Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.52 KB, 27 trang )

TRƢỜ

Ụ V
Ọ SƢ

T
M HÀ N I

TRẦN THỊ DIỄM H NH


ỂM CA TỪ TRONG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
Chuyên ngành

: gôn ngữ học

Mã số

: 9.22.90.20

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾ SĨ

Hà Nội - 2021

Ơ

Ữ HỌC


LUẬ


TRƢỜ

ƢỢC HOÀN THÀNH T I
I HỌ SƢ
M HÀ N I

gƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. T VĂ T Ô
Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam
2.

S.TS. ẶNG THỊ HẢO TÂM

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Viện Ngôn ngữ học
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
Phản biện 3: PGS. TS Trần Kim hƣợng
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng cấp trường họp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi … giờ, ngày … tháng ..... năm 2021

Có thể tìm đọc luận án tại:
- Thư viện Quốc gia;
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.



MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tìm hiểu ngơn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học dân gian
từ góc nhìn Ngơn ngữ học xưa nay đã có lịch sử lâu dài và đạt được những
thành tự đáng kể. Nhưng nghiên cứu và soi chiếu lí thuyết Ngơn ngữ học vào ca
từ của một thể loại dân ca vùng miền thì vẫn cịn một khoảng trống lớn cần
được lấp đầy. Đó là một hướng đi nhiều triển vọng, hấp dẫn và hứa hẹn những
thành tựu mới.
1.2. Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú
Thọ nói riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung.
Đây là loại hình dân ca được sinh ra ở một vùng văn hóa cổ, mang đậm tính
nghi lễ, phong tục - cịn gọi là hát cửa đình hay “Khúc mơn đình”, được trình
diễn vào hội làng mùa xn. Hát Xoan là hình thức nghệ thuật diễn xướng tổng
hợp: ca – múa - nhạc, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng.
1.3. Hát Xoan Phú Thọ đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi
vật thể đại diện của nhân loại (3 – 2 - 2018). Cũng như nhiều di sản văn hóa phi
vật thể khác, hát Xoan đang đứng trước sự tiếp biến văn hóa và nguy cơ mai
một. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bảo tồn và làm lan tỏa giá trị của
di sản này cho các thế hệ kế tiếp.
Trong những tìm hiểu về ngơn ngữ tiếng Việt và về văn học dân gian,
chưa có một cơng trình chun biệt nào nghiên cứu về ca từ trong hát Xoan Phú
Thọ.
Xuất phát từ những lí do trên, luận án đã lựa chọn đề tài “Đặc điểm ca
từ trong hát Xoan Phú Thọ” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Chỉ ra và miêu tả được đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong các bài hát
Xoan Phú Thọ trên hai phương diện hình thức và ngữ nghĩa.
2.2. Phân tích và làm sáng tỏ phần nào được đặc trưng văn hóa – văn học
của các bài hát Xoan Phú Thọ thông qua đặc điểm ngôn ngữ của ca từ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

1


- Tìm hiểu những vấn đề cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và tập hợp tư liệu có liên quan về hát Xoan.
- Miêu tả đặc điểm ngôn từ trong hát Xoan Phú Thọ trên hai phương diện:
hình thức (các hình thức kết cấu văn bản, thể, vần, nhịp, sự hòa phối thanh điệu)
và ngữ nghĩa (nhan đề, các trường từ vựng, một số biểu tượng ngôn ngữ trong
ca từ hát Xoan).
4. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung xem xét ngôn ngữ trong ca từ 42 bài hát Xoan Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của
ca từ các bài hát Xoan
Phạm vi tư liệu là nhan đề, lời bài hát của 42 bài hát Xoan phổ biến ở tỉnh
Phú Thọ.
5. hƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Ngôn ngữ học điền dã
5.2. Phân tích - miêu tả
5.3. Phân tích diễn ngơn
5.4. Nghiên cứu liên ngành
5.5. Thủ pháp thống kê, phân loại
6. Những đóng góp của luận án
- Về mặt lý luận:
Những kết quả đạt được của luận án có thể làm phong phú hơn cho những
nghiên cứu về ca từ của một thể loại dân ca vùng miền trên đất nước. Hướng
nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong nghiên cứu ca từ của các tác phẩm
âm nhạc có lời (dân gian và hiện đại) của Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:

Những kết quả đạt được của luận án có thể giúp giải mã sức hấp dẫn, sự độc
đáo của loại hình âm nhạc hát Xoan Phú Thọ dưới góc độ Ngôn ngữ học.
2


