Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.9 MB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HÒA

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HÒA

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH DƯƠNG

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG

Hà Nội, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng và chính xác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI .........................................7
1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm ..................................................................7
1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người ...........................................................................................................................8
1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người11
1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm của con người .........................................................................................16
Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
GIAI ĐOẠN 2014 - 2018........................................................................................21
2.1. Khái qt tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...21
2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo
các đặc điểm nhân thân .............................................................................................23
2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội
xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...............................................26
Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

ĐỐI VỚI PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA
CON NGƯỜI ...........................................................................................................40
3.1. Quan điểm phịng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên
địa bản tỉnh Bình Dương ...........................................................................................41
3.2. Tăng cường phịng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh
Bình Dương từ góc độ nhân thân người phạm tội ....................................................43
KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT

: An ninh trật tự

BLHS

: Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
TAND

: Tòa án nhân dân

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

UBND


: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XPNP

: Xâm phạm nhân phẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.3. Tỷ trọng giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.4. Cơ cấu của tinh hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 xét theo đơn vị hành chính Cấp huyện xác định trên cơ sở kết
hợp yếu tố dân cư và diện tích
Hình 2.5. Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.6. Tỷ trọng của diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh
Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo tội danh
Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo độ tuổi, giới tính

Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo trình độ học vấn
Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo nghề nghiệp
Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo hồn cảnh gia đình
Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo nơi cư trú, hộ thường trú
Phiếu 2.13. : Phiếu điều tra xã hội học “Đánh giá vai trị của giáo dục
trong gia đình, nhà trường và bạn bè trong việc giáo dục người chưa thành niên”
Bảng 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (300 phiếu điều
tra)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Bình Dương thuộc khu vực miền Đơng Nam Bộ. Bình Dương được tái lập
từ ngày 01/01/1997 từ việc tách tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và Bình
Phước Từ giữa những năm 90, với chính sách “Trải chiếu mời gọi đầu tư, trải thảm đỏ
thu hút nhân tài”, Bình Dương đã trỗi dậy với chủ trương đổi mới, được cụ thể hóa
bằng những chính sách thơng thống, mở đường cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của địa phương. Kinh tế - xã hội của Bình Dương bước đầu đạt những thành
tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ nông nghiệp, bộ mặt đơ thị hóa đã được hình thành rõ nét, đã biến vùng đất thuần
nông, khô cằn, kém hiệu quả trở thành những khu, cụm công nghiệp trọng điểm của cả
nước. Đến nay, tồn tỉnh có 32 khu cơng nghiệp và 14 cụm cơng nghiệp, với tổng diện
tích hơn 14.800 ha. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt trái của nền kinh
tế thị trường cùng hàng loạt các vấn đề phát sinh như: Tình trạng nhập cư, cư trú trái
phép gia tăng, diễn biến phức tạp; một bộ phận nhân dân có đời sống kinh tế cịn khó
khăn, khơng việc làm hay việc làm khơng ổn định; sự phân hóa giàu nghèo, sự xâm
nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng,… đang làm

cho tình hình TTATXH hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm
nói chung và tội phạm XPNP nói riêng. Thực tế cho thấy, trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, tình hình tội XPNP như hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội dâm ô với
người dưới 16 tuổi, tội làm nhục người khác... đang có diễn biến hết sức phức tạp, đặc
biệt gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội lẫn tính chất nguy hiểm.
Theo báo cáo kết quả giải quyết án của TAND tỉnh Bình Dương, trong 05 năm
từ 2014 – 2018 đã xét xử 9.602 vụ án với 18.813 bị cáo; trong đó đã xét xử các tội
XPNP là 157 vụ với 168 bị cáo. Cụ thể, năm 2014 giải quyết 1906 vụ với 3473 bị cáo,
trong đó đã xét xử các tội XPNP là 25 vụ với 29 bị cáo; năm 2015 giải quyết 1918 vụ
với 3608 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 31 vụ với 37 bị cáo; năm 2016
giải quyết 1945 vụ với 3920 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 33 vụ với 38
bị cáo; năm 2017 giải quyết 1933 vụ với 3810 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP
là 32 vụ với 36 bị cáo; năm 2018 giải quyết 1947 vụ với 4007 bị cáo, trong đó đã xét
xử các tội XPNP là 36 vụ với 42 bị cáo.
1


