Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố bà rịa, tỉnh bà rịa vũng tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.75 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN NGOAN

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BÀ RỊA,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN NGOAN

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BÀ RỊA,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những
kiến thức của bản thân tơi có được trong q trình học tập, tham khảo,
nghiên cứu tài liệu và thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần
Hữu Tráng. Những nội dung của các tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú
theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Ngoan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ............. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội ....................................................................................................................... 9
1.2. Quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội 18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU ............ 28
2.1. Tình hình tội phạm ở thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu giai đoạn
từ năm 2014 – 2018 ......................................................................................... 28
2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tình
Bà Rịa – Vũng Tàu .......................................................................................... 32
2.3. Các yếu tố tác động góp phần hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
ở người phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa ............................................ 39
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHỊNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM Ở THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG
TÀU TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN ............................................................... 56

3.1. Quan điểm phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà nước cũng như của
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu ...................................................... 56
3.2. Tăng cường phịng ngừa tình hình tội phạm ở thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu từ góc độ nhân thân ................................................................. 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT

: An ninh trật tự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

TTXH

: Trật tự xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Bà Rịa là trung tâm hành chính của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
hiện đang là đơ thị loại II có diện tích 91.46 km² với dân số đến năm 2017
khoảng 150.319 người, gồm 11 đơn vị hành chính cấp xã trong đó bao gồm 8
phường: Phước Trung, Phước Hiệp, Phước Nguyên, Phước Hưng, Long Toàn,
Long Tâm, Kim Dinh, Long Hương, và 3 xã: Hòa Long, Long Phước, Tân
Hưng.
Thành phố Bà Rịa là một đầu mối giao thông của các tuyến quốc lộ 51,
52, 56 và tỉnh lộ 52, thuận lợi cho giao thơng bn bán, có đường ống khí đất
chạy qua, có điều kiện phát triển thương mại và những ngành cơng nghiệp sử
dụng khí đốt làm ngun liệu và nhiên liệu. Ngồi ra cịn là đơ thị hành chính

và dịch vụ thương mại giữ vai trò trọng yếu để thực hiện kết nối vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam và khu vực, cũng như hành lang phát triển công nghiệp
của tuyến quốc lộ 51, với tiềm năng phát triển dầu khí, khí đốt, du lịch, dịch
vụ đã và đang tạo nên chuyển biến khởi sắc về kinh tế, góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân thành phố.
Bên cạnh những mặt tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội thì
trong những năm gần đây, tình hình an ninh chính trị, TTATXH trên địa bàn
thành phố vẫn còn những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ mất an
toàn. Trong 06 tháng đầu năm 2018 trên địa bàn thành phố xảy ra 35 vụ phạm
pháp hình sự, giảm 18 vụ so với cùng kỳ năm 2017. Công an thành phố đã
điều tra phá được 25 vụ, bắt 33 đối tượng, đạt tỷ lệ phá án trên 71,4%, riêng
đối với án đặc biệt nghiêm trọng đạt 100%. Đối với tội phạm ma tuý, công an
thành phố đã triệt phá 13 vụ gồm 16 đối tượng mua bán, tàng trữ trái phép
chất ma tuý. Lập hồ sơ khởi tố 12 vụ mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy
gồm 11 bị can, xử phạt hành chính 142 đối tượng sử dụng trái phép chất ma
1


túy; đưa 34 đối tượng vào trung tâm giáo dục, lao động dạy nghề tỉnh, áp
dụng nghị định 111 của chính phủ giáo dục tại địa phương 40 đối tượng.
Theo số liệu thống kê của tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa trong 05
năm 2014 – 2018, tòa án đã đưa ra xét xử là 499 vụ với 758 bị cáo. Vấn đề
được chính quyền thành phố Bà Rịa đặt ra trong thời gian sắp tới là tiếp tục
kiềm chế và giảm các vụ vi phạm pháp luật về TTATXH nhất là tội trộm cắp
tài sản, tội đánh bạc, cố ý gây thương tích, tội phạm về ma túy, giảm các loại
tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng trên địa bàn. Tiếp tục đẩy
mạnh, nâng cao hiệu quả công tác điều tra khám phá tội phạm, giải quyết tin
báo tố giác tội phạm; Tăng cường các biện pháp đấu tranh, trấn áp tội phạm, vi
phạm pháp luật về ma túy, nhanh chóng phát hiện và triệt phá đối tượng mua
bán, tàng trữ trái phép các chất ma túy hoạt động trên địa bàn thành phố; rà