Đây cũng có thể là một đóng góp làm giàu thêm cho phần tư liệu và cách
nhìn nhận, đánh giá về di sản hát Xoan.
Những kết quả đạt được ban đầu của luận án cũng có thể gợi ý cách tiếp
cận các thể loại âm nhạc dân gian khác - món ăn tinh thần khơng thể thiếu trong
đời sống của nhân dân.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương:
hƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu; cơ sở lí luận và thực tiễn
hƣơng 2: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ xét về hình thức
hƣơng 3: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ xét về ngữ nghĩa
ƢƠ

1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu về ca từ hát Xoan Phú Thọ
1.1.1. Những nghiên cứu về “ca từ” nói chung
1.1.1.1. “Ca từ”là gì?
“Ca từ” (lyric) là lời ca, lời bài hát bắt nguồn ở phương Tây, có thể từ tên
một nhạc cụ là đàn Lia (tiếng Pháp = lyre), hoặc “lyre” cịn có nghĩa là tài làm
thơ. Ngồi ra, gốc từ này cịn xuất hiện trong poème lyrique hoặc lyrisme nghĩa
là thơ trữ tình.
Theo các khái niệm đã nêu của các tác giả trên thế giới và Việt Nam, luận

án cho rằng: “ca từ” là tất cả phần ngôn ngữ văn học trong bài hát bao gồm
nhan đề và phần lời để hát.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về “ca từ” trong tác phẩm âm nhạc dân gian
a. Ngoài nước
Những nghiên cứu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc trên thế giới
thường nghiêng về góc nhìn từ lĩnh vực âm nhạc. Các nhà nghiên cứu thường
3


đặt ca từ trong mối quan hệ với các yếu tố khác như vũ đạo, âm nhạc, tiết tấu và
diễn xướng.
b. Ở Việt Nam
Những nghiên cứu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc ở Việt Nam chủ
yếu là những cơng trình nghiên cứu ca từ dưới góc độ của lĩnh vực âm nhạc,
lịch sử, văn hóa dân gian, dân tộc học. Trong số ít những cơng trình tìm hiểu về
lĩnh vực này, có thể kể tới một số bài viết của các tác giả như Trần Kim
Phượng, Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Anh Tư. Như vậy, lịch sử nghiên cứu về
ca từ dưới góc nhìn Ngơn ngữ học chưa có bề dày và kết quả cịn hạn chế.
Điều này cho thấy sự cần thiết có thêm các cơng trình tìm hiểu về ca từ
trong các tác phẩm âm nhạc có lời ở Việt Nam nhất là vốn dân ca, nhạc cổ
truyền.
1.1.2. Những nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ
1.1.2.1. Trên các phương diện văn hóa, lịch sử, xã hội và nghệ thuật
a. Những vấn đề lịch sử, xã hội liên quan đến hát Xoan
- Nguồn gốc, tên gọi
- Các vấn đề liên quan tới tục lệ của hát Xoan (mục đích, địa bàn và lịch trình đi
hát của các phường Xoan, cơ cấu tổ chức phường Xoan, trang phục của các đào,
kép Xoan)
b. Những vấn đề văn hóa, nghệ thuật liên quan đến hát Xoan
- Về phương thức trình diễn hát Xoan

- Về âm nhạc trong hát Xoan
- Về vũ đạo trong hát Xoan
- Về văn học và ngơn ngữ trong hát Xoan
1.1.2.2. Những tìm hiểu về ca từ trong hát Xoan Phú Thọ
a/ Những nhận xét của các tác giả Việt Nam
Các tác giả như Tú Ngọc, Trần Quang Hải, Nguyễn Thụy Loan, Đặng
Hoành Loan, Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy Thiện có nhắc tới yếu tố ca từ
của các bài hát Xoan trong các tài liệu [83] , [87], [88], [108], [112], [113], [116],
[121], [123], [130],… Các ý kiến, nhận xét của các tác giả đa phần đề cập đến ca
từ hát Xoan dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu âm nhạc và văn hóa dân gian.
4


b/ Những nhận xét của các tác giả nước ngoài
Các tác giả Bountheng Souksavatd (Lào), Bussakorn Binson (Thái Lan),
Tan Sooi Beng (Đài Loan), Xiao Mie (Trung Quốc), Sheen Dae Cheol (Hàn
Quốc), Triyono Bramantyo (Inđônêxia), Gisa Jahnichen (Đức), Joe Peter (Pháp),
Yves Defrance (Pháp), Panikos G. Giorgoudes (Hy Lạp), Maria Walcher
(Áo),… đã đưa ra những nhận xét về giá trị của hát Xoan (âm nhạc, lễ nghi,
diễn xướng, cách hát,…) và các phương thức bảo tồn, làm lan tỏa hát Xoan.
1.1.2.3. Nhận xét chung
Có thể nói, khi nghiên cứu hát Xoan, các tác giả thường đi sâu vào mơ tả
rồi từ đó xác định những yếu tố biểu trưng như nguồn gốc lịch sử, xã hội các
khía cạnh văn hóa, nghệ thuật. Việc nghiên cứu một số khía cạnh trong văn hóa,
nghệ thuật tuy đã có những cơng trình mang tính chun sâu về từng mặt như
âm nhạc, diễn xướng, vũ đạo, dân tộc học,… nhưng vẫn chưa có được những
nhận xét, kết luận một cách đầy đủ và rõ ràng. Các nghiên cứu về giá trị ca từ
dưới góc nhìn Ngơn ngữ học nhìn chung cịn rất ít và chưa phải là những khảo
sát tồn diện, tỉ mỉ.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn

1.2.1. Cơ sở lí luận
1.2.1.1. Cơ sở ngơn ngữ học
i. Diễn ngơn và phân tích diễn ngơn
a. Diễn ngơn và văn bản
b. Phân tích diễn ngơn
c. Các giai đoạn chính của phân tích diễn ngơn
c1/ Giai đoạn thứ nhất: Ngữ pháp văn bản
Giai đoạn “ngữ pháp văn bản” là giai đoạn tìm đường tiếp cận diễn ngơn.
Các nghiên cứu đã cho thấy con đường noi theo ngữ pháp câu là không thỏa
đáng với diễn ngôn.
c2/ Giai đoạn thứ hai: Phân tích diễn ngơn
Khi phân tích diễn ngơn cần xác định những yếu tố tham gia vào nội dung
của diễn ngơn. Cụ thể:
- Mục đích giao tiếp, ý định của người nói
5


- Các chiến lược văn hóa, diễn ngơn sẵn có trong một cộng đồng ngơn
ngữ
- Hồn cảnh xã hội (các cá nhân tham gia tương tác, mối quan hệ, bản
chất của bối cảnh tình huống)
- Tính chất của các thể loại diễn ngơn đã được quy ước hóa
- Khung văn hóa, niềm tin và hành động của các thành viên xã hội
d. Một số đường hướng phân tích diễn ngơn
Một số đường hướng chính trong phân tích diễn ngơn đã được Nguyễn Hịa
miêu tả là: dụng học, biến đổi ngơn ngữ, ngôn ngữ học xã hội tương tác, dân tộc
học giao tiếp, tâm lí học xã hội, phê phán, giao tiếp liên văn hóa, và phương
pháp phân tích diễn ngơn tổng hợp.
Hướng phân tích diễn ngơn của luận án là đường hướng giao tiếp liên văn hóa
và phương pháp phân tích diễn ngơn tổng hợp.

ii.Những lý thuyết và quan niệm về đoạn, khổ, thể, vần, nhịp và sự hòa phối
thanh điệu
a. Đoạn
Đoạn thơ là “một tập hợp của những câu thơ biểu thị một ý hoàn chỉnh.
Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không lệ thuộc vào vần,
nhịp, cú pháp, ngữ điệu như đối với một khổ thơ. Số lượng câu thơ trong một
đoạn không hạn định” [39, tr.105].
b. Khổ
Căn cứ vào các khái niệm khác nhau đã nêu, luận án quan niệm: khổ là một
số câu thơ, dòng thơ được sắp xếp thành một đơn vị có quy cách nhất định về vần,
luật, âm thanh, nhịp điệu, cú pháp biểu thị những ý nghĩa tương đối hoàn chỉnh.
Mỗi khổ thơ được kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài.
c. Thể
Luận án lấy ý kiến của tác giả Nguyễn Thái Hòa để làm căn cứ triển khai: “Thể
là kiểu mẫu của văn bản hình thành trong quá trình phát triển của sự giao tiếp bằng
lời tương đối ổn định, trở thành quy ước chung, tồn tại trong kí ức của mọi người như
một mơ hình cấu tạo văn bản, một thứ siêu ngôn ngữ vừa để biểu đạt vừa để định
6


hướng cho sự tiếp thu biểu đạt” [53, tr. 210].
d. Câu - dịng
Luận án quan niệm một dịng có thể bao gồm nhiều câu. Vì vậy, luận án
sẽ coi dịng là đơn vị cơ sở để tiến hành các khảo sát ở chương 2.
e. Vần
Vần là đối tượng nghiên cứu của một phân môn trong thi học được gọi là
thi vận. Luận án triển khai tìm hiểu các loại vần trong hát Xoan trên cơ sở ý
kiến của tác giả Lý Toàn Thắng đã viết: “ Vần là sự tương hợp, sự tương đồng,
sự cộng hưởng, sự hài hòa, sự lặp lại của các đặc trưng về nguyên âm, phụ âm,
trọng âm, thanh điệu v.v của hai từ hay âm tiết được hiệp vần” [105, tr.67].

