Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

THAM LUAN TOAN 9 1112

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 30 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>GD. VỀ DỰ HỘI THẢO CHUYÊN MÔN TOÁN.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> THAM LUẬN. Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng môn Toán 9 Người thực hiện: NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT Giáo viên trường THCS Mỹ Hòa.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Mọi dòng sông lớn đều bắt nguồn từ những con suối nhỏ, mọi bài toán khó đều bắt nguồn từ những bài toán đơn giản hơn. Đối với học sinh lớp 9, việc phát huy được tính tự giác tích cực của học sinh là việc làm hết sức cần thiết, nó đòi hỏi người giáo viên phải có một nghệ thuật giảng dạy. Vì vậy để học sinh giỏi môn Toán, không những phải yêu cầu học sinh nắm vững và biết vận dụng các bài toán cơ bản mà còn phải biết cách phát triển nó thành những bài toán mới có tầm suy luận cao hơn, nhằm phát triển năng lực tư duy cho học sinh. Cách dạy và học như vậy mới đi đúng đổi mới giáo dục hiện nay. Có như vậy mới tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Khơi dậy khả năng tự lập, chủ động, sáng tạo của học sinh.Nhằm nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê và hứng thú học tập cho học sinh..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Dạy toán không khó nhưng làm cho học sinh yêu thích toán, giải toán, đọc hiểu được đề, giải quyết được đề đúng phương pháp là vấn đề quan trọng. Nhiều khi học sinh hiểu đề, phân tích được dữ kiện câu hỏi nhưng không trình bày được vì nhận thức không logic, suy luận không chặt chẽ. Với tình hình hiện nay, còn rất nhiều học sinh yếu, chưa tạo được sự hoạt động đồng bộ, sôi nổi, các em không hứng thú học toán làm cho học sinh sợ môn toán không tích cực làm bài tập ở lớp cũng như ở nhà. Làm bài với tính cách đối phó ( xem bài bạn, nhờ gia đình giải sẵn, chép sách giải) dẫn đến tình trạng hỏng kiến thức, mất căn bản. Làm thế nào để nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh? Đó là điều tôi rất băn khoăn, lo nghĩ..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> I. Thực trạng và nguyên nhân của việc dạy – học Toán Trước tiên chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là học sinh ngày càng học yếu môn toán, tư duy toán học ngày càng kém, số học sinh khá giỏi toán càng giảm để làm tăng thêm số lượng lớn học sinh yếu toán. Theo tôi thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây: + Một bộ phận lớn học sinh chưa ý thức được việc học, chưa xác định đúng được động cơ và mục đích học tập, đi học vì bị ép buộc của gia đình, của nhà trường và xã hội nên không thể hiện được ý thức phấn đấu vươn lên. + Một bộ phận lớn cha mẹ học sinh bị cuốn vào vòng xoáy của cơ chế thị trường, không quan tâm, quản lí đến việc học của con em mình, gia đình học sinh hầu như khoán trắng việc học con em mình cho nhà trường. + Ngoài xã hội quá nhiều trò chơi cám dỗ..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> II. Nội dung 1) Sau khi nghiên cứu kĩ chương trình toán lớp 9 và tìm hiểu nguyên nhân học yếu của học sinh. Tôi nhận thấy có thể xóa yếu kém và từng bước nâng cao chất lượng học tập bằng các biện pháp sau: 1.1.Xây dựng các nề nếp bằng biện pháp thi đua ( sơ kết, tổng kết hàng tháng, có khen thưởng, động viên) duy trì suốt năm học. 1.2.Kiểm tra chất lượng đầu năm, tìm hiểu hoàn cảnh từng học sinh. Phân chia đối tượng học sinh có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo cụ thể, thường xuyên ở từng bài, từng chương. 