Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chuyen de Mot so phuong phap day hoc tho Duongo THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.32 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHỤ LỤC PHẦN ĐẦU I.. Lí do chọn đề tài…………………………………………………... 1. II.. Mục đích nghiên cứu……………………………………………... 3. III.. Đối tượng và thời gian nghiên cứu………………………………. 4. IV.. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………….….. 5. V.. Phương pháp nghiên cứu…………………………………….…... 5 NỘI DUNG. I.. Khái quát đặc điểm chung của thơ Đường……………………….6. II.. Một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở chương trình ngữ văn THCS……………………………………..7. KẾT LUẬN……………………………………………………….……13.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện của nó đều đạt đến trình độ cao của văn học . Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy hiểu được nó một cách thấu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được. Tôi nghĩ đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như chúng tôi rất trăn trở. Với kiến thức hạn hẹp và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo đồng nghiệp tôi mạnh dạn đưa ra một số sáng kiến muốn trao đổi về phương pháp giảng dạy thơ Đường. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, .. của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó là tập “Đại thành” cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc rất tiêu biểu. Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Để cảm thụ và truyền đạt hết cái hay, cái đẹp của thơ Đường là một điều khó. Vì vậy, qua sáng kiến này, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ của cá nhân về “Một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở chương trình ngữ văn THCS”. 1. Cơ sở lý luận: Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THCS là một mảng khó dạy đối với giáo viên. Ở trường ĐH việc giảng dạy được chuyên môn hoá cao độ, mỗi người chỉ tập trung nghiên cứu một bộ phận văn học( Ví dụ: Văn học nước ngoài, văn học Việt Nam,…), thậm chí là một giai đoạn của bộ phận văn học đó nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được nội dung phương pháp giảng dạy..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Trong khi đó ở các trường THCS - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn thực hiện giảng dạy theo phân phối chương trình bao gồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại, chương trình Ngữ văn THCS trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó, kiến thức mới mẻ nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết...Bởi vậy, để học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản theo Chuẩn kiến thức - Kĩ năng là một điều khó khăn. Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá, đề xuất nhứng sáng kiến hay, kinh nghiệm quý, mạnh dạn thể nghiệm các chuyên đề để cùng nhau thống nhất đưa ra những phương pháp dạy học hiệu quả, đồng thời đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và giảng dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn. 2. Cơ sở thực tiễn: Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất cuả văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷ X), là một trong những thành tựu tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là của nhân loại. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THCS, thơ Đường vừa là sản phẩm tinh thần, vừa xa về khoảng cách thời gian, vừa xưa về mặt ngôn từ…Nhưng học thơ Đưòng không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp. Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thông cơ sở không phải là vấn đề mới lạ với chúng ta. Song cái mói mà chúng ta thấy được đối tượng tiếp nhận..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Sách giáo khoa Ngữ văn chương trình giáo dục phổ thông đã đưa vào chương trình một lượng không nhiều những tác phẩm thơ Đường tiêu biểu, song tiếp nhận thơ Đường đối với lứa tuổi trung học cơ sở, nhất là đối với học sinh lớp 7 là điều không hề đơn giản. Bởi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, “ý tại ngôn ngoại”, vừa có tính ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì vậy người giáo viên muốn dạy một tiết thơ Đường thành công cần phải có kiến thức chắc chắn, một sự am hiểu sâu sắc, đặc biệt là một phương pháp giảng dạy phù hợp để giúp các em cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại.. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Giúp cho học sinh có phương pháp học tác phẩm thơ Đường có kết quả. - Giúp học sinh vừa tiếp cận được với ý nghĩa sâu sắc của từng bài thơ, vừa bước đầu nắm bắt được nét nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ Đường ( ngôn từ, tiểu đối, niêm, luật…) - Tạo hứng thú học tập cho học sinh. III. Đối tượng và thời gian nghiên cứu: 1. Đối tượng nghiên cứu Một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở THCS - Khách thể: Học sinh khối 7 2. Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Ngữ Văn khối lớp 7 3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12/2009 đến tháng 10/2011.