ghi nhận tại Điều 53, 54 Hiến
pháp 2013 và Điều 4 Luật đất đai năm 2013, Nhà nước đã trao quyền sử dụng
đất cho các tổ chức và cá nhân thơng qua các hình thức nhận giao đất khơng thu
tiền, giao đất có thu tiền, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất và họ
trở thành người có quyền sử dụng đất chứ khơng phải người có quyền sở hữu đất
đai. Việc chuyển giao đất cho người sử dụng đất, phụ thuộc vào các hình thức sử
dụng đất khác nhau mà Nhà nước cho phép các chủ thể sử dụng đất khác nhau
được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Theo từ điển
giải thích Luật học thì : “Quyền sử dụng đất của Nhà nước là quyền khai thác
các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế và
đời sống xã hội. Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất một cách gián tiếp thông
qua việc giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Các tổ chức, cá nhân này
khi sử dụng có nghĩa vụ đóng góp vật chất cho Nhà nước dưới dạng thuế sử
dụng đất, tiền sử dụng đất” [20]. Theo định nghĩa này thì Nhà nước khơng trực
tiếp sử dụng đất, hay nói cách khác thực hiện quyền sử dụng đất, mà gián tiếp
thực hiện qua các chủ thể được Nhà nước cho phép sử dụng đất, là người sử
dụng đất.
Tranh chấp đất đai
Theo Từ điển tiếng Việt, tranh chấp nói chung được hiểu là việc “Giành
nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào” [23].
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co
nhau cái không rõ thuộc về bên nào. 2. Bất đồng, trái ngược nhau” [13].
Thời điểm trước khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ”
chưa được giải thích cụ thể bằng các quy định pháp luật. Lần đầu tiên tại khoản

8


26 Điều 4 của Luật Đất đai 2003 đã định nghĩa “TCĐĐ là tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất

đai” cho đến nay Luật đất đai năm 2013 cũng giữ nguyên quan điểm lập pháp
này tại khoản 24 Điều 3 như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Tiếp đó, “Quan hệ đất đai” được hiểu là quan hệ giữa người với người
trong việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai [20], trong đó có cả các chủ thể là
cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai. Với cách hiểu bao hàm các chủ thể cơ
quan quản lý Nhà nước về đất đai, dễ dẫn đến việc quan hệ đất đai bao gồm
tranh chấp giữa một bên là công dân và một bên là Nhà nước. Theo chúng tơi,
cách hiểu này là khơng đúng vì xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai,
việc công dân không đồng ý với việc giao đất của Nhà nước đối với các cơ quan
nhà nước thì không tồn tại quan hệ tranh chấp giữa công dân và cơ quan nhà
nước đó.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: tranh chấp đất đai là sự xung đột về
lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong
quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính
Giải quyết tranh chấp đất đai
Thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” đã được đề cập trong nội dung
của Luật đất đai từ năm 1987 đến nay, tuy nhiên cũng chưa được giải thích rõ.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “Giải quyết tranh chấp đất đai là
giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức trên cơ sở đó
phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.” [21].
Như vậy, giải quyết TCĐĐ được hiểu là: một cách thức của con người với
mục đích giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể liên quan đến
việc quản lý và sử dụng đất.