soát, xóa các tụ điểm ma túy, tệ nạn xã hội trên địa bàn; tăng cường công tác
phối hợp quản lý người nghiện, quản lý sau cai nghiện tại cộng đồng dân cư.
Để đấu tranh phịng, chống có hiệu quả với các loại tội phạm trên địa
bàn thành phố Bà Rịa thì một vấn đề quan trọng là cần nhận thức đúng đắn về
ý nghĩa, đặc điểm của nhân thân người phạm tội, bởi nhân thân người phạm
tội giữ vai trò quan trọng trong cơ chế thực hiện hành vi phạm tội. Ý thức
được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của nhân thân người phạm tội trong
cơ chế thực hiện hành vi phạm tội nên chính quyền thành phố Bà Rịa đã rất
chú trọng đến vấn đề nhân thân người phạm tội trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự. Bắt đầu từ giai đoạn nhận đơn tố giác, thu thập, khai thác thông
tin, điều tra, truy tố đến xét xử, thì các cơ quan tiến hành tố tụng luôn nghiên
cứu làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội làm căn cứ để tìm ra
nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm; để định tội danh, định
khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, phịng ngừa tình hình tội
phạm cũng như để đưa ra các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội có
hiệu quả nhất.
2


Tuy nhiên, trước đây việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội
ở thành phố Bà Rịa mới chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân, yêu cầu mục đích của
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm địi hỏi việc nghiên cứu nhân
thân người phạm tội không chỉ dừng ở mức độ cá nhân mà phải khái quát ở
mức độ nhóm và cao hơn là mức độ tình hình tội phạm để nhận thức đúng đắn
nguyên nhân của tình hình tội phạm và đề xuất được các giải pháp tăng cường
phịng ngừa tình hình tội phạm một cách hiệu quả nhất. Xuất phát từ lí do đó,
cũng như xuất phát từ yêu cầu của hoạt động đấu tranh phịng, chống tội
phạm của các cấp chính quyền ở thành phố Bà Rịa, tác giả đã lựa chọn đề tài:
"Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu" làm đề tài luận văn cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể chia các cơng trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội thành
hai nhóm như sau:
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu làm rõ lý luận về nhân thân người
phạm tội
Thuộc về nhóm này có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
sau đây:
- Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học
Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2011;
- Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Trường Đại hoc Luật Hà
Nội, năm 2012, tái bản năm 2013, 2015;
- Giáo trình tội phạm học của Học viện Cảnh sát nhân dân,
Nxb.CAND, 2002, 2013;
- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập
thể tác giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000;
- Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, do GS.TS Nguyễn Văn Cảnh
và PGS.TS Phạm Văn Tỉnh chủ biên, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2013;
3


- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân
người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhân lực
khoa học xã hội, tạp chí nhà nước và pháp luật, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp
chí Kiểm sát, tạp chí TAND, CAND trong những năm gần đây.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những
vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân
người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số
khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội… tác giả sẽ tiếp thu và kế
thừa những quan điểm trên.

* Những cơng trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài
Thuộc nhóm này có các cơng trình nghiên cứu như:
- Phạm Un Thy (2015) “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận
7, TP. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
- Cao Văn Thiên (2018) “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận
Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
- Nguyễn Thị Cẩm (2017) “Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc
sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
- Nguyễn Văn Tùng (2018) “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài
sản trên địa bàn Quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội.
- Lê Đình Tồn (2017) “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
Các tác giả trong các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích làm rõ vai
trò của nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội
danh và trong quy định liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự, một số tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm nhân thân người
4


phạm tội gắn với một số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội cố ý gây
thương tích, tội trộm cắp tài sản, tội cướp giật tài sản, các tội phạm về ma
tuý…Những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những tri
thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả có thể kế thừa trong quá trình nghiên
cứu làm đề tài của mình.
Tuy nhiên chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về nhân
thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
vì vậy trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người
phạm tội cũng như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội

trong các loại tội, nhóm tội ở các địa phương nhất định trong các cơng trình
của các tác giả kể trên, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân
người phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa. Từ nền tảng lý luận về nhân
thân vận dụng vào thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Bà Rịa
giai đoạn 2014 - 2018, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm rõ thực tiễn về nhân
thân người phạm tội gắn với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá, đạo đức,
truyền thống... của người dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ
đó kiến nghị các giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc độ nhân thân người
phạm tội, đây chính là hướng nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ thực trạng về nhân thân
người phạm tội, đi sâu vào nghiên cứu phân tích các ngun nhân hình thành
đặc điểm nhân thân xấu của những người phạm tội, luận văn hướng đến mục
đích đề xuất các giải pháp tăng cường tăng cường phịng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc độ nhân
thân người phạm tội từ năm 2014 đến năm 2018.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm
tội bao gồm: tìm, thu thập, nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về
pháp luật hình sự.
Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn, bao gồm tìm kiếm, thu thập, xử lý, phân
tích so sánh những số liệu thống kê thường xuyên xét xử sơ thẩm hình sự từ

