Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu 10 nguyên ngân dẫn đến phá sản doanh nghiệp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.9 KB, 7 trang )

10 nguyên ngân dẫn đến phá sản doanh nghiệp


Kinh doanh không thể không tránh được nhưng lúc làm ăn thua lỗ hay thất bại
trên thương trường. Điều quan trọng là các doanh nghiệp biết từ những thất bại đã mắc
phải để “đứng lên” và thành công hơn trong các kế hoạch kinh doanh tiếp theo. Có thế
doanh nghiệp mới tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường vốn ngày một cạnh
tranh “khốc liệt” hơn.
Các nhà doanh nghiệp khi thất bại trong kinh doanh thường chỉ biết đổ tại cho 2
nguyên nhân dẫn đến phá sản là nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái và do mình
thiếu vốn. Để chống lại sự thất bại hay phá sản, thực tế chỉ có một phương thức duy
nhất: nhà doanh nghiệp phải có ý thức nhanh chóng rút ra bài học từ những thất bại,
không lặp lại những sai lầm đã dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Qua thực tế thương trường có thể rút ra 10 kinh nghiệm xương máu, cũng tức là
10 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự yếu kém và thất bại của một doanh nghiệp.
1. Không có sản phẩm mang tính cạnh tranh
Năng lực kinh doanh và khả năng thành công của doanh nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào ý tưởng của sản phẩm và đưa ý tưởng vào thực tế thị trường. Đây là một yếu
tố cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp. Các yếu tố khác không thể thay thế và chỉ hỗ trợ
được một phần nhỏ. Một sản phẩm có tính cạnh tranh không đơn giản là hơn các sản
phẩm khác về giá cả, chất lượng. Điều quan trọng là doanh thu phải đảm bảo bù đủ các
chi phí, ngoài ra còn đem về lợi nhuận. Điều này áp dụng cho cảcác sản phẩm hàng
hoá, các sản phẩm dịch vụ, các ngành công nghệ cao cũng như cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh thủ công, cá thể. Sẽ chẳng giúp ích được gì cho nhà doanh nghiệp nếu sản
phẩm dù tốt hơn, rẻ hơn mà doanh thu vẫn không đảm bảo trang trải các chi phí cần
thiết. Như vậy tính cạnh tranh của một sản phẩm sẽ không phải do một kế hoạch, một
đề án kinh doanh quyết định mà hoàn toàn do thị trường quyết định. Rất có thể khi
mới thành lập doanh nghiệp, sản phẩm có tính cạnh tranh thật nhưng sau đó không duy
trì được lâu dài. doanh nghiệp nào không có sản phẩm có tính cạnh tranh thì nên rút lui
sớm khỏi thị trường để hạn chế thiệt hại về vốn.
Lời khuyên thứ nhất. Đối với một sản phẩm mới, doanh nghiệp phải hết sức cẩn


trọng trong việc đầu tư lớn bởi không biết chắc chắn có hoàn toàn thành công hay
không.
2. Chi phí cá nhân của nhà doanh nghiệp quá lớn
Nhiều nhà doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ lầm tưởng mình cũng có
quyền hưởng một thu nhập cố định như nhân viên. Dường như nhiều nhà doanh nghiệp
không biết hoặc biết mà quên rằng mình chỉ được hưởng những gì còn lại của doanh
nghiệp sau khi trừ mọi chi phí và đầu tư. Phần còn lại này đối với thời kỳ đầu của
doanh nghiệp là không nhiều, thậm chírất ít, trong khi thu nhập của nhân viên ổn định.
Nhiều nhà doanh nghiệp nhận biết khá muộn vì sao các ngân hàng dễ dãi chấp thuận
các khoản vay của doanh nghiệp, trong đó có cả phần sử dụng cho mục đích cá nhân
như cải tạo nâng cấp nhà riêng, biệt thự của nhà doanh nghiệp. Suy cho cùng điều đó
càng làm tăng thêm giá trị tài sản thế chấp là bất động sản của doanh nghiệp tại ngân
hàng.
Lời khuyên thứ hai. Nhà doanh nghiệp sẽ không bao giờ phá sản khi chi tiêu
cho nhu cầu cá nhân thấp hơn khoản lợi nhuận làm ra.
3. Sử dụng quá nhiều nhân viên
Chi phí cho nhân viên ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn và gần như cố định với
các doanh nghiệp. Nếu không sử dụng và bố trí nhân viên hợp lí thì việc trả lương là
một gánh nặng đối với doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp có biến động xấu thì
việc giảm kịp thời nhân viên sẽ cứu doanh nghiệp khỏi bị phá sản. Có thể các nhà
quản lí vĩ mô, người làm chính sách chế độ không thích thú điều này nhưng thực tế đã
chứng minh các doanh nghiệp sớm giảm bớt nhân sự là những doanh nghiệp thành
công. Khi một doanh nghiệp thất bại vì có quá nhiều nhân viên, người ta không quan
tâm vì lí do xã hội hay không có khả năng quản lí và điều hành nhân viên.
Lời khuyên thứ ba. doanh nghiệp chỉ tuyển nhận một số lượng nhân viên vừa
với khả năng quản lí và điều hành họ làm việc tối đa và hiệu quả.
5. Doanh nghiệp bị xù nợ
Nhiều doanh nghiệp coi việc bị xù nợ là khó biết trước và khó mà tránh được.
Điều đó hoàn toàn không đúng vì phần lớn các món nợ bị mất đều có nguyên nhân từ
một quyết định sai lầm của doanh nghiệp. Chẳng hạn doanh nghiệp không thu thập đủ