9



Trong thực tế hiện nay có nhiều phương thức khác nhau để giải quyết
TCĐĐ như: Hòa giải tranh chấp đất đai, giải quyết bằng thủ tục hành chính và
giải quyết thơng qua Tịa án.
Hịa giải TCĐĐ: là một cách thức giải quyết TCĐĐ mang tính mềm dẻo,
thể hiện qua việc tơn trọng ý chí, sự tự nguyện của các chủ thể tranh chấp. Hòa
giải TCĐĐ bao gồm: hòa giải tại cơ sở và hòa giải tại UBND xã, phường, thị
trấn nơi có tranh chấp. Hịa giải tại cơ sở thực hiện tại cộng đồng dân cư thông
qua tổ viên tổ hòa giải ở cơ sở thực hiện theo quy định của Pháp lệnh hòa giải ở
cơ sở, theo những quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của
cộng đồng dân cư. Còn hòa giải tại UBND được thực hiện sau khi hịa giải tại cơ
sở khơng đạt kết quả và một bên gửi đơn đến UBND xã để yêu cầu tổ chức việc
hòa giải.
Giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính: Theo đó các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai, trên cơ sở thông tin, hồ sơ,
sổ sách địa chính về thửa đất trong phạm vi quản lý hành chính của mình có đủ
cơ sở để xác định chủ sở hữu quyền sử dụng đất hợp pháp. Cơ quan có thẩm
quyền giải quyết trực tiếp ra quyết định giải quyết tranh chấp này. Quyết định
giải quyết của cơ quan có thẩm quyền có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các
bên tranh chấp.
Giải quyết tại Tòa án (theo thủ tục tố tụng): đây là cách thức giải quyết
được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó, các chủ thể
tranh chấp có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án có thẩm quyền. Chủ thể
có yêu cầu giải quyết gửi Đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có
thẩm quyền và thực hiện các thủ tục để thụ lý vụ án theo quy định Bộ luật tố
tụng dân sự. Khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án, sẽ tiến hành giải quyết tranh
chấp theo trình tự, thủ tục luật định.
Có thể hiểu giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính là: việc cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai giải quyết các TCĐĐ mà các bên khơng có giấy

10



chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các loại giấy tờ khác chứng minh quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành
chính
Hoạt động giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính có những đặc điểm
nổi bật sau:
Thứ nhất, là những tranh chấp mang tính chất hành chính.
Theo pháp luật hiện hành, tranh chấp về đất đai mà người sử dụng đất
khơng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khơng có một trong các loại
giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm
2013 thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh. Về
bản chất, tranh chấp này xảy ra với mục đích xác định chủ sở hữu quyền sử dụng
đất hợp pháp, do đó trong phạm vi cơng tác của mình thì cơ quan hành hành
chính nhà nước (cơ quan quản lý đất đai) có khả năng và thẩm quyền trả lời đúng
đắn nhất. Cơ quan hành chính nhà nước với trách nhiệm được phân cơng là cơ
quan quản lý đất đai, có đầy đủ thông tin, số liệu về đất đai cũng như nguồn gốc,
hiện trạng sử dụng đất nên có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để thực hiện tốt chức
năng giải quyết tranh chấp này.
Thứ hai, về chủ thể thực hiện giải quyết tranh chấp
Tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính
nhà nước sẽ do đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ quản lý đất
đai thực hiện. Điểm này là đặc trưng của công tác giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục
hành chính, so với thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án với sự tham gia của
Hội đồng xét xử, đại diện Viện Kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác.
Theo đó, việc giải quyết tranh chấp là sự phối hợp giải quyết giữa các cơ
quan chuyên môn ở cấp huyện, cấp xã; giữa những chủ thể là cán bộ, công chức
được phân công nhiệm vụ quản lý đất đai và những cơng tác khác có liên quan
đến công tác quản lý đất đai đối với vụ việc đang tranh chấp (tư pháp, tài nguyên