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> IV. Nhiệm vụ nghiên cứu: Trong quá trình dạy môn Ngữ Văn lớp 7 tôi đã dần từng bước tìm ra cách tổ chức hoạt động nhận thức, tìm hiểu thể loại, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đường để học sinh tiếp thu bài giảng tốt hơn. V. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - Phương pháp dự giờ thăm lớp - Phương pháp thực nghiệm.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> NỘI DUNG I. Khái quát đặc điểm chung của thơ Đường Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ Đường là tư duy quan hệ, nói cách khác nó theo đúng biện chứng nghệ thuật. Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ chín muồi của tư duy Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến (nhà Đường). Ở đó có sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu của phương Đông là Nho, Phật, Lão. Sự hội nhập này là một quá trình biện chứng. Nó dung hội ưu điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của Nho gia, tính chất huyền diệu, vô vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật giáo; đồng thời nó cũng chế ước lẫn nhau, không có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế (mặc dù Nho được ủng hộ bởi triều đình), khiến cho tư duy Trung Quốc thời này đã đạt được một sự quân bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng không hề viển vông, nó hợp lý và thực tiễn nhưng không dung tục tầm thường; Nó tìm được sự dung hoà trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự hoà diệu. Vì thế nó “bất bình” khi sự hoà diệu bị phá vỡ và ứng xử bằng cách vạch trần, tố cáo những quan hệ đối lập, bất công trong xã hội.. Đặc trưng mỹ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng lớn. Do đó câu số chữ của một bài thơ được hạn định, nên các nhà thơ phải tìm tòi những tinh hoa của dân gian, kết hợp với điển cố lịch sử và từ hoa lệ của văn học thành văn. Sự quy định niêm luật cho một thể thơ có thể hạn chế sự biểu đạt.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> những tình cảm bay bổng, phóng khoáng, nhưng nó buộc phải sáng tạo ngôn ngữ hàm súc, cấu tứ chặt chẽ. Thơ Đường có phong độ một tâm hồn Á Đông, gắn tâm tư tình cảm con người với thiên nhiên đất nước. Tình cảm biểu hiện trong thơ Đường thực muôn màu muôn vẻ, có khi bồng bột, bay bổng, có khi thâm trẩm, uẩn khúc quanh co. Có thể nói, nó như những dòng thác đổ dồn về một con sông lớn cuồn cuộn. Những nhà thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội. Ngòi bút thi nhân đã lên sâu vào tất cả mọi nơi, xung phá và chốn cung đình u ám cũng như vào giữa quần chúng nhân dân. Một bài thơ năm chữ tuyệt cú vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ, nhưng càng ít chữ, càng phải cân nhắc cho nên từ ngữ ở thơ Đường luật phần lớn được sử dụng rất đắt. Tuy hàm súc như vậy nhưng thơ Đường luật không phải là những lời thuyết lý khô khan. Người ta lấy làm kinh ngạc là một bài thơ chỉ ngắn gọn 20 chữ mà lại là một bức tranh có cả sương, trăng, cử chỉ ngẩng lên cúi xuống vì nhớ quê như bài “Tĩnh dạ Tứ” của Lí Bạch Những bài thơ Đường trong chương trình ngữ văn 7 là những bài thơ tiêu biểu của thơ Đường với những đặc trưng của nó. II. Một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở chương trình ngữ văn THCS 1. Dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt, đối chiếu dịch nghĩa, dịch thơ với phiên âm: Để giúp các em hiểu được văn bản, phân tích và cảm thụ văn bản thì giáo viên giúp học sinh dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt. Hiểu nghĩa từng chữ trong nguyên bản, sau đó dịch nghĩa từng câu. Từ đó cho học sinh đối chiếu bản phiên âm.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> dịch nghĩa và dịch thơ. Như vậy học sinh sẽ tích luỹ được vốn Hán - Việt,hiểu được nghĩa gốc cũng là điều kiện để xuất phát khám phá ra nội dung bên trong. Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” của Lí Bạch. “Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Dao khan bộc bố quải tiền xuyên” (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trônng dòng thác trước sông này) Qua sự đối chiếu, giáo viên cho học sinh thấy được bản dịch thơ chưa sát nghĩa. Ở câu một đã bỏ mất từ “sinh” làm cho quan hệ nhân quả của câu thơ trở nên mờ nhạt đi, làm cho tính chất gợi cảm không còn. Núi Hương Lô được mặt trời chiếu sáng làm nảy sinh làn khói tía, là một cảnh tượng hùng vĩ, rực rỡ và lộng lẫy. Với động từ “sinh” này dường như khi ánh mặt trời xuất hiện thì mọi vật sinh sôi nảy nở. Ở câu hai, bản dịch thơ bỏ mất từ “quải”(treo) nên ấn tượng cho hình ảnh dòng thác gợi ra trở nên mờ nhạt và ảo giác về dải Ngân hà ở câu cuối cũng trở nên thiếu cơ sở. Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dòng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều. Nhưng ở bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch “Sáng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặc đất phủ sương).