năm 2014 - 2018 của Tồ án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu.
Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc độ nhân
thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân người phạm tội trên địa
bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Để nghiên cứu được nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố
Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đề tài dựa trên các số liệu thống kê của các
cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu giai đoạn 2014 – 2018 cũng như trên cơ sở kết quả nghiên cứu 100 bản
án xét xử sơ thẩm với 150 bị cáo của TAND thành phố Bà Rịa giai đoạn 2014
- 2018 được sưu tầm một cách ngẫu nhiên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc Tội phạm học và
phịng ngừa tội phạm, từ thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố
Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2014 - 2018. Chất liệu nghiên cứu
được dựa trên số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn
6


thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2014 - 2018 cũng như
trên cơ sở kết quả nghiên cứu 100 bản án với 150 bị cáo xét xử sơ thẩm của
TAND thành phố Bà Rịa giai đoạn 2014 - 2018 được sưu tầm một cách ngẫu
nhiên. Theo quy định tại Điều 268 BLTTHS năm 2015 hiện hành thì có một
số vụ án xảy ra ở thành phố Bà Rịa nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoặc tuy thuộc thẩm quyền của TAND thành
phố Bà Rịa nhưng TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thấy cần thiết lấy lên để xét

xử. Luận văn sẽ không nghiên cứu những vụ án tuy xảy ra ở thành phố Bà Rịa
nhưng được TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước ta trong lĩnh vực phòng
ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học
phù hợp với từng nội dung nghiên cứu, cụ thể:
- Phương pháp biện chứng, mô tả, tổng hợp, nghiên cứu lý luận, tài
liệu, tiếp thu thông tin… để làm rõ lý luận nhân thân người phạm tội.
- Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch, suy luận logic,
nghiên cứu bản án, nghiên cứu điển hình, thống kê…được sử dụng để làm rõ
các đặc điểm nhân thân người phạm tội.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic…được
sử dụng để nhằm đưa ra các giải pháp tăng cường phịng ngừa tội phạm dưới
góc độ nhân thân người phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
7


Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu nhân thân người
phạm tội trên địa bàn thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn
2014 - 2018. Dựa trên sự phân tích lý luận và ứng dụng vào thực tiễn tình
hình tội phạm trên địa bàn thành phố Bà Rịa, luận văn đưa ra những luận giải,
những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn trong cơng tác phịng, chống tình hình tội phạm trên địa bàn

thành phố Bà Rịa từ góc độ nhân thân người phạm tội. Kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hồn thiện lý luận tội phạm học nói chung
và lí luận phịng, chống tội phạm nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp được đề xuất trong đề tài sẽ là cơ sở để nghiên cứu và
vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng, chống tội phạm trên
địa bàn thành phố Bà Rịa.
Kết quả nghiên cứu cũng là những tài liệu tham khảo sử dụng trong các
cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về nhân thân người phạm tội.
Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố
Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm ở
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc độ nhân thân.

8


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội
Khái niệm nhân thân người phạm tội được hình thành từ khái niệm
“nhân thân” và khái niệm “người phạm tội” [28, tr.147], Do vậy trước khi
nghiên cứu khái niệm nhân thân người phạm tội chúng ta cần phải tìm hiểu
khái niệm của xã hội học về nhân thân con người, theo từ điển tiếng Việt nhân

thân con người được định nghĩa là “Tổng hợp các đặc điểm về nhân thế, tính
cách và cuộc sống của cá nhân một con người về mặt thi hành pháp luật” [47,
tr.45]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nhân thân con người là
một phạm trù lịch sử - xã hội, nó là sản phẩm của một thời đại nhất định,
được quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội, mỗi
thời đại khác nhau sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở
thời đại nào thì bản chất con người ln ln là “tổng hịa những mối quan hệ
xã hội” [6, tr.150].Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong
lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, yếu tố sinh học trong con người là điều
kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người, yếu tố xã hội của con người
biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu
hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Vì vậy nhân thân của một
con người là sự thống nhất giữa các yếu tố xã hội và yếu tố sinh học, trong đó
yếu tố xã hội mang tính chất quyết định hoặc có thể hiểu nhân thân con người
là tất cả các đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội có liên quan đến một con
người, thể hiện bản chất riêng của họ.
Hiện nay, có nhiều ngành khoa học pháp lý khác nhau định nghĩa về
9