11


môi trường,..). Các chủ thể này được phân công nhiệm vụ cơng tác của chính
quyền địa phương, khác biệt với những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán,
Kiểm sát viên) được pháp luật quy định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của
mình trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính được thực hiện theo
trình tự giải quyết vụ việc hành chính. Về nguyên tắc trong giải quyết các vụ
việc hành chính, tính “quyền uy” của Nhà nước đối với việc tham gia vào quá
trình giải quyết tranh chấp khác với giải quyết tranh chấp tại Tòa án - cơ quan
xét xử của quyền lực Nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp bằng thủ tục hành
chính là sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính trong việc đưa ra quyết định
giải quyết, khác với Tòa án độc lập thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Như phân tích ở đặc điểm trên, thành phần tham gia suốt quá trình giải
quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính là những chủ thể làm nhiệm vụ trong các
cơ quan hành chính nhà nước, việc quy định như vậy là phù hợp với bản chất
hoạt động giải quyết vụ việc hành chính. Khi có sự khác nhau về nguyên tắc giải
quyết, chủ thể có thẩm quyền tham gia giải quyết thì tất yếu trình tự, thủ tục giải
quyết cũng có những đặc trưng riêng.
Trình tự, thủ tục giải quyết ở đây bao gồm những nội dung về: nơi tiếp
nhận, xử lý đơn yêu cầu; chủ thể tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu; cụ thể từng thủ
tục sau khi thụ lý đơn yêu cầu giải quyết; thẩm quyền kiểm tra, xác minh, thu
thập các tài liệu chứng cứ... Đây là quy định xuyên suốt quá trình từ lúc tiếp
nhận đơn đến khi thi hành quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật. Theo đó,
đối với trình tự, thủ tục giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính được thực
hiện theo nhiều bước, có sự phối hợp của nhiều cơ quan chức năng trong cơ quan
hành chính cho đến khi kết thúc giải quyết tranh chấp.
1.1.3. Vai trò của giải quyết tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính

Kể từ sau khi Luật Đất đai năm 2013 chính thức có hiệu lực pháp luật,
công tác giải quyết TCĐĐ trên thực tế đã có nhiều chuyển biến, và bộc lộ một số

12


ưu điểm. Trong nội dung Luận văn, chúng tôi đưa ra một số vai trò của hoạt
động giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính như sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội.
Về mặt kinh tế, đất đai giữ vai trò cơ sở khơng gian và vị trí để hồn thiện
q trình lao động (xây dựng nhà cửa, vật kiến trúc, công trình cơng nghiệp,….);
là kho tàng dự trữ trong lịng đất (các ngành khai thác khống sản). Trong các
ngành nơng-lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của q trình sản xuất, là điều
kiện vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự
tác động của quá trình sản xuất như cày, bừa, đào xới....) và công cụ hay phương
tiện lao động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi...).
Về mặt xã hội, quá trình phát triển của xã hội lồi người từ thuở sơ khai
cho đến nay đều gắn liền với quá trình sử dụng đất đai trong chăn nuôi, sản xuất
cho đến sự phát triển khoa học – công nghệ dưới “nền móng” là đất đai. Kinh tế
xã hội phát triển mạnh,cùng với sự tăng dân số nhanh đã tạo nên sự căng thẳng
giữa con người với con người về ý chí sở hữu đất đai. Các cá nhân, tổ chức đã
không còn xem đất đai chỉ là nơi sinh sống, mà giờ đây đó cịn là sự khẳng định
vị thế kinh tế, đem lợi lợi ích vơ hình cho chủ thể sở hữu. Ở quy mô một quốc
gia, đất đai rộng lớn cùng với sự đa dạng về tài nguyên, địa thế thuận lợi đã trở
thành thế mạnh về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phịng cho một quốc gia và là
yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh
vật khác trên trái đất.
Chính từ mối quan hệ mật thiết giữa đất đai với tình hình kinh tế, xã hội
có thể đánh giá rằng việc giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính cũng như
các hình thức giải quyết khác đều có vai trị quan trọng trong sự ổn định về tình

hình kinh tế, chính trị và xã hội trong đất nước.
Thứ hai, giải quyết kịp thời mâu thuẫn trong xã hội
Tranh chấp đất đai xảy ra ảnh hưởng không chỉ các cá nhân mà còn cả các
thành viên trong gia đình, dịng họ, cộng đồng dân cư, v.v… Do đó, tính chất của