<span class='text_page_counter'>(9)</span> thì hai câu đầu nguyên văn chỉ có một động từ “nghi”(ngỡ) nhưng trong bản dịch thơ lại thêm hai động từ “rọi” và “phủ” làm cho chủ thể trữ tình bị mờ nhạt nên nhiều người lầm tưởng hai câu đầu chỉ chủ yếu là thuần tuý tả cảnh… 2. Giới thiệu kỹ thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời cuả tác phẩm: Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngôn từ của tác phẩm, tuy nhiên có nhiều trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể giúp ích rất nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị của tác phẩm. Ví dụ: Bài thơ “ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ” ( Mao ốc vị thu phong sở phá ca ), Đỗ Phủ sáng tác dựa trên sự việc có thật trong cuộc sống đầy khó khăn của gia đình nhà thơ ở Thành Đô ( Tứ Xuyên ). Bài thơ sáng tác năm 760 sau khi căn nhà nhỏ của ông bị gió thu phá nát. Từ hiện thực cuộc sống mà chính Đỗ Phủ là người trải nghiệm, nhà thơ đã khắc họa bức tranh hiện thực cuộc sống của những người nghèo khổ và cảm thông sâu sắc, thấm thía nỗi thống khổ của người nghèo. Trong tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Ông đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm dưới triều vua Đường Huyền Tông . Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức là 86 tuổi ), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và bạn bè ở kinh thành. Với nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm thơ ngay lúc đặt chân đến quê nhà, không chủ đích viết nhưng sao lại viết, bởi vì ở cuối bài thơ tác giả đã bị bọn trẻ làng gọi là là “khách”. Đó là “cú sốc” với tác giả nhưng lại là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ẩn đằng sau duyên cớ đó là tình cảm yêu quê hương luôn thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ. Hoặc với nhà thơ Lí Bạch, giáo viên dẫn dắt giới thiệu: Ông là người thông minh, biết làm thơ từ thưở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm hồn phóng khoáng, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ. 3. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá: Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao Chẳng hạn trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư), chúng ta phải phân tích kĩ từ “ quải ” (treo). Nhìn dòng thác từ xa, tác giả thấy như tấm lụa đào treo trước dòng sông. Người Trung Quốc coi từ “ quải ” là “nhãn tự”, bởi vì nó đã biến cảnh vật từ động sang tĩnh, dòng thác ầm ầm đổ xuống núi đã biến thành một dải lụa trắng rũ xuống yên ắng và bất động, được treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông, một vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng kì ảo và tráng lệ. Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ “ nghi ” (ngỡ), “ lạc ” (rơi xuống) và hình ảnh của dải Ngân hà. “ Ngỡ ” là biết sự thật không phải vậy (làm sao vừa có cả mặt trời lại vừa có cả dòng Ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng dùng rất đắt vì dòng Ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng. Hoặc trong bài “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần phân tích kỹ câu “ Hương âm vô cải mấn mao tồi ” (tiếng nói không thay đổi, tóc mai đã rụng) và nghệ thuật đối. Nói cái thay đổi và cái không đổi để khẳng định sự bền bỉ, chung thuỷ trong tình cảm của con người đối với quê hương. Và cũng cần phân tích kĩ tình huống khi trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” lại bị gọi là “khách từ đâu đến” để thấy được tâm trạng của nhà thơ 4. So sánh đối chiếu văn bản với các thi liệu thơ phương Đông. Đơn cử trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố”, khi phân tích câu một làm khung nền cho bức tranh toàn cảnh, trước khi miêu tả vẻ đẹp của dòng thác nước, nên so sánh đối chiếu với hai câu thơ của nhà sư Tuệ Viên (trước Lí Bạch 300 năm): “Khí bao trùm lên Hương Lô mịt mù như sương khói”. Cái mới của Lí Bạch là miêu tả vẻ.