nhân thân người phạm tội như luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học,
xã hội học… mỗi ngành sẽ có cách nghiên cứu, tiếp cận ở mỗi khía cạnh khác
nhau và có những ý nghĩa khác nhau, tiếp cận dưới góc độ luật hình sự thì
nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc
điểm riêng biệt của người phạm tội đối với giải quyết đúng đắn vấn đề trách
nhiệm hình sự của người đó [26, tr.127]. Trong tội phạm học nghiên cứu
nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của
người phạm tội ở địa bàn hành chính - lãnh thổ nhất định trong một khoảng
thời gian nhất định về các mặt tâm- sinh lý- xã hội, nhân khẩu, nhân chủng

học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực cho việc xác định
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phịng ngừa tội phạm
phù hợp [12, tr.348].
Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu con
người phạm tội cụ thể “Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người
phạm tội chứ khơng phải là con người nói chung, người phạm tội là người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [28,
tr.149]. Tuy con người được sinh ra không phải để trở thành người phạm tội,
nhưng con người có khả năng để trở thành người phạm tội, khi mà trong quá
trình sinh sống trong xã hội của người đó gặp phải những điều kiện hồn cảnh
khơng thuận lợi, từ đó hình thành các đăc điểm nhân thân tiêu cực và khi gặp
những tình huống bên ngồi thuận lợi sẽ dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.
Những dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội bao gồm tất
cả các đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội mà luật hình sự quy
định là chủ thể của tội phạm, như vậy khái niệm nhân thân người phạm tội là:
“Tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết
hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội
của người đó” [40, tr.131].

10


1.1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội
Trong lý luận tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội
được chia thành ba nhóm: Nhóm đặc điểm sinh học, nhóm đặc điểm tâm lý và
nhóm đặc điểm xã hội [17, tr.150]. Sau đây, chúng ta sẽ làm rõ các nhóm đặc
điểm nhân thân người phạm tội:
1.1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học
Khi nghiên cứu các đặc điểm sinh học của người phạm tội chính là việc
chúng ta nghiên cứu về độ tuổi, giới tính, dân tộc, quốc tịch của người phạm

tội [17, tr.152], nghiên cứu đặc điểm giới tính người phạm tội, tội phạm học
tập trung xác định hai nội dung: thứ nhất là tỉ lệ phạm tội của nam giới và nữ
giới thực hiện, thứ hai là đặc trưng của giới tính có ảnh hưởng như thế nào
đến cơ chế hành vi phạm tội.
Thực tế qua nghiên cứu tình hình tội phạm ở nước ta cho thấy số lượng
giữa nam giới và nữ giới phạm tội có khác nhau, việc nam giới phạm tội
nhiều hơn nữ giới ở đây có thể hiểu là do những điều kiện hình thành nên
phẩm chất cá nhân và sự tiếp nhận về mặt giáo dục, xã hội của nam giới có
những đặc điểm khác với nữ giới, nam giới và nữ giới đều bình đẳng như
nhau trong việc tiếp nhận giáo dục, đồng thời họ cùng có khả năng nhận thức
như nhau, tuy nhiên trong gia đình người Việt từ xưa vẫn luôn coi trọng nam
giới hơn nữ giới, mong muốn sinh cho được con trai vẫn trong nếp nghĩ của
nhiều gia đình, vì vậy nam giới sẽ được nng chiều hơn, trong khi khả năng
kiểm soát và kiềm chế hành vi của nam kém hơn nữ nên dễ bị tác động bởi
các yếu tố từ môi trường sống, dễ phát sinh tâm lý tiêu cực hơn nữ giới, dễ bị
ảnh hưởng bởi các thói hư, tật xấu, dễ bị tiêm nhiễm bởi các tệ nạn xã hội.
Độ tuổi ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển nhân
cách trong đặc điểm nhân thân người phạm tội. Yếu tố lứa tuổi của người
phạm tội ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm cũng xuất phát từ các đặc
điểm thể chất, tâm lý, xã hội của mỗi lứa tuổi khác nhau. Trong đó, vai trị vị
11


trí xã hội của mỗi độ tuổi ln ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn
phương thức thủ đoạn thực hiện tội phạm. Dấu hiệu về độ tuổi của người
phạm tội cho phép nói lên các đặc điểm xử sự trái pháp luật của những người
ở những độ tuổi khác nhau, cũng như tính chất riêng biệt của cơ cấu về độ
tuổi của các nhóm người phạm tội khác nhau.
Độ tuổi của người phạm tội thường được chia thành 04 nhóm: nhóm
người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi; nhóm người từ 18 đến 30 tuổi; nhóm người