g. Nhịp
Có một số quan niệm khác nhau về nhịp và nhịp điệu. Luận án xin tiếp
cận quan điểm về nhịp của luật thơ.
iii. Lý thuyết khái quát về trường từ vựng – ngữ nghĩa
Với số lượng những cơng trình nghiên cứu phong phú, trường từ vựng là
một đối tượng nghiên cứu có sức hấp dẫn, lơi cuốn được nhiều người tham gia
tìm hiểu. Nó trở thành cơ sở để nghiên cứu nhiều vấn đề ngôn ngữ khác và là
một con đường quan trọng để đến với nhận thức, tư duy, văn hóa của một dân
tộc.
iv. Lý thuyết biểu tượng và biểu tượng ngôn từ
Ở đây chúng tôi tiếp thu cách hiểu của tác giả Jean Chevalier, Alain
Gheerbrant và lấy đó làm xuất phát điểm để xem xét. “Biểu tượng (tiếng Pháp:
symbole, tiếng Anh: symbol) theo nghĩa rộng nhất là một tín hiệu mà mặt hình
thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng
của con người: cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính
có lí do, tính tất yếu”[37, tr.423].
Biểu tượng ngơn từ được hình thành thơng qua các cấp độ chuyển hố và
sản sinh: từ mẫu gốc (bản tổng kết đã được công thức hoá của khối kinh nghiệm
to lớn của các thế hệ tổ tiên), rồi biểu tượng văn hoá (trong các thần thoại,
truyền thuyết, nghi lễ, phong tục…) và biểu tượng ngơn từ (văn học).
1.2.1.2. Cơ sở văn hóa học
7


i. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học với âm nhạc
a. Đặc trưng của hình tượng âm nhạc
b. Đặc trưng ngôn ngữ văn học trong tương quan với các nghệ thuật
khác
c. Sự tương tác giữa ngôn ngữ văn học với các loại hình nghệ thuật khác
ii. Nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ

a. Ngôn ngữ và âm nhạc hỗ trợ cho nhau, nâng đỡ nhau
b. Lời được gọt giũa để phù hợp với nhạc
iii. Một số khái niệm cơ sở của âm nhạc và hát Xoan được sử dụng trong luận
án
Các khái niệm được sử dụng trong luận án gồm: Trổ hát, Bẻ làn, nắn
điệu, Quả cách, Phong cách hát Nói, Phong cách hát Ngâm, Phong cách ca
Xướng.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.2.1. Hát Xoan là gì?
1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức và các thành viên trong sinh hoạt hát Xoan.
1.2.2.3. Giao tiếp ứng xử và địa điểm diễn xướng của hát Xoan
1.2.2.4. Mục đích ca hát và trang phục, đạo cụ, nhạc cụ của hát Xoan
1.2.2.5. Đặc điểm diễn xướng và trình tự cuộc hát Xoan
1.2.2.6. Hát Xoan trong đời sống đương đại
1.3. Tiểu kết
Hát Xoan là loại hình dân ca xưa của vùng đất Tổ Phú Thọ, được tổ chức trong
dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Xoan được người xưa đọc chệch đi của
từ Xuân (có nghĩa là mùa xuân). Hát Xoan là điệu hát múa để chào đón mùa
Xuân. Đây là lối hát dân gian trong các lễ hội ở vùng trung du Bắc Bộ, tới khi
tín ngưỡng thờ thành hồng phát triển nó được hát ở cửa đình trong các hội làng
trở thành dân ca nghi lễ, phong tục.
Dù có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến hát Xoan Phú Thọ ở các
góc độ lịch sử, xã hội, văn hóa và nghệ thuật nhưng chưa có bất cứ một cơng
trình nào có hướng nghiên cứu về đặc điểm ca từ hát Xoan Phú Thọ (từ góc độ
Ngơn ngữ học).
8


Dựa trên cơ sở lí thuyết về Ngơn ngữ học (phân tích diễn ngơn; một số
khái niệm cơ bản về đoạn, khổ,…; trường từ vựng – ngữ nghĩa; biểu tượng

ngôn ngữ) và Văn hóa học (mối quan hệ giữa ngơn ngữ văn học với âm nhạc;
nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ; một số khái niệm âm nhạc - văn học cơ
bản và cơ sở thực tiễn (hát Xoan trong đời sống xã hội, văn hóa), luận án xác
định hướng nghiên cứu là tập trung vào các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa
của ca từ hát Xoan.