1.3.Chú ý rèn học sinh tính cẩn thận, phát biểu và tư duy, khả năng suy nghĩ trong mỗi tiết dạy. Ví dụ: Rút gọn biểu thức sau: A = 2– 5a ( Với a < 0 ) Do không cẩn thận nên không chú ý đến điều kiện của đề bài đã giải sai như sau: A = 2– 5a = 2a – 5a = – 3a.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 1.4.Xây dựng động cơ thái độ học tập đúng, tự giác làm bài, học bài thông qua việc kết hợp giảng dạy ở lớp với việc kiểm tra ở gia đình bằng hệ thống bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp trong từng bài từng chương. Hai tuần lễ đầu các em hay quên làm bài tập ở nhà. Tôi dùng biện pháp là cho các em đó làm lại bài tập ở 15 phút truy bài đầu giờ. 1.5.Dùng giáo cụ trực quan thích hợp với lứa tuổi học sinh. Cụ thể hóa dữ liệu thông qua số lượng hình ảnh, sơ đồ cụ thể, làm cho học sinh biết phân tích được đề toán. Từ đó nắm được kiến thức đề, biết cách xử lý và đối phó với từng loại, kiểu bài. Ví dụ: Khi dạy định lí về “ Hệ thức về cạnh và góc trong tam giác vuông ”. Tôi sử dụng sơ đồ sau:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Từ sơ đồ trên các em dễ thấy để tìm cạnh góc vuông có hai phương án: Mỗi phương án là một cách + Nếu bài toán cho biết cạnh huyền thì dùng phương án 1. + Nếu bài toán cho biết cạnh góc vuông thì dùng phương án 2..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1.6.Dùng biện pháp gợi mở thông qua thi đua lôi cuốn toàn bộ lớp, gây sự chú ý, thích thú học tập. Phát huy tính tích cực chủ động thông qua việc rèn luyện tư duy bằng những động tác nhạy bén, nhanh, chính xác. Ví dụ sau khi học xong chương I đến tiết ôn chương thì giáo viên có thể đưa ra bài tập sau: Tìm giá trị của biểu thức sau bằng cách biến đổi, rút gọn thích hợp: 640. 34,3 567. Bài này giáo viên có thể gợi mở cách làm như sau: + Đưa thừa số ra ngoài dấu căn. + Thực hiện các phép nhân và chia căn thức. + Phân tích các biểu thức dưới dấu căn thành nhân tử. + Thực hiện ngay phép nhân và chia căn thức rồi thực hiện phép khai phương..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Sau đó giáo viên cho các nhóm thi đua thực hiện xem nhóm nào làm cách hay. Có được 3 cách làm như sau: . . . 640 . 34,3 567 640 . 34,3 567. 640 . 34,3 567. . . . 640.34,3 64.343 64.49 8.7 56     567 567 81 9 9 64.10 . 34,3 81.7. 64.10 . 34,3 81.7. . 8 10 . 34,3. . 9 7. 64.343 81.7. . . 8 343 9 7. 64.49.7 81.7. . 8 343 8 56  49  9 7 9 9. . 8.7 56  9 9.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 1.7.Uốn nắn chữ viết, cách trình bày một bài toán, rèn luyện tính cẩn thận, ngăn nắp. * Tất cả các biện pháp trên không phải tôi thực hiện có kết quả ngay, tôi đã từng bước tiến hành, theo dõi kiểm tra sửa sai những lệch lạc thiếu sót trong từng biện pháp. Trong kế hoạch bồi dưỡng học sinh buổi chiều, mỗi tuần hai buổi. Tôi nhận thấy học sinh có nhiều em yếu kém. + Giải sai phương pháp, kết quả sai phần tính toán ( thực hiện các phép tính về căn thức) + Không cẩn thận, hấp tấp, tính kết quả sai ( các bài toán vận dụng hệ thức lượng trong tam giác vuông). Tôi luôn luôn động viên, nhắc nhở, dùng nhiều hình thức tích cực để động viên tinh thần hăng hái thi đua học tập của học sinh. Những học sinh trung bình, yếu tôi thường xuyên kiểm tra sau bước củng cố bài và ngay sau giờ học..