thông tin cần thiết về khách hàng, doanh nghiệp bỏ qua lời khuyến cáo từ trước, vẫn
tiếp tục cung ứng hàng khi khách hàng vẫn còn nợ cũ tồn đọng. Đặc biệt với những
khách hàng mới và với những thương vụ lớn cần phải có những biện pháp an toàn hay
phòng ngừa. Các doanh nghiệp ít bị xù nợ vì rất quan tâm đến khả năng tài chính của
khách hàng. Họ sẵn sàng từ chối một hợp đồng kinh doanh khi thấy nghi ngờ hoặc rủi
ro mất nợ là quá lớn. Các doanh nghiệp đang có khó khăn về kinh doanh, doanh thu
thường dễ dãi tiếp nhận các hợp đồng. Chính sự dễ dãi, coi thường này có thểd ẫn đến
bị mất nợ và trở thành một cú đòn quyết định gây nên phá sản.
Lời khuyên thứ tư. Hợp đồng tốt nhất của doanh nghiệp chính là hợp đồng kinh
doanh mà doanh nghiệp không mạo hiểm và từ chối thực hiện.
5. Doanh nghiệp bị nợ quá nhiều
Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là khi mới thành lập, thường vay nợ quá nhiều,
nhất là khi có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn có tính khuyến khích, hỗ trợ. Nhiều
doanh nghiệp nhận biết quá muộn rằng không phải lãi suất của tín dụng mà thực chất
là tổng khối lượng tín dụng phải hoàn trả mới là quyết định sự thành bại của doanh
nghiệp. Các hợp đồng vay vốn dài hạn thường là khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi
quyết định nhầm lẫn nhưng khó có thể giải quyết ngay được. Nhiều doanh nghiệp tính
toán phiêu lưu, cho rằng sẽ được chiết khấu, tiết kiệm được nhiều thuế nếu tăng cường
vay vốn để đầu tư mua sắm, thuê tài chính, thuê máy móc, xe cộ. Điều đó chỉ đúng khi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi và lãi nhiều. Khi gặp khó khăn, không tạo ra
lợi nhuận thì gánh nợ và vốn vay sẽ là đòn quyết định làm cho doanh nghiệp chóng bị
phá sản.
Lời khuyên thứ năm. Người giàu không phải là người được sử dụng nhiều tiền
vay nợ mà là người có nhiều tiền sở hữu.
6. Nhà doanh nghiệp quá chú ý đến tiện nghi
Bất kể một tiện nghi nào thì nhà doanh nghiệp đều phải chi phí. Các nhà kinh
doanh thành công đều bắt đầu từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến tiện nghi. Trước đây
các nhà doanh nghiệp bắt đầu sự nghiệp kinh doanh phần lớn đều từ ngay căn hộ
mình đang ở hay nhà kho, nhà để xe được tu sửa. Bây giờ quá nhiều doanh nghiệp trẻ
khởi sự lại thích tiện nghi ngay từ ban đầu, thuê những văn phòng, trụ sở đắt tiền,