Mặc dù nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta cùng với các cấp, các ngành đã có
nhiều chủ trương, biện pháp phịng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói
riêng nhưng tội phạm XPNP vẫn khơng ngừng gia tăng và có diễn biến phức tạp thể
hiện sự suy đồi về lối sống, sự xuống cấp về các giá trị đạo đức. Một hậu quả cũng
phải kể đến đó là chi phí của Nhà nước cho q trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án, là những thiệt hại không thể đo đếm hết được. Do đó, đấu tranh phịng
và chống loại tội phạm XPNP ln là nhiệm vụ quan trọng, vừa có tính cấp bách vừa
có tính chiến lược lâu dài, là vấn đề mang tính xã hội cao, là sự nghiệp của quần
chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Do đó, để đấu tranh phịng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPNP cần nhận
thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP
nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể xây
dựng các biện pháp phịng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPNP nói riêng và tình hình tội

phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách
chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội.
Trên phương diện thực tiễn, các CQTHTT tại tỉnh Bình Dương từ lâu đã chú
trọng sử dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong quá trình giải quyết các
vụ án XPNP, định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, cũng như
đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội XPNP. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
XPNP đòi hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP ở mức độ khái quát
hơn là mức độ nhóm và mức độ tình hình tội phạm. Nhằm hồn thiện hệ thống lý luận
về nhân thân người phạm tội XPNP, cũng như phục vụ cơng tác đấu tranh phịng,
chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân
thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Về lý luận nhân thân người phạm tội có những cơng trình nghiên cứu sau:
- Tội phạm học Việt Nam một sô vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả
Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009;

2


- Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự
Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005;
- Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53;
* Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những cơng trình tác giả nghiên
cứu, phân tích có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định
gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Cơng (2013), Đại

học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội;
* Về kinh nghiệm và giải pháp có các cơng trình nghiên cứu trong việc định tội
và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như:
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định
hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23;
- Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt
hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát, số
5/2005, tr. 34-36;
* Đánh giá tình hình nghiên cứu:
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được các kết quả chính
sau đây:
- Các cơng trình ở những mức độ khác nhau đã làm rõ những vấn đề lý luận về
nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt nhân
thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội…
- Các cơng trình cũng đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm làm rõ thực trạng
nhân thân người phạm tội, thực trạng các yếu tố tác động đến nhân thân người phạm
tội nói chung hoặc phạm một tội, một nhóm tội trên một địa bàn nhất định, như cướp
tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước,
tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương ...
3


- Các cơng trình cũng đã nêu được các biện pháp phòng ngừa gắn với một số
loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý,
tội hiếp dâm...và trên những địa bàn cụ thể như Vĩnh Long, Bình Phước, Thành phố
Hồ Chí Minh...
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên
địa bàn tỉnh Bình Dương, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự hình thành
các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, luận văn hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ để
tăng cường phịng ngừa tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương trong giai đoạn hiện nay từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản
sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP;
Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội
XPNP và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPNP của
con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018;
Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tội XPNP từ
góc độ nhân thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân
người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Để nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả
dựa trên các số liệu thống kê và kết quả nghiên cứu 100 bản án xét xử sơ thẩm của
TAND các cấp tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 được thu thập một cách ngẫu
nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học nhằm đánh giá vai trò của
giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè đối với người chưa thành niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4


- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP

dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.
- Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPNP quy định tại
chương XIVcủa BLHS, gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16
tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều
146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán
người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người
khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH; các tri
thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự;
thực tiễn phịng chống các tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ
thể:
Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã
hội học bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tình hiểu quan điểm nhận thức của
người chưa thành niên đối với phương pháp, nội dung giáo dục giới tính trong gia
đình và nhà trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, làm
giàu thêm hệ thống lý luận tội phạm học nói chung và lý luận phịng, chống tội
XPNP nói riêng, đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập
của các cơ sở đào tạo luật.

5



- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng
vào thực tiễn cơng tác phịng, chống tội phạm nói chung và tội XPNP nói riêng
trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm của con người
Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 -2018
Chương 3: Nhân thân người phạm tội và những vấn đề đặt ra đối với phịng
ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI
1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm
Để xây dựng định nghĩa về tội xâm phạm nhân phẩm, trước kết cần làm rõ
khái niệm nhân phẩm. Khái niệm “nhân phẩm” trong các tội xâm phạm nhân phẩm
chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Song qua nghiên cứu một số
tài liệu về mặt ngơn ngữ thì có một số định nghĩa nhân phẩm, cụ thể như sau:
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê, nhân phẩm được định
nghĩa như sau: “Nhân phẩm là phẩm chất và giá trị của con người” [9, tr.487]. Theo
định nghĩa này thì nhân phẩm chính là các phẩm chất, giá trị của một con người tạo
nên giá trị của con người đó. Giá trị đó được cộng đồng xã hội cơng nhận và tơn kính.