ƢƠ

2



ỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ
XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC

Ở chương này, các nội dung sẽ triển khai là: các hình thức kết cấu, thể,
vần, nhịp và sự hịa phối thanh điệu của các văn bản hát Xoan.
2.1. Các dạng kết cấu của văn bản hát Xoan
2.1.1. Dạng kết cấu một đoạn
Dạng kết cấu một đoạn chiếm 12/42 bài hát (28,6 %), đều thuộc về
chặng hát thứ 3 – chặng hát hội. Kết cấu một đoạn trong bài hát Xoan nghĩa là
bài hát Xoan chỉ gồm một đoạn thân bài, khơng có đoạn mở và đoạn kết.
Nhằm truyền tải nội dung lời ca dài, dạng kết cấu này thường vận dụng lối hát
theo trổ, cứ hết trổ này sang trổ khác. Dấu hiệu kết thúc một trổ hát và sang trổ
khác thường có 1 – 2 câu hát đưa đẩy.
2.1.2. Dạng kết cấu hai đoạn
Dạng kết cấu hai đoạn chiếm 13/42 bài (30,9 %) trong đó có 3 bài: Giáo
pháo, Thơ nhang, Đóng đám là các bài hát thuộc chặng hát thờ; 9 bài còn lại đều
thuộc chặng hát hội . Các bài Xoan thuộc dạng này có đoạn mở đầu và đoạn thân
bài, khơng có đoạn kết bài. Dạng kết cấu 2 đoạn hơn dạng kết cấu 1 đoạn ở chỗ

nó có thêm phần mở bài hát. Chức năng của đoạn mở là chào làng nước, chúc
phúc và giới thiệu khái quát nội dung bài hát. Đoạn thân có kết cấu giống như
các bài hát Xoan có kết cấu 1 đoạn.
2.1.3. Dạng kết cấu ba đoạn
Dạng kết cấu 3 đoạn là hình thức tiêu biểu nhất của hát Xoan. Dạng kết
9


cấu này chiếm 17/42 bài (40,5 %) gồm 14 bài Quả cách và 3 bài là: Hát nhập
tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống đều là các bài thuộc chặng hát
thờ. Đây là hình thức đầy đủ nhất của hát Xoan với kết cấu bao gồm đoạn giáo
cách (mở bài), đưa cách (thân bài) và kết cách (kết bài). Kết cấu này thể hiện
tính chặt chẽ, mạch lạc, có quy định rõ ràng của hệ thống 14 bài Quả cách.
Ngoài. Đặc điềm nổi bật của các bài hát Xoan có kết cấu 3 đoạn là: đoạn giáo
cách – chào làng nước, chúc phúc và giới thiệu nội dung bài hát; đoạn đưa cách
– kết cấu theo trổ giống như các bài hát có kết cấu một đoạn; đoạn kết cách – có
2 câu hát đệm đưa đẩy cho cả 14 bài Quả cách (Len là len hỡi, len hỡi là len, Ấy
giã tiệc này vua là Đại vương)
2.2. Thể trong hát Xoan
2.2.1. Thể 4 tiếng và biến thể
Thể 4 tiếng và biến thể chiếm số lượng 9/42 bài (21,4 %). Thể 4 tiếng và
biến thể chiếm số lượng 5 bài ở chặng hát thờ, 2 bài ở chặng hát quả cách và 2
bài ở chặng hát hội. Điều này cho thấy hình thức câu thơ phù hợp với nội dung
của bài hát. Cụ thể là phần lớn các bài hát thuộc chặng một (hát thờ, hát nghênh
thần) và chặng hai (Quả cách) mang nội dung khẩn nguyện gần với lối hát Nói
nên thích hợp với thể thơ 4 tiếng.
2.2.1.1. Thể 4 tiếng và dòng biến thể 5,6 tiếng
Tiểu loại này có 5/9 bài (55,5 %). Đó là các bài: Hát nhập tịch chào vua,
Hát chúc thành hoàng, Thơ nhang, Đóng đám, Kiều Giang cách. Đặc điểm về
thể của các bài hát Xoan này là thể 4 tiếng được sử dụng gần như trong cả bài,

đôi khi xen kẽ một số dòng 5 tiếng hoặc 6 tiếng.
2.2.1.2. Thể thơ 4 tiếng và dòng biến thể 7 tiếng trở lên
Các bài hát Xoan có thể 4 tiếng và các dịng biến thể 7 – 8 tiếng có 4/9
bài (44,6 %). Đó là các bài: Giáo pháo, Chơi giâu xướng cách, Giương cũng
bắn cò và Xẻ ván bắc cầu. Đặc điểm của thể trong 5 bài hát Xoan này là thể 4
tiếng chiếm vai trò chủ đạo, các câu thơ biến thể từ 7 tiếng trở lên xuất hiện ít
hơn.
2.2.2. Thể lục bát và biến thể
2.2.2.1. Thể lục bát
10