13


TCĐĐ rất phức tạp, quyết liệt hơn các loại tranh chấp khác dân sự thông thường
khác, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia tranh chấp
mà cịn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt
của đời sống kinh tế xã hội như: Tác động không tốt đến tâm lý, tinh thần của
các bên, gây nên sự căng thẳng, mất đoàn kết, mất ổn định trong nội bộ nhân
dân; làm cho những quy định của pháp luật đất đai cũng như những đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để; làm
cho việc giải quyết gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Do vậy, với những ưu điểm
vốn có trong thủ tục giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính, sẽ kịp thời giải
quyết các mâu thuẫn, hạn chế thấp nhất việc dẫn đến những vi phạm pháp luật
khác.
Đồng thời, việc giải quyết các TCĐĐ tại UBND sẽ nhanh gọn và ít tốn
kém vì UBND vừa là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai (với đội ngũ cán bộ
địa chính nắm bắt tình hình quản lý và sử dụng đất một cách chính xác và kịp
thời), vừa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết TCĐĐ cho nên việc xác minh,
thu thập chứng cứ cho việc giải quyết sẽ nhanh chóng và sát thực hơn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai nói chung
Trên thực tế chiếm một tỷ lệ không nhỏ các tranh chấp đất đai hiện nay là
tranh chấp mang tính chất hành chính. Nội dung tranh chấp hướng đến việc xác
định ai là chủ sở hữu hợp pháp quyền sử dụng đất. Một phần do nguyên nhân
lịch sử và thực tế hiện nay đang tồn tại việc chậm chạp trong hoạt động cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ở nước ta. Trong khi đó việc xác định ai là người

sử dụng đất hợp pháp lại thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về đất
đai chứ không phải trách nhiệm của ngành Tịa án. Vì vậy nếu chuyển giao tồn
bộ các tranh chấp đất đai cho cơ quan Tòa án thực hiện thì đối với các tranh chấp
về quyền sử dụng đất hợp pháp Tịa án khơng thể xác định việc này mà lại phải
chuyển giao vụ việc cho cơ quan quản lý nhà nước về đất đai xác định và chờ
đợi câu trả lời của các cơ quan này. Trên cơ sở đó, Tịa án mới tiếp tục thụ lý

14


xem xét giải quyết. Việc làm này mất rất nhiều thời gian trong khi đó tranh chấp
đất đai địi hỏi cần phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm nếu để kéo dài sẽ phát
sinh nhiều hệ quả tiêu cực gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã
hội. Do đó, giải quyết TCĐĐ bằng thủ tục hành chính góp phần bảo đảm chất
lượng giải quyết các TCĐĐ thuộc phạm vi của mình cũng như của Tịa án theo
trình tự, thủ tục tố tụng.
1.2. Thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự, nội dung và phạm vi giải quyết
tranh chấp đất đai bằng thủ tục hành chính
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Đây là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của Nhà nước được xem xét và
làm cơ sở quan trọng trong quá trình giải quyết. Việc giải quyết tranh chấp đất
đai nói chung và bằng thủ tục hành chính nói riêng phải tn theo một số nguyên
tắc cơ bản sau:
Một là, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu. Có thể hiểu đất đai khơng thuộc quyền sở hữu riêng của một tổ
chức hay cá nhân nào. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu. Việc sử dụng đất của các chủ thể sử dụng đất phải đảm bảo đúng quy
hoạch, kế hoạch, mục đích sử dụng đất, tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ môi
trường. Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản và xuyên suốt được quy định trong
Hiến pháp và pháp luật về đất đai thể hiện ý chí của Nhà nước trong q trình

quản lý đất đai. Do vậy, khi giải quyết các TCĐĐ, cơ quan có thẩm quyền giải
quyết phải xem đây là nền tảng pháp lý cơ bản để giải quyết.
Hai là, nguyên tắc đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích
kinh tế, khuyến khích tự hịa giải trong nội bộ quần chúng nhân dân. Thực hiện
nguyên tắc này, có nghĩa là hoạt động giải quyết TCĐĐ đã thể hiện được tư tưởng
đổi mới trong quá trình Nhà nước điều hành các quan hệ xã hội về đất đai. Theo
đó khi điều chỉnh các quan hệ tranh chấp này, về bản chất là điều chỉnh các quan
hệ dân sự cần chú ý các nguyên tắc của đạo luật này trong đó chú trọng sự hài hịa