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 2)Biện pháp quan trọng tiếp theo để nâng cao chất lượng học toán của học sinh là phương pháp dạy của giáo viên. +Phương pháp dạy ở lớp: -Vấn đề dạy một tiết toán đạt tốt, học sinh nắm vững kiến thức của một tiết học thì việc đầu tư vào một giáo án là không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của môn Toán là một môn học rất gần gũi với thực tế đời sống nên người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết dạy của mình để làm nổi rõ sự kết hợp, gắn bó của Toán học với cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ phải dễ hiểu để học sinh dễ nhìn nhận, chiếm lĩnh tri thức mới.Với phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta cần thiết kế một hệ thống câu hỏi logic, gợi mở từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra kiến thức mới. Từ đó kiến thức mới sẽ được học sinh khắc sâu, nhớ lâu và sẽ gây hứng thú trong học tập..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> -Dạy môn toán cần dạy cho học sinh nắm chắc các khái niệm, các qui ước, các ký hiệu, các tính chất… Nó là mấu chốt để học sinh khỏi mơ hồ, lẫn lộn giữa cái này với cái khác, có suy nghĩ lệch lạc, quan niệm tách rời xa với thực tế đời sống. Chẳng hạn, dạy về chu vi một hình, học sinh phải biết chu vi một hình là gì ? Tại sao hình vuông lại lấy (cạnh x 4) còn chu vi hình chữ nhật lại tính (dài + rộng ) x 2… Các vấn đề đó rất gần gũi với đời sống, nếu chúng ta không để ý tới thì đôi khi học sinh chỉ thực hành một cách máy móc, rập khuôn các công thức do vậy mau quên, kiến thức Toán học không được sâu sắc. -Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, nếu có điều kiện cần phát huy mặt này. Chẳng hạn khi dạy bài “ Đo độ dài đường tròn, cung tròn ” từng học sinh phải có thước đo để học sinh nắm chắc cách đo, kích thước của mỗi đơn vị độ dài; giáo viên cũng cần chuẩn bị các dụng cụ đo: thước thẳng, thước dây, 1 tấm bìa hình tròn….

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Để tạo tình huống gây trí tò mò cho học sinh khi dạy chứng minh định lí “ Tổng 2 góc đối trong một tứ giác nội tiếp bằng 1800 ”, giáo viên phải chuẩn bị thước đo góc và bảng phụ có vẽ sẵn các tứ giác: tứ giác có 4 đỉnh nằm trên đường tròn và tứ giác có 3 đỉnh nằm trên đường tròn còn đỉnh thứ 4 thì không. Vào đầu tiết học giáo viên cho lần lượt một số học sinh lên đo 2 góc đối nhau của tứ giác có 4 đỉnh nằm trên đường tròn và đo 2 góc đối nhau của tứ giác không nội tiếp đường tròn. Gợi ý cho các em phát hiện một điều thú vị là “ Tổng số đo hai góc đối nhau của một tứ giác nội tiếp bằng 1800 ”. Lúc này đặt vấn đề cần thiết chứng minh điều thú vị đó. Vì vậy đầu tư vào việc chuẩn bị đồ dùng trực quan cho một tiết dạy là hết sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế, hiểu được các kiến thức đó có được do đâu? Dựa trên cơ sở nào?… Còn rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn, dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Một vấn đề cần thiết nữa đặt ra là khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài. Sau mỗi tiết học đều phải có phần củng cố và luyện tập; bằng những câu hỏi trọng tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh; chú ý đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung bài học; bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán rất đơn giản đến phức tạp Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra một lúc được nhiều học sinh; nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt được..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Chẳng hạn khi dạy bài " Giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn" giáo viên phải đưa ra một số bài tập nâng cao dần như sau:  x  y 10 a .  x  y 2.  x  2y 5 b.  3x  2y  1.  x  2y 3 d.  3x  y 16. 3x  2y 7 e.  2x  3y 3. 2x  2y 9 c.  2x  3y 4. Các bài tập a, b, c, d dành cho học sinh yếu và kiểm tra một lúc đồng thời 2 học sinh lên bảng . Là các bài tập yêu cầu tối thiểu sau một tiết dạy học sinh phải tự làm được..