Các bài hát Xoan có ca từ làm theo thể lục bát và biến thể chiếm 14/42 bài
(30,9 %). Thể lục bát và biến thể có 3/14 bài (21,4 %) bài thuộc chặng hát quả
cách (gồm: Nhàn ngâm cách, Thu thời cách và Thuyền chèo cách); 11 bài (tương
ứng 78,6 %) còn lại đều thuộc chặng hát hội (chặng hát giao duyên). Có (6/14 bài
- 42,9 %) xuất hiện trọn vẹn thể lục bát là: Trống quân Đức Bác, Trống quân đón
đào, Gài huê, Hát ru, Bỏ bộ, Trèo lên cây bưởi. Hình thức của câu lục bát ở các
bài Xoan này có những nét tương đồng với hát đối và hát đố trong hát giao
duyên nam nữ vùng đồng bằng Bắc Bộ.
2.2.2.2. Biến thể của lục bát
8 bài hát Xoan cịn lại có sử dụng thể lục bát và biến thể là: Thu thời cách,
Nhàn ngâm cách, Thuyền chèo cách, Mời rượu, Trồng bông luống đậu, Xe chỉ vá
may, Hát đúm và Đường đi trên suối dưới hầm. Đây là những bài hát Xoan có thể
thơ lục bát là chủ yếu (trung bình là 63, 4 %) cùng với các biến thể (chiếm gần
36,6%). Các dòng biến thể của thể lục bát trong ca từ hát Xoan thì hiện tượng
giãn ra, mở rộng ở các dòng lục (60 – 37,9 %) và các dòng bát (44 – 27,8 %)
chiếm ưu thế hơn hiện tượng co lại và giữ nguyên ở các dòng lục (32 – 20,2 %)
và dòng bát (22 – 14,1 %). các bài hát Xoan kể trên có biến thể ở dịng lục co
lại thường là thể 4 tiếng (chiếm 20,3 %), các biến thể ở dòng lục giãn ra

thường là thể 7, 8 tiếng (chiếm 41,8 %); các biến thể ở dòng bát giãn ra
thường là 9, 10 tiếng (chiếm 27,8 %). Như vậy, biến thể ở dòng lục với hiện
tượng giãn ra chiếm ưu thế hơn so với 3 loại cịn lại.
2.2.3. Thể thất ngơn và biến thể
2.2.3.1. Thể thất ngôn và biến thể dưới 15 dòng
Về số lượng, các bài Xoan này chiếm 5/11 bài (45, 5 %), là các bài: Phú
Kiều, Phú Xích Bích, Bút huê thảo, Phú năm canh và Hát lý. Đây đều là các bài
hát Xoan thuộc chặng hát hội. Các bài hát Xoan này mang những đặc điểm: câu
thơ thất ngơn khơng tn theo luật, số dịng biến thể ít (chỉ dưới 10 câu), 72,8 %
các dòng biến thể là từ 8 tiếng trở lên, chỉ có 27, 2 % dòng biến thể từ 6 tiếng
trở xuống. Đặc điểm về thể thơ này cũng phù hợp với kiểu hát Ngâm và ca
Xướng đối với các bài hát phú và các bài hát thuộc chặng hát hội của cuộc hát
Xoan.
11


2.2.3.2. Thể thất ngơn và biến thể trên 15 dịng
Đó là trường hợp của 6/11 bài (54,5 %): Giáo trống, Trường mai cách,
Ngư tiều canh mục cách, Hồi liên cách, Tứ dân cách, Đối dãy cách. Có thể thấy
đây là các bài Xoan thuộc chặng hát nghênh thần và chặng hát Quả cách. Trong
đó có 180/250 (72,0 %) dịng thất ngơn đúng luật, 70/250 (28,0 %) dịng thất
luật. Trong 167 dịng biến thể có 49 dịng (29,3 %) theo thể 4 tiếng; 47 dòng
(28,1 %) theo thể lục bát; 30 dòng (17,9 %) theo thể 6 tiếng; 23 dòng theo thể 5
tiếng (13,8 %) và 18 dòng (10,9 %) theo thể thơ 8 tiếng trở lên.
2.2.4. Thể song thất lục bát và thể tự do
2.2.4.1.Thể song thất lục bát và biến thể
Song thất lục bát và biến thể của nó chỉ chiếm 2/42 (4,7 %) bài hát Xoan.
Đó là các bài Tứ mùa cách (Tứ đưa Xoan cách) và Giã cá (Đánh cá – Mó cá).
Tứ mùa cách là bài hát thuộc chặng Quả cách nên tính chất quy phạm và khn
khổ của nó thể hiện rõ nét. Giã cá là bài ca lao động thuộc chặng hát giao duyên