từ 30 đến 45 tuổi; nhóm người trên 45 tuổi. Theo cách phân nhóm này, những
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có khả năng nhận thức
pháp luật cịn nhiều hạn chế, chưa có sự phát triển tồn diện về tâm sinh lý,
chưa nhận thức hết hành vi nguy hiểm của mình và phần lớn đều là dân nhập
cư, bỏ học sớm, bị gia đình bỏ rơi... những người trong độ tuổi từ 18 đến 30
tuổi là những người đã hoàn thiện về tâm sinh lý. Tuy nhiên, lứa tuổi này
đang trong giai đoạn học tập, định hướng nghề nghiệp, cuộc sống chưa ổn
định, muốn khẳng định mình, nên diễn biến tâm lí khơng ổn định và cũng dễ
bị tác động của môi trường xã hội xung quanh. Lứa tuổi từ 30 tuổi đến 45 tuổi
là lứa tuổi chín chắn, có suy nghĩ và hành động cẩn trọng, ở độ tuổi này, con
người thường đã ổn định về gia đình, nghề nghiệp, tích lũy được kinh nghiệm
sống, khả năng tự kiềm chế cao nên ít chịu ảnh hưởng của mơi trường sống
hơn các nhóm lứa tuổi khác. Lứa tuổi trên 45 là lứa tuổi đã hạn chế trong suy
nghĩ và hành động, con người trong độ tuổi này thường bằng lòng với cuộc
sống hiện tại, ngại thay đổi, thậm chí càng già, những đặc điểm tâm lý lại biến
đổi theo chiều hướng tiêu cực, như bảo thủ, không tuân theo ý kiến của ai....
Sự khác nhau trong cơ cấu tội phạm do những người phạm tội ở độ tuổi khác
nhau thực hiện có sự ảnh hưởng nhất định trong quá trình tồn tại của con
người, sự hình thành nhân cách trong từng giai đoạn phát triển của mỗi cá
nhân và nhiệm vụ của tội phạm học cần phải nghiên cứu tác động của từng
nhóm lứa tuổi trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, có vai trò
12


quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội.
1.1.2.2. Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lý
Khi nghiên cứu nhóm đặc điểm về nhận thức, tâm lý của nhân thân
người phạm tội, người nghiên cứu thường tập trung vào các đặc trưng về trình
độ học vấn, nhu cầu, động cơ, mục đích phạm tội, ý thức pháp luật của người
phạm tội.

Trình độ học vấn phản ánh sự phát triển lý trí và hình thành nhân cách,
tạo cho con người cịn có thể lựa chọn được cách ứng xử đúng với các chuẩn
mực xã hội, trình độ học vấn của con người cao thì mức độ nhận thức, hiểu
biết về xã hội, pháp luật cao và khả năng kiểm soát, kiềm chế hành vi của
mình tốt hơn do biết hành vi xử sự nào là trái pháp luật cần phải tránh thực
hiện nên ít dẫn đến phạm tội, ngược lại người có trình độ học vấn thấp thường
đi kèm với trình độ nhận thức và hiểu biết về pháp luật kém nên khả năng
kiềm chế và kiểm soát được hành vi của mình trong những tình huống cụ thể
kém. Nhiều vụ án xảy ra do người phạm tội thiếu hiểu biết về pháp luật, nhận
thức về xã hội còn hạn chế.
Nhu cầu là động lực phát triển của mỗi con người, nhu cầu của con
người đa dạng và vô cùng bao gồm nhiều mặt như nhu cầu về kinh tế, về văn
hóa, chính trị, danh vọng, dục vọng… Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống
tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng, nó thúc đẩy con người
hoạt động, nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối hành vi của con người
càng cao. Đối với đặc điểm về nhu cầu của nhân thân người phạm tội, tội phạm
học tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của nhu cầu đối với việc làm phát sinh động
cơ và ảnh hưởng của nhu cầu lên hành vi, lên cách xử sự của con người khi nó
khơng được thỏa mãn, mỗi cá nhân trong xã hội có sự khác biệt nhau bởi tính
chất, nội dung của nhu cầu cũng như các biện pháp để thỏa mãn nhu cầu.
Chúng ta thấy rằng động cơ phạm tội là động lực bên trong con người
thúc đẩy họ phạm tội, được hình thành trên cơ sở nhu cầu của con người, khi
13


nhu cầu của con người đã được nhận thức đầy đủ và có khả năng thực hiện thì
nó sẽ trở thành động cơ…Mục đích phạm tội là yêu cầu cần đạt được và
mong muốn đạt được khi một người thực hiện hành vi phạm tội [6, tr.180].
Khi thực hiện hành vi phạm tội, nếu động cơ phạm tội càng mãnh liệt, mục
đích phạm tội càng rõ ràng thì tính chất của tội phạm càng nguy hiểm và hậu