Cịn trong sách giáo khoa mơn Giáo dục công dân lớp 10 của Bộ giáo dục
và đào tạo có đưa ra định nghĩa nhân phẩm như sau: “Nhân phẩm là tồn bộ phẩm
chất mà mỗi con người có được, nói cách khác nhân phẩm là giá trị làm người của
mỗi người” [2, tr.18].
Như vậy, định nghĩa này về cơ bản cũng tương đồng với định nghĩa nêu
trên khi xác định nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất làm nên giá trị của con người.
Hay trong bài giảng Môn Đạo đức người lái xe thì nhân phẩm là giá trị đạo
đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được
nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, địi hỏi mỗi
người phải thường xuyên nỗ lực, cố gắng rèn luyện bản thân. Nhân phẩm (còn gọi là
phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt
được, là giá trị làm người của mỗi con người [16, tr.4]. Định nghĩa này cũng đề cao
phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con người. Giá trị này chắc chắn phải được xã hội
thừa nhận.
Qua các định nghĩa về nhân phẩm nêu trên, có thể rút ra được định nghĩa
nhân phẩm: Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của mỗi người làm nên giá trị
của con người đó. Những phẩm chất này phù hợp với những giá trị đạo đức đã được
xã hội thừa nhận.
Tội phạm theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có
7


năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an
tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Từ định nghĩa về nhân phẩm và định nghĩa về tội phạm nêu trên, có thể

định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm của con người như sau: Tội xâm phạm nhân
phẩm của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong chương
XIV của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng các giá trị đạo đức của con người.
Trong chương XIV của BLHS, nhà làm luật không liệt kê riêng các tội xâm
phạm nhân phẩm mà có sự gộp chung 14 tội danh (từ Điều 141 đến Điều 156) thành
nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Trong nhóm tội này, phần lớn các tội phạm
đều xâm hại đồng thời nhân phẩm, danh dự của con người. Căn cứ vào quy định trong
chương XIV, có thể xác định được các tội XPNP trong BLHS bao gồm các tội danh
sau: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng
dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi
(Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới
16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua
bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống
(Điều 156).
1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm
của con người
1.2.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người
Mác viết: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một
tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dịng máu đang
chảy, một người lính mà họ cần phải trở thành chiến sĩ bảo vệ đất nước…một thành
viên của tập thể thực hiện các chức năng xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn tại

8


của họ là thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là cơng dân của nhà nước
đó” [24, tr.49]. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên

cứu nhân thân con người đang sống trong xã hội: Nhân thân của những người đã thực
hiện hành vi phạm tội, là chủ thể của tội phạm.
Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người phạm tội
cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm đối với những người có
phẩm chất tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo đức, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật,
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Nhân thân của những người phạm các tội hoặc
các nhóm tội khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau. Ví dụ nhân thân của
những người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thường có đặc điểm
nhân thân nổi trội là động cơ vụ lợi, mong muốn có tiền bất chính; nhân thân của
những người xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người có đặc điểm nhân thân nổi
trội là sự coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, coi thường giá trị đạo đức,
pháp luật; đối với những người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm của con người,
đặc điểm nhân thân nổi trội nhất của những người này là sự coi thường nhân phẩm của
người khác, coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật. Bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều đặc
điểm nhân thân khác mà luận văn sẽ làm sáng tỏ trong các nội dung nghiên cứu.
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội và các khái niệm có liên quan
đã phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm như sau:
Nhân thân người phạm tội XPNP là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các
điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP
được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện hành.
1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm
Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu.
Tuy nhiên, với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu
khác nhau nên góc độ tiếp cận với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành
khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên
nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân, điều kiện của nó
9



để đề ra các biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nhân thân người phạm tội được
nghiên cứu một cách khá sâu sắc, toàn diện và mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn. Như vậy, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP có
ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP góp phần
phát triển và hồn thiện hệ thống lý luận của chính ngành Tội phạm học. Bằng những
nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người
phạm tội XPNP nói riêng cùng những số liệu về người phạm tội XPNP cụ thể góp
phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm, giải thích được
những thay đổi trong thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm [39, tr.127]
và dự đốn xu hướng của nó trong tương lai. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội
XPNP trước hết cần làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP,
như khái niệm, ý nghĩa, phân loại nhân thân người phạm tội XPNP. Những lý luận này
sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận của Tội phạm học về nhân thân người phạm
tội.
Thứ hai, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP, cụ thể đề tài nghiên cứu
nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018 sẽ
cung cấp những thông tin quan trọng về các đặc điểm của nhân thân người phạm tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những thơng tin, như đặc điểm trình độ học vấn,
nghề nghiệp, hồn cảnh gia đình, thói quen, sở thích … của người phạm tội sẽ là
những thơng tin hữu ích cho các ngành khác, như giáo dục học, đạo đức học, kinh tế
học … tham khảo trong phát triển các nội dung khoa học phục vụ các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, phát triển con người …
Thứ ba, Do đó, các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa trong
việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPNP chẳng hạn như các tội về
XPNP của con người đều được nhà làm luật xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm
hình thức nên dấu hiệu định tội của nhóm tội này trong BLHS đều liên quan đến dấu
hiệu hành vi khách quan của tội phạm hay đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy

định là yếu tố định khung một số tội XPNP (điểm i khoản 2 Điều 141, điểm g khoản 2
Điều 142, điểm g khoản 2 Điều 143, điểm e khoản 2 Điều 144, điểm e khoản 2 Điều
146, điểm g khoản 2 Điều 147, điểm e khoản 3 Điều 150, điểm g khoản 3 Điều 151).
10


Thứ tư, dấu hiệu pháp lý về tội phạm và chủ thể của tội phạm XPNP được
quy định thống nhất, song mỗi một vụ phạm tội ln ln mang tính cá biệt của hoàn
cảnh và đối tượng thực hiện tội phạm. XPNP giúp cho việc sàng lọc đối tượng, phát
hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn cần thiết cũng như những biện pháp tác động tâm lý, cảm hóa đối tượng trong
hỏi cung, đối chất, khám xét thu giữ vật chứng,…
Thứ năm, khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người
phạm tội XPNP và những phương pháp phân loại người để nghiên cứu những hình
thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển hệ thống trại
giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại các trại giam, cơ sở
giáo dục đó…Việc thi hành hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với
từng loại người phạm tội sẽ không đạt hiệu quả nếu khơng có sự phân loại hợp lý dựa
vào đặc điểm nhân thân của họ. Chẳng hạn như: Xếp phạm nhân vào trại nào, buồng
nào, họ phải làm những công việc gì trong quá trình cải tạo, chế độ học tập, sinh hoạt
áp dụng với từng loại người, hoặc những trường hợp cải tạo không giam giữ, quản
chế, bắt buộc chữa bệnh…cần phải có cơ chế quản lý giám sát, kết hợp sự giáo dục
như thế nào…
1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của
con người
Các tội XPNP được chia ra làm 2 nhóm: Nhóm người XPNP thực hiện bằng
hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục (từ Điều 141 đến Điều 147) và nhóm người
XPNP thực hiện thông qua hành vi khác (Điều 150, Điều 151, Điều 155, Điều 156).
Trong đó, nhân thân người phạm tội XPNP theo từng nhóm trên thì đều có những đặc
điểm, dấu hiệu chung với nhân thân người phạm tội . Ngồi ra, nó cũng cịn có những

đặc điểm, dấu hiệu riêng đặc thù. Từ những đặc điểm chung và riêng trên, tác giả chia
làm ba nhóm phân tích như sau:
- Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu học;
- Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý;
- Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự.
1.3.1. Nhóm dấu hiệu xã hội – nhân khẩu

11


Những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP
cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung, bao gồm: Giới tính, tuổi,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã
hội…Những dấu hiệu này tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập
hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội – nhân khẩu thu được qua thống kê hình sự sẽ
cho chúng ta cơ sở để rút ra những kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân
người phạm tội. Mặt khác, nếu kết hợp những dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội
thì những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu sẽ giúp cho chúng ta hiểu trọn vẹn về nhân
thân người phạm tội và có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện
pháp giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm.[39, tr.144]
1.3.1.1 Giới tính
Trong thực tế của cuộc đấu tranh chống tội phạm XPNP ở nước ta, đối với
nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục, thì tỷ lệ nam
giới phạm tội chiếm tỷ lệ cao vì nam giới có khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi
thấp hơn nữ giới nên khả năng phạm tội cao hơn. Và ngược lại đối với nhóm người
XPNP thực hiện thơng qua hành vi khác thì tỷ lệ nữ giới phạm tội lại chiếm tỷ lệ cao
hơn và có xu hướng tăng lên, chủ yếu là trong các vụ án về tội làm nhục người khác
bởi vì nữ giới có tính hay ghen tng do đó khi xảy ra mâu thuẫn trong tình cảm
thường sử dụng bạo lực để “dằn mặt” nạn nhân làm cho tình hình ANTT thêm phức
tạp.