nên linh hoạt hơn trong việc vận dụng thể thơ song thất lục bát.
2.2.4.2. Thể tự do
Có 6/42 (14,3%) bài hát Xoan sử dụng thể tự do. Thể tự do là hình thức
cấu trúc bài gồm các câu dài ngắn khác nhau, đan xen, không ổn định theo một
thể nhất định. Đó là các bài Thu thời cách (Mừng thu cách), Đông thời cách
(Đưa đông cách), Xoan thời cách (Mừng Xoan cách) - 3 bài hát chỉ mùa là
thuộc về chặng hát Quả cách); còn Xin huê - Đố chữ, Bợm gái và Cầu Bạch
cầu bông - 3 bài hát thuộc chặng hát hội. Trong tổng số 441 dòng của 6 bài
Xoan có sự kết hợp của 100 dịng 4 tiếng (22,7 %), 116 dòng lục bát (26,3%),
94 dòng 7 tiếng (21,3 %), 50 dòng (11,3 %) 8 tiếng trở lên, 40 dòng (9,1 %) 5
tiếng và 41 dòng 6 tiếng (9,3 %).
2.3. Vần trong hát Xoan
Có 1368/2302 dịng (59,4 %) của 42 bài hát Xoan xuất hiện vần. Trong đó,
đứng ở vị trí cao nhất là loại vần lưng (vần trong 1 khổ) chiếm 444/1368 dòng
(32,5%). Đứng thứ 2 là vần cách (vần giữa các khổ) chiếm 382/1368 dòng (27,9
%). Đứng thứ 3 là vần chân (vần trong một khổ) chiếm 363/1368 dòng (26,5%).
2.3.1. Vần trong một khổ
12


Đây là loại vần chiếm số lượng và tỉ lệ cao nhất: 807/1368 dòng (~
59,9 %).
Ba loại vần chiếm ưu thế trong một khổ của các bài hát Xoan là vần lưng
(204/807 - 25,3 %), vần chân (189/807 – 23,4 %) và vần hỗn hợp (163/807 –
20,2 %). Vần chân và vần lưng trong các bài hát Xoan thường tuân theo luật thơ
của các thể lục bát, 4 chữ và thất ngôn. Vần chân thường xuất hiện nhiều hơn
trong các bài hát Xoan thuộc chặng 1 hát thờ, nghênh thần. Vần lưng thường
xuất hiện nhiều hơn trong các bài hát Xoan thuộc chặng 3 hát giao duyên. Vần
hỗn hợp thường chiếm ưu thế ở các bài Xoan thuộc chặng hát 2 hát các bài Quả
cách.

2.3.2. Vần giữa các khổ
Ca từ hát Xoan có 561/1368 (~ 40,1 %) trường hợp vần giữa các khổ
thơ. Hiện tượng vần giữa các khổ thơ chiếm 47, 4 % là cùng thể thơ, cùng trong
một đoạn (như giáo cách, đưa cách hoặc kết cách). Kết quả khảo sát cũng cho
thấy có 52,6 % trường hợp vần giữa các khổ thơ mà thể khác nhau hoặc là vần từ
đoạn nọ sang đoạn kia của bài hát Xoan.
2.4. Nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan
2.4.1. Nhịp
2.4.1.1. Nhịp chẵn trong các dịng có số tiếng chẵn (4, 6 và 8 tiếng)
a. Đối với các câu 4 tiếng
Loại nhịp 2/2 trong thể thơ 4 tiếng chiếm 94,9% trên tổng số câu thơ
được khảo sát.
b. Đối với các câu 6 và 8 tiếng
Đối với những bài Xoan hình thành trên thể thơ lục bát, lối phân nhịp 2
hoặc 4 chiếm ưu thế với các kiểu cấu trúc: câu 6 là 2/2/2; 2/4/ hoặc 4/2; câu 8 là
2/2/2/2 4/2/2; 2/4/2; 2/2/4 hoặc 4/4. Có 89,3 % các câu ca theo thể lục bát phân
chia nhịp chẵn.
2.4.1.2. Nhịp lẻ trong các dịng có số tiếng lẻ (5,7 và 9 tiếng)
Lối phân nhịp lẻ trước chẵn sau (3/2 với thể 5 tiếng và 3/4 hoặc 3/2/2 với
thể bảy tiếng) trong câu thơ thất ngôn cũng là đặc trưng của thơ ca Việt Nam
(khác với thơ thất ngôn của Trung Quốc là chẵn trước lẻ sau). Ca từ hát Xoan
13


cũng khơng nằm ngồi cách ngắt nhịp này.
2.4.2. Sự hịa phối thanh điệu
2.4.2.1. Thanh điệu phối đúng luật BT
Trong số 2302 dịng được khảo sát có 198 câu hát đưa đẩy, cụm từ phụ cố
định, câu hát chuyển đoạn, kết thúc trổ hát. Trong 2104 dịng cịn lại có 1187
dịng (56,4 %) thanh điệu phối đúng luật BT.

2.4.2.2. Thanh điệu phối khơng đúng luật
Có 917/2104 dịng (43,6 %) phối khơng đúng luật BT. Trong 917 dịng
phối khơng đúng luật BT có thể chia nhỏ hơn: các dịng có nhiều thanh B hơn
(543/917 - 59,2 %), các dịng có nhiều thanh T hơn (374/917 dòng - 40,8 %).
2.5.