quả của tội phạm càng nghiêm trọng. Vì vậy, nghiên cứu động cơ, mục đích
phạm tội vừa góp phần làm rõ ngun nhân thực hiện tội phạm, đồng thời
cũng giúp cho việc đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, từ đó giúp cho việc tìm ra những biện pháp tác động
tích cực nhằm loại trừ động cơ phạm tội, ngăn cản mục đích tội phạm, hạn
chế đến mức thấp nhất hậu quả mà người phạm tội có thể gây ra cho xã hội,
những người phạm tội đại đa số xuất phát từ động cơ vụ lợi, với mục đích
nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích cá nhân, hẹp hịi, ích kỉ, thích hưởng thụ.
1.1.2.3. Nhóm đặc điểm xã hội
Nhóm các đặc điểm xã hội của nhân thân người phạm tội gồm các yếu
tố như: hồn cảnh gia đình, nghề nghiệp, nơi cư trú [17, tr.125].
Hồn cảnh gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành những
phẩm chất tâm lý tiêu cực của con người, nếu hồn cảnh gia đình khơng thuận
lợi thì nó sẽ tác động đến cá nhân để dần hình thành các đặc điểm nhân thân
tiêu cực trái với các chuẩn mực giá trị đạo đức. Chính gia đình giữ vai trị
kiểm sốt, giám sát hành vi của những thành viên trong gia đình, hạn chế đến
mức tối đa sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực phát sinh trong mỗi
con người, nghiên cứu các khiếm khuyết trong gia đình vì thế có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xác định các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân
thân tiêu cực của người phạm tội.
Nghề nghiệp của người phạm tội có vị trí quan trọng khi phân tích đặc
điểm nhân thân của người phạm tội, địa vị xã hội cao và nghề nghiệp ổn định
sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân cách con người, đồng
14


thời bảo đảm cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các mâu thuẫn
xã hội mà trực tiếp là kinh tế khi cần thiết. Đa số những người phạm tội là
những người khơng có nghề nghiệp ổn định, khơng có địa vị trong xã hội,
thuộc thành phần lười lao động, lười học tập, chỉ muốn sống dựa dẫm vào

người khác, ăn bám vào người khác, mong muốn giàu có nhưng khơng có
thực lực, họ chỉ mong và bằng mọi cách kiếm ra tiền nhanh nhất mà không
cần phải lao động. Tuy nhiên, cũng phải kể đến các trường hợp có việc làm ổn
định, có địa vị trong xã hội rồi nhưng vẫn phạm tội chỉ vì nhận thức lệch lạc,
bị thối hóa, biến chất, vụ lợi muốn thu vén của cải cho bản thân và gia đình,
ví dụ như những quan chức có điạ vị cao vì mưu cầu lợi ích cá nhân nên vẫn
phạm các tội tham nhũng.
Nơi cư trú, nơi sinh sống có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình trạng phạm
tội nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng, bản chất nơi cư trú đã chứa đựng
các điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa, truyền thống đặc thù, những yếu tố
này phần nào tác động đến quá trình hình thành nhân cách người phạm tội.
Được sống ở một nơi mà môi trường yên bình, trật tự an ninh tốt, tình làng
nghĩa xóm ln được nêu cao, lối sống văn hóa của mỗi thành viên lành mạnh
thì động cơ, mục đích phạm tội rất thấp và ngược lại nếu sống ở trong một
cộng đồng tồn những người phạm pháp, tệ nạn xã hội thì nguy cơ phạm tội
cũng tăng cao.
1.1.2.4. Các đặc điểm pháp lý hình sự của người phạm tội
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nghiên cứu nhân thân của con
người đã từng ít nhất một lần phạm tội, hành vi phạm tội của người đã có tiền
án, tiền sự thực hiện khi nào cũng có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
cao hơn nhiều so với người mới phạm tội lần đầu, ở họ đã có nhiều cách thức
đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cho nên trách nhiệm hình sự mà họ
phải chịu cũng phải nặng hơn người mới phạm tội lần đầu. Tiền án, tiền sự,
tái phạm, tái phạm nguy hiểm là những dấu hiệu thể hiện tâm lý chống đối xã
15