1.3.1.2. Lứa tuổi
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, con người có những suy nghĩ, nhận thức, cách
hành xử các mối quan hệ khác nhau…Và ở người phạm tội XPNP cũng vậy, họ cũng
có những khác biệt nhất định về nhận thức hành vi phạm tội, cách tiếp cận nạn nhân,
cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách dụ dỗ nạn nhân sau khi việc phạm tội đã
hoàn thành hay cách làm nhục nạn nhân, vu khống nạn nhân… Nghiên cứu nhân thân
người phạm tội XPNP từ khía cạnh về độ tuổi có thể giúp chúng ta nhìn nhận đúng
đắn về tính chất, mức độ, đặc điểm của từng tội phạm. Ở đặc điểm này, có thể chia độ
tuổi của những người phạm tội XPNP theo 03 nhóm với những đặc điểm khác nhau
như:

12


- Nhóm dưới 18 tuổi: Người dưới 18 tuổi là người đang trong q trình
phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái
cảm xúc khơng cân bằng thì sẽ không kiềm chế được cảm xúc của bản thân là yếu tố
gây nên các hành vi lệch chuẩn đạo đức, hành vi phạm tội. Đặc biệt ở nhóm tuổi này
có sự phát triển như “vũ bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ.
Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm
tội.
- Nhóm từ 18 đến 30 tuổi: Đây là nhóm tuổi có sự ổn định hơn về mặt tâm,
sinh lí so với nhóm dưới 18 tuổi. Ở nhóm tuổi này, con người có khao khát về tình
u, nhu cầu sinh lí cũng phát triển nên thường dẫn đến những ham muốn tình dục. Vì
vậy nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục đa phần
nằm trong nhóm từ 18 đến 30 tuổi. Ngoài ra, những người từ 18 đến 30 tuổi đang
thuộc nhóm tuổi lao động trẻ của xã hội. Tuy nhiên, nếu một người trong nhóm tuổi
này mà khơng học tập hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định thì sẽ cảm thấy bất an, hụt
hẫng, bi quan tự ti hay bất mãn. Trạng thái tâm lí này có thể dẫn người ta đến trầm uất,
nghiện ngập, rơi vào các tệ nạn xã hội và nhanh chóng dẫn đến con đường phạm tội.

- Nhóm từ trên 30 tuổi trở lên: Ở độ tuổi này, con người có sự chín chắn
trong tư duy nhận thức của mình. Thêm vào đó, nhóm người từ 30 tuổi trở lên đa phần
họ đều đã kết hơn và có cơng việc cho nên họ có sự ổn định cao về tâm lý, về nhận
thức đời sống hay pháp luật. Do đó, nhóm tuổi từ 30 trở lên phạm vào các tội XPNP
chiếm tỉ lệ thấp so với hai nhóm tuổi trên.
1.3.1.3. Trình độ học vấn
Đặc điểm về trình độ học vấn có thể chia thành 04 nhóm như sau: nhóm
khơng biết chữ; nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở; nhóm có
trình độ học vấn ở mức trung học phổ thơng; nhóm có trình độ học vấn trung cấp, cao
đẳng, đại học trở lên.
1.3.1.4. Nghề nghiệp, địa vị xã hội
Đối với người phạm tội XPNP cũng vậy, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau
thì khả năng “nhiễm tội” cũng khác nhau. Đặc điểm nhân thân người phạm tội từ khía
cạnh nghề nghiệp, có thể chia thành 03 nhóm là: người khơng có nghề nghiệp, người
có nghề nghiệp khơng ổn định và người có nghề nghiệp ổn định.
13


1.3.1.5. Hồn cảnh gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội. Hồn cảnh gia đình có thể xét đến như: điều
kiện sống về mặt tinh thần, tình trạng hơn nhân, gia đình khơng hồn thiện, gia đình
khuyết thiếu,… hoặc vẫn đang độc thân. Các hồn cảnh gia đình nêu trên sẽ được
nghiên cứu với mục đích đánh giá sự tác động của mơi trường gia đình đến q trình
hình thành nhân cách lệch chuẩn của người phạm tội XPNP. Trong phần hồn cảnh gia
đình, có thể nghiên cứu theo 2 phương diện: một là bản thân người phạm tội (có vợ và
khơng có vợ), hai là cha mẹ, người nuôi dưỡng (thuận lợi và không thuận lợi).
1.3.1.6. Nơi cư trú
Nơi cư trú, nơi sinh sống (làng, xã, khu phố,…) được xem là một xã hội thu
nhỏ, có tác động khá trực tiếp đến lối sống của cơng dân. Hồn cảnh kinh tế cũng như
điều kiện phát triển chung của nơi cư trú có những tác động mạnh mẽ đến ý thức và