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Khi giảng bài “Tứ giác nội tiếp”, kiến thức học sinh cần nắm được trong tiết học này là nội dung định lí, định lí đảo. Nội dung định lí được phát biểu như sau: “Trong một tứ giác nội tiếp, tổng số đo hai góc đối nhau bằng 1800 ”. Để giúp học sinh nắm được định lí, cách vận dụng định lí để giải bài tập, yêu cầu tối thiểu để học sinh đạt được, giáo viên ra một bài tập: Cho tam giác ABC, các đường cao AH, BK, CI, O là trực tâm. Chứng minh tứ giác AIOK nội tiếp. Với bài tập này học sinh vận dụng trực tiếp định lí để giải. Xét tứ giác AIOK có: OIA = 900 (CI AB ) OKA = 900 (BK AC ) OIA + OKA = 1800. Vậy : tứ giác AIOK có tổng hai góc đối nhau bằng 1800 nên nội tiếp được đường tròn..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Qua bài tập này giáo viên rút ra nhận xét cho học sinh thấy: Để c/m tứ giác nội tiếp được đường tròn ta chứng minh tổng số đo hai góc đối diện bằng 1800 . Sau khi học sinh nắm được bài tập này, giáo viên cho một bài tập nâng cao hơn như sau: Tứ giác ABCD có 2 đường chéo vuông góc với nhau tại O. Gọi M, N, P, Q lần lượt là hình chiếu của O trên các cạnh AB, BC, CD, DA.Chứng minh M, N, P, Q nội tiếp đường tròn. Để giúp đỡ nhau trong học tập, học sinh khá giúp học sinh yếu, giáo viên có thể tạo ra các cặp học tập khá yếu. Trong những lúc rãnh rỗi, trong những giờ giải lao, kể cả ở nhà chỗ nào chưa hiểu bạn yếu có thể hỏi bạn khá. Khi đã tổ chức làm thì phải có những hình thức tuyên dương điển hình, khuyến khích thi đua với nhau, có kiểm tra việc tiến bộ của học sinh yếu với mục đích các em đều học được môn Toán và có phong trào học tập sôi nổi. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập chương, cách liệt kê các công thức toán để tóm tắt và chốt lại những điểm trọng tâm vận dụng vào giải bài tập..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Tóm lại trong quá trình dạy học sự nhiệt tình, chịu khó, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên là điều không thể thiếu được để dạy nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Nhưng đó cũng chỉ là một mặt, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để học sinh đạt chất lượng cao. Phải có sự kết hợp,vận dụng sáng tạo trong phương pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học mới hiện nay. Người giáo viên cần chú ý trong từng trường hợp, từng đối tượng học sinh để có điều kiện phát triển khả năng tư duy, chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng kỹ xảo trong việc giải toán..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> +Phương pháp ra bài tập về nhà: Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở phạm vi sách giáo khoa sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn. Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết. Vì vậy vấn đề luyện tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lí thuyết được bền vững là rất cần thiết..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không được khắc sâu đậm nét. Chẳng hạn khi dạy học sinh mới giải toán hình, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực hành thì chắc chắn các em không nhạy bén,vận dụng lý thuyết ít được linh hoạt vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm sút chất lượng trầm trọng. Nói chung do đặc điểm của môn Toán là môn học không thể nói suông, nói và làm phải luôn đi song song với nhau.Vì vậy, cần thực hành để rèn luyện kỹ năng, khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> +Phương pháp kiểm tra bài tập về nhà và kiểm tra định kỳ: - Kiểm tra bài cũ, kiểm tra bài tập về nhà là việc rất cần thiết. Nếu chúng ta kiểm tra thường xuyên thì việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của các học sinh sẽ chu đáo hơn. Ngược lại, nếu bị xem nhẹ thì việc