hội, coi thường luật pháp, cố ý xâm hại lợi ích của nhà nước, của tập thể và
của cá nhân. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm
khơng chỉ giúp nhận thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội mà còn giúp hiểu rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm cũng như có cơ
sở trong việc đề ra các giải pháp phịng ngừa hữu hiệu, một số đặc điểm pháp
lý hình sự trong nhân thân người phạm tội như động cơ, mục đích phạm tội,
thể hiện ý thức phạm tội của người phạm tội, Vì vậy nghiên cứu các đặc điểm
này giúp hiểu rõ được ý thức phạm tội của người phạm tội và nguyên nhân
phát sinh tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp phịng ngừa hữu hiệu.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người
phạm tội
Thứ nhất: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội giúp làm sáng tỏ
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là những đặc điểm cá nhân của
người phạm tội và những tình huống khách quan bên ngồi trong sự tác động
lẫn nhau của chúng dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Việc phân tích các
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không thể nhận
thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc
nhân thân người phạm tội [40, tr.127].
Chính vì vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ cho thấy rõ
những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ mơi trường tác động thế nào đến sự
hình thành nhân cách, đạo đức, đến quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội,
nói cách khác nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ cho phép xác định
được nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Thứ hai: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội giúp cho việc định tội,
định khung và quyết định hình phạt chính xác
Q trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra đa dạng và
phức tạp, được thể hiện ở ba giai đoạn: định tội danh, định khung hình phạt và
16


quyết định hình phạt. Trong đó định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất
trong ba giai đoạn trên của tồn bộ q trình áp dụng pháp luật hình sự, bởi vì

định tội danh được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Đây là việc xác định một
hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm của tội nào trong số các tội đã được quy định trong bộ luật hình sự.
Theo khoa học luật hình sự: “nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố
bắt buộc cấu thành tội phạm nhưng trong q trình đánh giá tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội và xác định trách nhiệm pháp lý của người phạm
tội đó thì cần phải xem xét những đặc điểm, dấu hiệu về nhân thân của người
phạm tội được cân nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự
(cá thể hóa hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt)”
[39, tr.245].
Ngồi ý nghĩa định tội, định khung hình phạt, các dấu hiệu nhân thân
của người phạm tội còn phản ánh mức độ nguy hiểm khác nhau của các
trường hợp cụ thể nhất là trong khung hình phạt; phản ánh khả năng cải tạo,
giáo dục của người phạm tội và qua đó phản ánh mức độ trách nhiệm hình sự
của người phạm tội. Do vậy, các dấu hiệu nhân thân người phạm tội được bộ
luật hình sự quy định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự được quy định tại điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Những tình tiết
thuộc về nhân thân người phạm tội tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy
định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015: cố tình thực hiện tội phạm đến
cùng; (Tình tiết này có thể được hiểu là người phạm tội ngoan cố thực hiện
hành vi phạm tội đến cùng mặc dù đã được ngăn cản, khuyên ngăn); Phạm tội
02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, thông qua các tình tiết này
giúp chúng ta có thể nhận thức đúng đắn về nhân thân người phạm tội. Tuy
nhiên nếu các tình tiết trên đã được Bộ luật hình sự năm 2015 quy định là dấu
17


hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì khơng được coi là tình tiết tăng

nặng. Khi bị cáo có các tình tiết tăng nặng hình phạt được nêu ở trên Hội
đồng xét xử có thể quyết định hình phạt ở mức cao nhất của khung hình phạt.
Thứ ba: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội giúp xây dựng biện
pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội
Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội để có hình thức,
phương pháp giáo dục, quản lý người phạm tội một cách hợp lý và hiệu quả,
cần phải dựa vào các đặc điểm nhân thân người phạm tội để phân loại người
phạm tội nhằm áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng
nhóm người có các đặc điểm nhân thân khác nhau, nhằm cải thiện hoặc loại
trừ các nhân thân tiêu cực có vai trị quan trọng đối với việc phát sinh tội
phạm, từ đó có thể giáo dục họ trở thành người tốt, không tái phạm tội.
Thứ tư: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng
trong phòng ngừa tội phạm
Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, những kết quả nghiên cứu nhân
thân người phạm tội sẽ cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phịng
ngừa thích hợp như phát động quần chúng xây dựng phong trào tồn dân tham
gia phịng ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã
hội, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tuyên truyền
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật sử dụng đồng bộ các biện pháp để phòng
ngừa, ngăn chặn, trấn áp kịp thời và kiên quyết đối với các loại tội phạm nguy
hiểm như: tội phạm có tổ chức, tội phạm tham nhũng, buôn lậu, tội phạm giết
người, cướp tài sản, tội phạm xâm hại trẻ em.
1.2. Quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người
phạm tội
GS.TS Võ Khánh Vinh đã khẳng định: “Nhân thân người phạm tội là
một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi phạm tội”
[40, tr.127].
18