nhân cách của con người nơi đây. Có nghĩa, tại nơi cư trú, điều kiện sống (về kinh tế
và tinh thần) tốt sẽ tác động tích cực đến quá trình hình thành nhân cách đúng đắn của
mọi người nơi đây; ngược lại, nếu điều kiện sống không tốt, có nhiều tệ nạn xã hội,
thường xuyên xảy ra bạo lực, đánh nhau hay… sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình
hình thành nhân cách của con người.
Với đặc điểm về nơi cư trú, người phạm tội XPNP được chi thành 2 căn cứ:
Thứ nhất là có nơi cư trú ổn định và có nơi cư trú khơng ổn định và thứ hai là hộ khẩu
trong tỉnh và ngoại tỉnh.
Tổng hợp nhiều dấu hiệu xã hội - nhân khẩu trong nhân thân người phạm
tội XPNP sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc về người phạm tội, từ đó có các
biện pháp phịng ngừa hữu hiệu.
1.3.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức, tâm lý
Tổng hợp những thông tin về các đặc điểm xã hội – nhân khẩu đã cho
chúng ta một cái nhìn khá bao quát về nhân thân người phạm tội XPNP. Tuy nhiên đó
chỉ là những dấu hiệu bên ngồi, nó chưa cắt nghĩa được lý do tại sao người đó lại
phạm tội XPNP. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta còn phải đi sâu nghiên cứu mặt
bên trong của nhân thân người phạm tội được thể hiện ở các dấu hiệu đạo đức tâm lý.
Nhóm đặc điểm này bao gồm: các dấu hiệu thuộc về tinh thần, về ý thức, quan điểm

14


cá nhân về giá trị đạo đức, về pháp luật, về khí chất, tính cách, quan điểm cá nhân về
cái đẹp – cái xấu,…[39, tr.154]
1.3.2.1. Quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức
Trong nhiều trường hợp, quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức
của người phạm tội không phù hợp với quan điểm, thái độ nhận thức về giá trị đạo
đức của xã hội dẫn đến những người này có những hành xử khơng đúng với giá trị đạo
đức được tồn xã hội tơn trọng. Hầu hết những người phạm tội XPNP thường có đạo
đức bị suy thối, khơng tơn trọng giá trị nhân phẩm của con người. Trong nhóm người

XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục thì người phạm tội xem
nạn nhân như đồ vật , “thú vui tiêu khiển” để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình hay
trong nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác, họ có thể xem con người như
một món hàng hóa để trao đổi, mua bán,…
1.3.2.2. Quan điểm, thái độ, nhận thức về pháp luật
Pháp luật hình sự ngồi nhiệm vụ mang tính giáo dục, răn đe, phịng ngừa
tội phạm cịn mang tính trừng trị người phạm tội trong BLHS. Ngồi ra, một số người
phạm tội có sự hiểu biết nhất định về pháp luật hình sự nhưng tự tin cho rằng hành vi
của mình sẽ khơng bị phát hiện và xử lý nên vẫn cố tình thực hiện.
1.3.2.3. Nhu cầu, sở thích, thói quen
Đây là các yếu tố mang tính chất quyết định đối với động cơ phạm tội
XPNP, yếu tố này tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ, mục đích và
thái độ thực hiện hành vi phạm tội XPNP.
Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do
tình dục thì nhìn chung các đối tượng này có nhu cầu, sở thích lệch lạc so với xã hội,
họ có thói quen khơng lành mạnh và có suy nghĩ về việc thỏa mãn nhu cầu khác lạ.
Nói cách khác, họ là nhóm đối tượng thường: sử dụng ma túy, rượu chè, cờ bạc, xem
phim sex, phim khiêu dâm, bạo lực, thích khám phá một cách bất hợp pháp về thân
thể của người khác,… Quan trọng hơn, nhóm đối tượng này có ý thức mong muốn
thực hiện mọi biện pháp để thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở
thích tình dục của bản thân.
Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì các đối tượng
này thường có nhu cầu, sở thích vật chất khơng chính đáng, coi trọng vật chất, có thái
15


độ lười lao động, tư tưởng làm ít hưởng nhiều, dùng tiền để đáp ứng nhu cầu, sở thích
khơng chính đáng hay có thói quen dùng bạo lực trong hành động để giải quyết các
mâu thuẫn trong cuộc sống,…
1.3.2.4. Động cơ, mục đích phạm tội

Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì có động cơ vụ
lợi và mục đích là kiếm tiền như các tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi.
Còn tội làm nhục người khác và tội vu khống thì thường có động cơ, mục đích là trả
thù nạn nhân. Xác định động cơ, mục đích phạm tội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm hình sự.
1.3.3. Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự
Vì vậy, nghiên cứu các đặc pháp lý hình sự của tội XPNP khơng chỉ giúp nhận
thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội XPNP mà còn giúp hiểu
rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm cũng như có cơ sở trong việc đề ra các giải pháp
phòng ngừa hữu hiệu các tội XPNP. Trong phần này, có thể chia thành 3 nhóm phân
tích: người phạm tội có tiền sự; người phạm tội có tiền án; người phạm tội chưa có
tiền án – tiền sự.
1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân của một con người không được tự nhiên sinh ra mà hình thành, phát
triển trải qua một quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc môi
trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về ý thức của con người. Trong q trình
tương tác đó cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống (chứa đựng yếu tố thuận
lợi và yếu tố không thuận lợi) nhưng tiếp thu và chịu sự tác động đó như thế nào là do
từng cá nhân; yếu tố thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân tốt, yếu tố không
thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân xấu.[39, tr.117] Chính những đặc điểm
nhân thân xấu này kết hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và sự thiếu bản lĩnh trước
mọi cám dỗ tiêu cực trong xã hội dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.
1.4.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
1.4.1.1. Mơi trường gia đình
Đối với các trường hợp gia đình khuyết thiếu như khơng có cha, khơng có mẹ,
hoặc khơng có cả cha và mẹ, cha mẹ ly hôn, hoặc cha mẹ kết hôn hoặc chung sống

16



như vợ chồng với người khác, thường thiếu sự quan tâm, dạy bảo con cái về vấn đề
giới tính, đạo đức, nhân cách dẫn đến con em mình đi vào con đường phạm tội. Trong
đó có nhiều gia đình vì những chia sẻ, giáo dục về giới tính, giáo dục đạo đức cho các
em không được cha mẹ quan tâm, để ý đến do bản thân cha mẹ, người lớn trong gia
đình cũng mù mờ về giáo dục giới tính, nhận thức hạn chế nên khơng có sự chỉ bảo
cần thiết, nhiều trường hợp trẻ xâm phạm tình dục người khác hoặc bị bạn bè đánh
đập,…cho nên chậm hoặc không tố cáo tội phạm với cơ quan chức năng, vô tình che
đậy, tiếp tay cho tội phạm. Mặt khác, gia đình khuyết thiếu nhiều khi cũng rơi vào
hồn cảnh khó khăn. Nếu không được giáo dục đầy đủ, trẻ sẽ dễ hình thành sự ham
muốn vật chất, coi trọng đồng tiền, khát khao có tiền bằng mọi giá, thiếu đi tình
thương giữa người với ngửoi... Trong hồn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng,
khống chế thực hiện những hành vi phạm tội như mua bán người, mua bán người dưới
16 tuổi xem nạn nhân như hàng hóa để mua bán, trao đổi lấy tiền, bóc lột lao động,
tình dục hoặc lợi ích vật chất khác.
1.4.1.2. Mơi trường giáo dục
Những nhân tố không lành mạnh trong môi trường giáo dục hiện nay như quá
tập trung vào sách vở mà thiếu kiến thức về giới tính và đạo đức nhân cách dẫn đến
nhiều học sinh không nhận thức hoặc thiếu hiểu biết về vấn đề tình dục an toàn hay sử
dụng bạo lực, làm nhục bạn học của mình. Hiện nay, tình trạng yêu nhau của học sinh
diễn ra khá phổ biến, các em yêu nhau từ nhiều độ tuổi khác nhau nhưng do chưa có
sự trang bị đầy đủ về kiến thức giới tính nên dẫn đến nhiều em xâm phạm tình dục lẫn
nhau khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong nhiều vụ án trên thực tế học sinh yêu nhau và quan
hệ tình dục lẫn nhau nhưng khi bị phát hiện các em vẫn không phân biệt được hành vi
xâm phạm tình dục của mình là nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS hay
những vụ án liên quan tới tội làm nhục người khác, vu khống người khác và các em
chỉ cho rằng đó là chuyện bình thường, “dằn mặt” đối phương. Mặc khác, việc thiếu
sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình; gia đình khơng quan tâm, ỷ lại, giao phó việc
quản lý giáo dục cho nhà trường còn nhà trường chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền đạt
kiến thức mà không quan tâm đến học sinh dẫn đến nhiều học sinh xâm phạm tình

dục, bạo lực học đường và hơn nữa là các tội mua bán người mà các em cũng thành
viên trong nhóm đồng phạm.
17


Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống; bài
học sách vở cịn khơ khan, chưa có nhiều những chương trình giáo dục đạo đức, nhân
cách qua đó khơi gợi tình u thương cộng đồng với nhau. Khơng được giáo dục tốt,
trẻ dễ hình thành đặc điểm nhân thân xấu như coi thường đạo đức, pháp luật, coi
thường thân thể, nhân phẩm của người khác… và khi gặp những tình huống thuận lợi,
trẻ sẽ lựa chọn cách thức xử sự trái đạo đức, trái pháp luật.
1.4.1.3. Môi trường bạn bè
Đặc biệt là bạn bè đồng trang lứa thường là những người gần gũi, thường
xuyên tâm sự, có những đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi giống nhau, vì vậy, có ảnh
hưởng vơ cùng lớn đến các quan điểm, quan niệm, nhận thức lối sống, thậm chí đến
thói quen, cách cư xử của trẻ. Nếu kết bạn với bạn bè tốt, trẻ sẽ dễ hình thành các đặc
điểm nhân thân tích cực như chăm chỉ học tập, biết quan tâm, lo lắng, chia sẻ với
người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng sống… Nhưng khi chơi với những người bạn
xấu, trẻ rất dễ nhiễm những thói hư, tật xấu của bạn bè như lười học, uống rượu, hút
thuốc lá, hay thậm chí là nghiện ma túy, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi, sử
dụng bạo lực... dần dần họ sẽ sa vào con đường phạm tội XPNP.
1.4.1.4. Mơi trường kinh tế, văn hóa, xã hội
Ngồi ra, q trình hội nhập ngồi việc đem lại cho nhân dân ta đời sống văn
hóa phong phú, nhiều giá trị truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực
văn hóa, đạo đức mới được hình thành thì cũng xuất hiện tình trạng phổ biến, tiếp thu
thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa khơng phù hợp từ nước ngoài (băng đĩa, phim
ảnh khiêu dâm, sex, sách ảnh đồi trụy, phim bạo lực, không lành mạnh…); tình trạng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có chiều hướng gia
tăng; các giá trị đạo đức truyền thống bị xói mịn, dần hình thành nên ở họ những đặc
điểm nhân thân tiêu cực như: thích bạo lực, có dục vọng thấp hèn, lệch lạc,… Đây là

một trong những nguyên nhân làm hình thành nên chủ thể của tội XPNP.
1.4.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội xâm nhân phẩm
1.4.2.1. Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu
Nếu con người có những sở thích lành mạnh thì hình thành ở người đó nhân
cách đúng đắn. Ngược lại, con người có sở thích khơng lành mạnh, tiêu cực sẽ hình
thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như sống ích kỷ, hưởng thụ, sống buông thả,
18


coi thường chuẩn mực đạo đức… Chẳng hạn, đối với người phạm tội XPNP thì sở
thích về tình dục, nhu cầu thiếu thốn vật chất hay thích thể hiện bản thân là đặc trưng
điển hình cho tội phạm XPNP. huống cụ thể họ sẽ khơng kiềm chế, kiểm sốt được
hành vi của mình và lựa chọn cách xử sự khơng đúng đắn, kể cả xâm phạm đến XPNP
người khác một cách phi đạo đức như mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi…
1.4.2.2. Hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát hành vi
Người phạm tội XPNP thường là người có trình độ học vấn thấp, quan niệm sai
về các giá trị cuộc sống, khơng hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít pháp luật nên thường có
thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật. và trình độ học vấn thấp nên khả năng kiểm soát
và hạn chế hành vi đối với người phạm tội XPNP ở mức độ thấp, nhiều trường hợp
người phạm tội xâm phạm tình dục, hay mua bán người ngay chính cả người thân
trong gia đình.
Kết luận Chương 1
Chương 1 của luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhân
thân người phạm tội XPNP của con người, cụ thể:
- Thứ nhất, về phần khái niệm, nhân thân người phạm tội XPNP là tổng
hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc
điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người
đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện
hành.
- Thứ hai, về mặt ý nghĩa, nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP tạo

cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm XPNP; giúp cho
việc định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác; tạo cơ sở cho việc xây
dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội và ý nghĩa quan trọng hơn cả là đưa
ra các biện pháphiệu quả phòng ngừa tội phạm XPNP.
- Thứ ba, về đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPNP, Chương 1 đã
làm rõ các đặc điểm đặc trưng về nhân thân ảnh hưởng tới hành vi phạm tội của người
phạm tội XPNP bao gồm: nhóm đặc điểm xã hội - nhân khẩu học; nhóm đặc điểm về
mặt đạo đức - tâm lý; nhóm đặc điểm pháp lý hình sự.
- Ngồi ra, trong chương này cịn phân tích những yếu tố tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tội XPNP từ những yếu tố khách quan như: Môi
19


×