chuẩn bị bài tập, học bài cũ sẽ hạn chế và chất lượng học tập giảm rõ rệt. - Ở lứa tuổi của các em nhất là đầu cấp học đôi khi nhận thức còn kém, học là để đối phó thầy cô giáo, học là để giáo viên kiểm tra bài mình đã làm, đã thuộc. Chưa có sự hiểu biết phải tự giác học để hiểu, để bản thân mình được tiến bộ. Do vậy kiểm tra bài cũ thường xuyên là biện pháp để học sinh tự giác học bài và làm bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó tạo nên không khí lớp học nghiêm túc, trật tự, mọi học sinh đều ở tư thế chuẩn bị giáo viên sẽ kiểm tra mình. -Thời gian kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học rất có giới hạn, không thể kiểm tra hết được.Vì vậy muốn nắm được việc làm bài tập ở nhà của học sinh một cách toàn diện người giáo viên phải nghĩ ra kế hoạch phân công các tổ trưởng chịu trách nhiệm kiểm tra từng thành viên trong tổ ở đầu buổi học..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Đầu tiết học các tổ trưởng báo cáo tình hình chuẩn bị bài tập ở nhà của từng tổ viên. Học sinh nào chưa làm bài tập ở nhà sẽ có biện pháp xử phạt thích đáng. Trong trường hợp học sinh không làm bài tập ở nhà mà lên lớp mượn vở bạn chép cũng được báo lại và sẽ xử phạt nặng hơn. - Giải pháp nữa là giáo viên cùng với các em bầu cán sự bộ môn Đại số và Hình học để chính những em này sẽ là hạt nhân: Thứ nhất có thể giải bài tập khó cho các bạn (nếu em giải được), chỉ đạo trong công tác kiểm tra việc làm bài của các bạn. Thứ hai làm một cầu nối để thông tin lại về chất lượng giờ dạy của giáo viên (các em có hiểu bài không, phương pháp truyền đạt của thầy Sau khi các tổ trưởng báo cáo lại xong giáo viên mới kiểm tra bài cũ. Nếu kiểm tra có gì không khớp với báo cáo của tổ trưởng thì sẽ có biện pháp xử phạt tổ trưởng vì chưa thực hiện đúng với sự phân công. Có như vậy trong từng tiết học mới sớm phát hiện được những học sinh lười học bài, lười làm bài tập giúp giáo viên sớm có biện pháp xử lý và tìm ra nguyên nhân cụ thể để sớm khắc phục..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> -Công tác đánh giá định kỳ (bài kiểm tra ) nên ra 2 hoặc 3 đề trong một giờ kiểm tra giúp các em tính tự lực cánh sinh trong làm bài, sau khi chấm trả bài giáo viên nên lập bảng tổng hợp điểm: Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém để theo dõi chất lượng qua các bài kiểm tra để từ đó có biện pháp nâng cao chất lượng. Với kế hoạch kiểm tra bài tập ở nhà và đánh giá như trên, người giáo viên đã kiểm tra được toàn diện học sinh. Phải làm thường xuyên, liên tục mới thấy được kết quả nâng cao chất lượng rõ rệt tạo thành nếp thi đua học tập sôi nổi ở học sinh. Học sinh hứng thú học tập, giáo viên biết được các học sinh cá biệt của mình. Khi trở thành thói quen, giáo viên làm việc rất nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Từ các báo cáo tổng quát đến cụ thể tình hình học tập của học sinh, giáo viên kịp thời nắm bắt được lỗ hổng của học sinh mà kịp thời sửa chữa..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> -Tóm lại, những kế hoạch ở lớp, kế hoạch ra bài tập về nhà đến kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà là những suy nghĩ tìm ra phương pháp làm việc của bản thân trong thời gian qua. Với những kế hoạch đó bản thân tôi đã làm nhiều năm và thấy chất lượng dạy học tăng rõ rệt. Nhưng dù sao thì tinh thần trách nhiệm, tính nhiệt tình trong công tác, hăng say trong nghề nghiệp là không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy, nó phải được xuất phát từ tâm của một nhà giáo. +Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh là việc phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn với gia đình, xây dựng mối tương quan "Gia đình nhà trường - xã hội " trong quá trình giáo dục học sinh..