Trong những tình huống tiêu cực thuận lợi kết hợp với các đặc điểm
nhân thân xấu của con người sẽ dễ phát sinh hành vi phạm tội và ngược lại
những người có đặc điểm nhân thân tốt thì dù rơi vào những hoàn cảnh tiêu
cực thuận lợi đến đâu chăng nữa, họ vẫn có những lựa chọn và xử sự tích cực,
khả năng kiểm sốt và kiềm chế hành vi cao nên dễ dàng tránh được hành vi
phạm tội [40, tr.130].
1.2.1. Vai trò của các yếu tố khách quan
1.2.1.1. Các yếu tố tiêu cực thuộc mơi trường gia đình
Có thể nói trong các yếu tố từ mơi trường sống thì gia đình là yếu tố có
ảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong thời
kì thơ ấu, bởi kể từ khi mới sinh ra gia đình là mơi trường đầu tiên mà những
đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng mới bước đầu dần được hình thành,
do đó, những đứa trẻ sẽ học hỏi, bắt chước những hành vi của những người
xung quanh nó, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt.
Thông thường, quá trình học hỏi, bắt chước hành vi xấu của trẻ diễn ra
nhanh hơn, dễ dàng hơn so với bắt chước hành vi tốt. Càng lớn, đứa trẻ càng
khao khát khám phá thế giới xung quanh, vì vậy quá trình nhận thức cũng như
học hỏi, bắt chước dần mở rộng phạm vi khơng cịn dừng lại ở các thành viên
trong gia đình nữa mà bắt đầu vươn ra thế giới bên ngoài, tuy nhiên nhận
thức, lối sống của trẻ vẫn mang dấu ấn của việc ảnh hưởng từ các thành viên
trong gia đình. Do đó, nếu như đứa trẻ sống trong mơi trường gia đình an
tồn, lành mạnh, ln chú trọng vào giáo dục nhân cách cho trẻ, hướng trẻ
sống thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, cơng việc thì sẽ hạn
chế hiệu quả việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, sống
trong mơi trường gia đình khơng an tồn, khơng lành mạnh thì có thể tác
động, ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân.
Những yếu tố tiêu cực, hạn chế trong mơi trường gia đình có các biểu hiện cụ
thể như sau:
19



Thứ nhất, do gia đình khuyết thiếu: Đối với trẻ sống trong một gia đình
như vậy ln có những áp lực tâm lý tiêu cực gây cho trẻ các tâm trạng như
ln cảm thấy thiếu thốn tình cảm, cơ đơn, tự ti, chán nản, thiếu hụt… Nếu trẻ
có bản lĩnh thì dù rất đau khổ vì sự mất mát đó thì vẫn có thể vượt qua sau
một thời gian, nhưng phần lớn trẻ bị tổn thương nặng nề về tâm lý, nhất là
những đứa trẻ sống trong cảnh gia đình nghèo túng, vì tương lai của các em
mình, trẻ đi kiếm tiền, lúc đầu là lương thiện nhưng dần dần nếu khơng có sự
giúp đỡ của gia đình, xã hội, trẻ dễ hành động liều lĩnh dẫn tới phạm pháp.
Với những trẻ bị bỏ rơi, khơng người chăm sóc, khơng nơi nương tựa, đây là
những đứa trẻ đã mang sẵn trong suy nghĩ sự “bị vứt bỏ”. Hậu quả tất yếu xảy
ra đối với những đứa trẻ bất hạnh là sự đau khổ, sự dồn nén, sự bất cần đời,
chúng muốn đập phá, muốn trả thù đời theo cách riêng của mình. Cũng chính
vì thế mà khơng ít trẻ bỏ nhà đi lang thang, bụi đời, xoá nỗi đau bằng cách
tham gia các nhóm, băng đảng phạm pháp, lao vào cờ bạc, rượu chè, tiêm
chính và cuối cùng là phạm tội.
Thứ hai, gia đình khơng hạnh phúc, thường xun cãi, chửi, đánh
nhau: Chính cách xử sự này của bố mẹ đã gây ra cho trẻ những khủng hoảng
về mặt tâm lý như trẻ trở nên thiếu tự tin, rụt rè, khó hồ nhập với cơng đồng,
một số khác thì trở nên lỳ lợm, hung hăn, bướng bỉnh, chán nản bất cần đời,
dẫn tới việc bỏ nhà sống lang thang bụi đời, kết thành băng nhóm quậy phá,
sa chân vào nghiện ngập rồi trượt dài theo con đường phạm tội là điều khơng
thể tránh khỏi.
Thứ ba, gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái, q
nng chiều con cái: Cha mẹ buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con
cái phát triển tự nhiên hoặc phó thác việc giáo dục trẻ con cho nhà trường và
xã hội. Khi phát hiện trẻ có những biểu hiện sai trái đã không uốn nắn kịp thời
mà vẫn thờ ơ, không quan tâm, thậm chí cịn dung túng. Sự q nng chiều,
thỏa mãn mọi nhu cầu của bố mẹ sẽ tạo nên thói quen địi gì được nấy. Bên
20



×