15


về lợi ích, đồng thời khuyến khích sự tự nguyện giữa các bên. Đây cũng là điểm
mấu chốt để giải quyết các TCĐĐ. Có thể nói, đây là giải pháp hữu hiệu để giải
quyết tranh chấp đất đai. Nó vừa tiết kiệm thời gian, tiền của, thể hiện rõ nhất ý
chí của các bên, lại vừa giảm được áp lực cho các cơ quan giải quyết TCĐĐ.
Ba là, giải quyết TCĐĐ phải chú trọng sự ổn định tình hình kinh tế, xã
hội. Tất cả các TCĐĐ khi bắt đầu nảy sinh đã gây tác động nhiều đến đời sống
kinh tế xã hội ở nhiều mức độ khác nhau, đặc biệt với các loại tranh chấp giữa
người thân trong gia đình, khu dân cư đã tạo ra gánh nặng cho các cơ quan quản
lý nhà nước. Cùng với việc thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp của mình,
cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai phải đồng thời thực hiện các giải pháp
liên quan đến hoạt động sử dụng đất của người dân như tạo công ăn việc làm,
thực hiện những biện pháp mang tính vĩ mơ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa
phương để giúp định hướng và cả thiện đời sống nhân dân. Quán triệt áp dụng
nguyên tắc này trong giải quyết tranh chấp sẽ tạo tâm lý an tâm, hiệp đồng giữa
các bên tranh chấp cũng như hạn chế tâm lý tiêu cực, kích động trong một bộ
phận người dân.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, khi giải quyết tranh chấp đất đai
chúng ta còn phải tuân thủ một số nguyên tắc khác như: Thực hiện đúng việc

phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp; bảo vệ các giao dịch đã thiết lập
theo nguyên tắc tn thủ pháp luật, tơn trọng truyền thống, lợi ích cơng cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; tơn trọng tự do ý chí, tự do thỏa
thuận, thiện chí, trung thực và ngun tắc pháp chế; thơng qua hoạt động xét xử
loại việc này giáo dục pháp luật cho các đương sự và những người khác; thực
hiện nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Theo Luật Đất đai năm 2013 thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai gồm có cơ quan hành chính là UBND và cơ quan tư
pháp là Tòa án nhân dân. Tuy nhiên trước khi UBND hoặc Tòa án nhân dân giải

16


thụ lý giải quyết tranh chấp đất đai thì tranh chấp đất đai đó phải qua thủ tục hịa
giải ở cơ sở, nếu hịa giải khơng thành thì đương sự mới có quyền tiến hành thủ
tục giải quyết tranh chấp đất đai tiếp theo là UBND hay Tòa án nhân dân.
Ở nước ta, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai lần đầu tiên được quy
định theo ngành, theo cấp tại quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội
đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác
quản lý ruộng đất trong cả nước (Phần VII của quyết định số 201/CP ngày
01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng
cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước ). Theo đó, cơ quan hành pháp
có thẩm quyền giải quyết các trường hợp tranh chấp sau khi đã có ý kiến của cơ
quan quản lý ruộng đất cùng cấp và cơ quan chủ quản. Đối với những tranh chấp
đất đai giữa cơ quan nhà nước, tổ chức với nhau thì UBND cấp huyện có thẩm
quyền giải quyết, nếu tranh chấp trong phạm vi cùng huyện. Nếu các bên đương
sự thấy chưa được giải quyết thỏa đáng thì có quyền đưa lên UBND cấp tỉnh
xem xét và giải quyết; UBND hai huyện cùng giải quyết nếu tranh chấp mà
ruộng đất nằm trong hai huyện. Nếu hai huyện không nhất trí được với nhau thì

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết. Trường hợp hai tỉnh
khác nhau thì thành lập một ủy ban hỗn hợp với thành phần ngang nhau (gồm
một phó chủ tịch UBND tỉnh, đại diện cơ quan quản lý ruộng đất và các cơ quan
liên quan) để xét và giải quyết sau đó báo cáo thủ tướng chính phủ để biết.
Trường hợp khơng nhất trí thì trình lên Thủ tướng Chính phủ xét giải quyết. Đối
với các tranh chấp trong nội bộ nhân dân với nhau, nhất là những việc tranh chấp
có tính chất điều chỉnh ruộng đất giữa các hộ với nhau (căn cứ vào nhân khẩu và
diện tích bình qn đầu người) thì UBND xã bàn bạc với HTX hoặc nơi chưa có
HTX thì bàn với nơng hội để lãnh đạo nhân dân thương lượng với nhau. Nếu
UBND xã giải quyết không xong thì đưa lên UBND huyện giải quyết, trừ trường
hợp cần thiết phải đưa ra Tòa án giải quyết.
Theo Luật Đất đai năm 1987, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền

17


sử dụng đất của hệ thống cơ quan hành pháp (được quy định tại Điều 21) theo
nguyên tắc phân cấp giải quyết, phân chia đối tượng tranh chấp và quy định rõ
quyết định nào có hiệu lực thi hành để chấm dứt tranh chấp kéo dài. UBND xã,
thị trấn nơi có đất giải quyết tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá nhân. UBND
huyện nơi có đất giải quyết tranh chấp đất đai giữa cá nhân với tổ chức và giữa
các tổ chức thuộc quyền quản lý của mình. UBND quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh nơi có đất giải quyết tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá
nhân với tổ chức và giữa các tổ chức thuộc quyền quản lý của mình. UBND cấp
tỉnh nơi có đất giải quyết tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức và các tổ chức nếu
tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc trực thuộc trung ương. Trong
trường hợp không đồng ý với quyết định của UBND cấp đã giải quyết thì đương
sự có quyền khiếu nại lên cơ quan chính quyền cấp trên. Quyết định của cơ quan
chính quyền cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành. Tranh chấp đất đai liên quan
đến địa giới hành chính do UBND các đơn vị hành chính đó phối hợp giải quyết,

nếu khơng đạt được nhất trí thì giải quyết theo quy định của Hiến pháp 1980.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 38, Luật Đất đai 1993, UBND có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất
khơng có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể như sau:
UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các tranh chấp giữa
cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức, giữa tổ chức
với tổ chức, nếu các tổ chức đó thuộc thẩm quyền quản lý của mình. UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương giải quyết các tranh chấp giữa các tổ chức với
tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân, nếu tổ chức đó thuộc quyền quản
lý của mình hoặc của trung ương. Trong trường hợp không đồng ý với quyết
định của UBND đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên. Quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên
trực tiếp có hiệu lực thi hành. Điều 39 Luật này quy định các tranh chấp về
quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới giữa các đơn vị hành chính, do

18


UBND các đơn vị đó cùng phối hợp giải quyết. Trong trường hợp khơng đạt
được sự nhất trí hoặc tự giải quyết làm thay đổi địa giới hành chính, thì thẩm
quyền do Chính phủ quyết định nếu việc tranh chấp liên quan đến địa giới của
đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, do Quốc hội quyết định nếu việc tranh chấp liên
quan đến địa giới của đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
Theo Luật Đất đai năm 2013, tại Khoản 2 và khoản 3 Điều 203 quy định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của UBND khác với Luật Đất đai năm
2003. Nếu như về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của UBND theo Luật
Đất đai năm 2003 thì UBND bắt buộc phải có trách nhiệm phải giải quyết một số
trường hợp về tranh chấp đất đai, tuy nhiên kể từ ngày 01/7/2014 UBND khơng
phải bắt buộc là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai nữa.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai của UBND sẽ do một trong các bên tranh chấp
đất đai lựa chọn UBND là cơ quan giải quyết tranh chấp, khi đó UBND mới có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp. UBND sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai nếu được các bên lựa chọn trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, những tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp khơng có Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai, trường hợp các bên tranh chấp khơng có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013.
Như vậy về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của UBND đã có
những thay đổi rất đáng kể. Từ là cơ quan có trách nhiệm bắt buộc phải đi giải
quyết tranh chấp đất đai (theo Luật Đất đai năm 2003) thì hiện nay UBND khơng
phải là cơ quan bắt buộc có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai nữa mà
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của UBND đã được san sẻ cho Tòa án
nhân dân. Về thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh
cũng được quy định rõ ràng hơn trong Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể, khi đương
sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền, việc giải quyết

19


×