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> đẹp của dòng Hương Lô dưới những tia nắng mặt trời, làn hơi nước phản quang, ánh sáng mặt trời chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Sự thật hơi khói đã có từ trước, tồn tại thường xuyên song dưới ngòi bút của Lí Bạch, với động từ : “sinh” đã làm cho khung cảnh trở nên huyền ảo Hoặc có thể so sánh với các bài thơ khác có chủ đề phổ biến “Vọng nguyệt hoài hương”như của Đỗ Phủ: “Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hương minh” ( Sương đêm nay trắng xoá, Trăng là ánh sáng của quê nhà) Bạch Cư Dị: “Công khang mình nguyệt ưng thuỳ lệ Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng” ( Xem trăng sáng có lẽ cùng rơi lệ Một mảnh tình quê , năm anh em ở năm nơi đều giống nhau) 5. Luôn đặt bài thơ trong bối cảnh lịch sử để giúp học sinh cảm nhận được các tầng ý nghĩa của bài thơ, phần được coi là “ ý tại ngôn ngoại ” của thơ Đường: Ví dụ: Khi giảng dạy bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ phải đặt bài thơ vào trong bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ: Loạn An Lộc Sơn đã tàn phá xã hội Trung Quốc. Vua Huyền Tông nhà Đường buộc phải thoái vị, bỏ kinh đô tháo chạy. Trên khắp lãnh thổ Trung Quốc đâu đâu cũng có chiên tranh , loạn lạc, nạn đói xảy ra liên tiếp, người chết đầy đường, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, khốn cùng. Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không thể định cư lâu dài ở đâu vì chiên tranh cũng như nạn đói và sự bạc đãi của triều.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> đình. Năm 760 ông và gia đình tới Thành Đô ( Tứ Xuyên ) cũng tại đây, ngôi nhà tranh do bạ bè dựng lên cho ông và gia đình ở tạm đã bị gió thu phá nát. Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ và những gì diễn ra trong lòng xã hội lúc đó đã được nhà thơ chừng kiến, trải nghiệm bằng chính cuộc sống của mình đã ảnh hưởng rất nhiều tới thơ của ông. Qua bối cảnh lịch sử đó, học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm qua bài thơ.. KẾT LUẬN.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Thơ Đường là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc, là thành tựu của văn học nước ngoài có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nền văn học Việt Nam, đặc biệt thể thơ Đường luật này trở thành một thể thơ sáng tác quan trọng và quen thuộc của người Việt Nam ta. Thông qua những bài thơ Đường, nó đã góp phần hình thành ở con người niềm trân trọng, mến yêu những vẻ đẹp dịu dàng, trong sáng, những khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, đồng thời qua thơ Đường giúp con người biết cảm thông trước những đau khổ của đồng loại, biết phẫn nộ trước những điều phi nghĩa bất công. Bởi vậy, học và đọc thơ Đường chúng ta càng cảm thấy thú vị. Văn học nghệ thuật nói chung, thơ Đường nói riêng đã góp phần hình thành tính nhân văn của con người. Trên đây là một vài ý kiến của bản thân cá nhân về một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở nhà trường, rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của quý thầy cô .. Sông Công, Ngày 10 tháng 10 năm 2011 NHẬN XÉT , XẾP LOẠI TỔ CHUYÊN MÔN. Người viết đề tài SKKN. Ngô Thị Quỳnh Dung. PHẦN NHẬN XÉT, XẾP LOẠI CỦA NHÀ TRƯỜNG.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 1- NXB Giáo Dục 2. Sách giáo viên ngữ văn 7 tập 1 – NXB Giáo Dục 3. Thi pháp thơ Đường – NXB Trẻ 4. Giáo trình “Văn học Trung Quốc” – NXB Giáo Dục.

<span class='text_page_counter'>(15)</span>

×