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> -Việc phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm trong công tác dạy học cũng là điều cấn thiết. Giáo viên bộ môn phải trao đổi với giáo viên chủ nhiệm những học sinh cá biệt, học sinh lười để cùng hợp tác kiểm điểm, nhắc nhở, xử phạt; dùng đủ hình thức từ mềm dẻo đến cứng rắn hơn sao cho các em sửa chữa tiến bộ dần theo đà cả lớp. Cũng thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn mới nắm được tình hình gia đình của những em cá biệt có hoàn cảnh khó khăn, gia đình buông lỏng hay ảnh hưởng của bạn bè xung quanh ….để có biện pháp phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn. -Giáo viên chủ nhiệm cũng có trách nhiệm trao đổi với giáo viên bộ môn những học sinh cá biệt ở lớp mình, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn… để giáo viên bộ môn nắm bắt được tình hình trước, có cách xử lý khéo là liều thuốc chữa bệnh có hiệu quả nhất mang lại kết quả nhanh nhất..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> -Còn vấn đề phối hợp giữa gia đình học sinh và nhà trường cũng không thiếu được; cụ thể là giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và gia đình. Giáo viên có trách nhiệm báo về gia đình kịp thời những sai sót, lười biếng… của học sinh cho gia đình biết (Thông qua trao đổi trực tiếp hay phiếu kiến nghị với gia đình hay lời phê, nhận xét trực tiếp vào vở bài tập của các em ). Từ đó gia đình cho biết ý kiến, giáo viên mới tham khảo theo ý đó mà xử lý phù hợp. Những trường hợp vi phạm quá mức có thể báo cáo với liên đội, ban giám hiệu nhà trường, hội phụ huynh để phối hợp giáo dục các em..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Tất cả những kế hoạch phối hợp nêu trên giúp chúng ta giáo dục các em một cách toàn diện. Phải có mối liên kết với nhau giữa tất cả các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, ban giám hiệu và gia đình, xã hội đó là phương pháp “thế cờ vây” vào một mục tiêu, giải thích cho các em hiểu rằng việc học tập trước tiên là học cho chính mình, cho gia đình, cho xã hội. Buộc các em phải cố gắng vươn lên trong học tập bên cạnh đó có sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo, việc học trở thành rất cần thiết cho các em mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích . Trong tình hình chất lượng học sinh hiện nay, tất cả các môn nói chung và môn toán nói riêng, học sinh yếu kém càng ngày càng “ nở ra”, học sinh khá giỏi càng ngay bị “ co lại". Là người giáo viên đứng trước tình hình đó phải trăn trở suy nghĩ tìm nguyên nhân chính, cơ bản dẫn đến kết quả nêu trên, để có biện pháp thích đáng, hữu hiệu, tìm ra giải pháp tối ưu nhất để nâng dần chất lượng, đảm bảo yêu cầu giáo dục theo kịp thời đại..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Với lòng yêu nghề mến trẻ và tinh thần trách nhiệm, tôi sẽ đầu tư nghiên cứu chuyên môn, học tập ở các đồng nghiệp, áp dụng các biện pháp trên để dạy học sinh đạt kết quả cao hơn nữa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Vì khả năng có hạn, kinh nghiệm giảng dạy môn Toán 9 chưa nhiều, tầm quan sát tổng thể chưa cao, lại nghiên cứu trong một thời gian ngắn, nên khó tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Rất mong được lãnh đạo và đồng nghiệp chỉ bảo, giúp đỡ và bổ sung cho tôi đầy đủ hơn, để có thể vận dụng được tốt và có chất lượng trong những năm học sau. Tôi xin chân thành cảm ơn !.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> •.

<span class='text_page_counter'>(31)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×