sang trọng. Đó là chưa kể những tu sửa tốn tiền, mua sắm đồ dùng văn phòng cho hợp
với sở thích của mình. Họ quá thiên lệch, thậm chí nhầm lẫn khi cho rằng thế mới là
cách tạo uy tín nhanh chóng cho doanh nghiệp của mình. Thực ra họ ưa thích tiện
nghi dường như quên mất rằng chính chất lượng dịch vụ và sản phẩm của doanh
nghiệp mới tạo nên uy tín lâu dài của doanh nghiệp.
Một ví dụ cụ thể là nhiều doanh nghiệp ngay từ đầu đã trang bị một hệ thống
tin học khá hoàn hảo với các máy tính thế hệ mới nhất nhưng thực ra lại chỉ có nhu
cầu sử dụng nhữngc hức năng tối thiểu nhất. Không phải nhà doanh nghiệp nào cũng
cần có thư ký riêng, lái xe riêng. Không phải doanh nghiệp nào cũng cần có nhân viên
đánh máy, nhân viên lau dọn, vệ sinh phòng làm việc. Tất cả những công việc kể trên
đều có thể thuê, sử dụng các dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Như thế vừa hiệu
quả kinh tế hơn, vừa có chất lượng tốt hơn, lại không bị động. Suy cho cùng, nhà
doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp không phải để nâng cao địa vị xã hội mà là để
kinh doanh kiếm nhiều tiền hơn.
Lời khuyên sáu. Một doanh nghiệp có thể thành công bắt đầu từ một nhà để xe,
có thể sẽ thất bại từ một lâu đài.
7. Quá xem nhẹ những thua lỗ ban đầu
Nhiều doanh nghiệp lầm tưởng rằng việc kinh doanh thua lỗ trong những năm
đầu tiên thành lập là không thể tránh khỏi. Do đó thường xem nhẹ những kết quả kinh
doanh thua lỗ lúc ban đầu, không chú trọng tìm hiểu nguyên nhân. Khi nhận biết thì
đã quá muộn, doanh nghiệp có thể trên bờ phá sản. Trên thực tế, diễn biến thị trường,
khách hàng, kết quả kinh doanh không hoàn toàn theo dự kiến và kế hoạch kinh doanh
ban đầu của doanh nghiệp. Nếu kết quả thua lỗ ban đầu nằm trong trù tính trước thì
nguyên nhân thua lỗ vẫn nằm ngoài dự báo. Không phát hiện, phân tích đúng nguyên
nhân dẫn đến thua lỗ và không có những biện pháp điều chỉnh chính sách kinh doanh
cho phù hợp càng làm chính sách kinh doanh sai lầm tiếp tục và dẫn đến nguy cơ thất
bại.
Lời khuyên thứ bảy. Lợi nhuận không phải là tất cả, nhưng nhà doanh nghiệp
không được chủ quan, phải quan tâm đến lợi nhuận ngay từ thời kỳ đầu.
8. Chỉ nghĩ đến doanh số

Rất nhiều nhà doanh nghiệp chỉ mải mê nghĩ đến doanh số mà quên mất rằng
thực ra mục đích kinh doanh là lợi nhuận chứ không phải doanh số. Nhiều doanh
nghiệp mới thành lập đã vội tự hào vềs ự phát triển kinh doanh, mở rộng qui mô
nhanh chóng. Đặc biệt thể hiện bằng một vài hợp đồng hay công trình lớn. doanh
nghiệp vội vã đầu tư dây chuyền lớn,hiện đại, tuyển nhiều nhân viên. Nhưng kết cục
lại đáng buồn. doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm tổ chức và điều hành qui mô lớn
hơn, nhiều vấn đề mới phát sinh mà chưa có kinh nghiệm. Hơn thế, nhiều khi nhóm
khách hàng nhỏ dễ bị sao nhãng, thậm chí bỏ rơi. Khách hàng lớn và hợp đồng lớn thì
không có. Làm gì với số tài sản và nhân sự mới được đầu tư, tuyển nhận? doanh
nghiệp rất dễ có nguy cơ phá sản trong những trường hợp như vậy. Khi các doanh
nghiệp lớn tăng doanh số, tăng thị phần, các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó duy trì
hoạt động tốt. Bởi đó là chính sách kinh doanh phù hợp với các tập đoàn, các công ty
quốc tế trường vốn. Tất nhiên nếu không có doanh số thì không thể có lợi

×