Tiểu kết
Như vậy, chương 2 đã đi vào khảo sát và phân tích đặc điểm hình thức

của ca từ hát Xoan trên bốn vấn đề cơ bản.
Một là kết cấu văn bản của hát Xoan. Kết cấu văn bản hát Xoan được chia
theo đoạn. Kết cấu đoạn trong hát Xoan được chia thành 3 loại: một đoạn, hai
đoạn và ba đoạn. Kết quả khảo sát cho thấy kết cấu ba đoạn chiếm ưu thế
(17/42 bài ~ 40.5 %) và chủ yếu là các bài hát Xoan thuộc chặng hai (chặng hát
Quả cách). Điều này chứng minh rằng hình thức kết cấu của văn bản hát Xoan
quy định rõ nội dung của ca từ. Cụ thể là các bài hát thuộc chặng Quả cách là
các bài hát đủ 3 đoạn và là những bài hát mang tính quy phạm và mực thước
hơn so với các bài của chặng 1 và chặng 3.
Hai là thể trong hát Xoan. Thể trong ca từ hát Xoan đã được nhìn nhận chủ
yếu ở các thể: 4 tiếng và biến thể, lục bát và biến thể, thất ngôn và biến thể, song
thất lục bát và biến thể và thể tự do. Ba thể chiếm ưu thế hơn cả trong ca từ hát
Xoan là thể lục bát, 4 tiếng và thể thất ngôn. Thể 4 tiếng được sử dụng chủ yếu
trong các bài hát thuộc chặng hát nghênh thần. Thể thất ngôn chiếm ưu thế trong
các bài hát chặng quả cách. Thể lục bát xuất hiện nhiều ở chặng hát giao dun.
Sở dĩ có đặc điểm này là vì thể trong các bài hát nghênh thần gần với các bài vè
dân gian với nội dung ngợi ca công đức của những người anh hùng, người có
cơng,những vị vua hay Thành hồng làng; thể thất ngôn trong các bài quả cách
tương đồng với thể thất ngôn các bài thơ Đường với nội dung gần với văn chương
14



Nho giáo bằng việc kể lại tích xưa, truyện xưa; cịn chặng ba, người hát có thể
thoải mái bộc lộ tâm tình qua thể lục bát. Như vậy, hình thức của thể trong mỗi
bài, chặng hát Xoan cũng liên quan đến và có thể quyết định nội dung của nó.
Ba là vần trong hát Xoan. Vần trong ca từ hát Xoan được chia thành các
loại: vần trong một khổ (vần chân, vần lưng, vần liền, vần cách, vần ôm, vần hỗn
hợp) và vần giữa các khổ thơ. Trong hai loại này chiếm ưu thế lớn nhất là vần
trong một khổ. Vần trong một khổ thơ có vần chân, vần lưng và vần hỗn hợp có
tần số xuất hiện nhiều hơn cả và mang lại giá trị liên kết cũng như giá trị tu từ
cao. Hơn thế nữa, vần trong hát Xoan còn là phương tiện biểu đạt nội dung của
nhân vật trữ tình trong ca từ hát Xoan.
Bốn là nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan. Nhịp trong ca
từ hát Xoan có 2 loại: nhịp chẵn trong các câu thơ có số tiếng chẵn (4,6 hoặc 8
tiếng) và nhịp lẻ trong các câu thơ có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Sự hòa phối
thanh điệu của ca từ hát Xoan được chia làm 2 nhóm: nhóm các dịng có thanh
điệu phối đúng luật BT ( ~ 57,3 %) và nhóm các dịng có thanh điệu phối khơng
đúng luật BT (~ 42,7 %). Nhóm các dịng có thanh điệu phối khơng đúng luật
BT được phân xuất nhỏ hơn thành hai loại: nhóm các câu thơ có nhiều thanh B
hơn và nhóm các câu thơ có nhiều thanh T hơn. Điều này cho thấy hát Xoan là
một loại hình âm nhạc dân gian linh hoạt trong việc vận dụng sức mạnh của sự
hòa phối thanh điệu để làm nên giá trị của các bài hát.
ƢƠ

3 Ặ

ỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ
XÉT VỀ MẶT NGỮ

ĨA


Chương này được triển khai trên 3 phương diện là: nhan đề, trường từ
vựng, một số biểu tượng ngôn từ trong hát Xoan.
3.1. Ngữ nghĩa qua hệ thống nhan đề các bài hát Xoan
3.1.1. Nhan đề trong mối quan hệ với đề tài
3.1.1.1. Nhóm nhan đề “thiên nhiên”
Đề tài thiên nhiên gồm 6/42 bài (14,3 %). Đó là các bài có nhan đề chỉ
mùa, chỉ thời gian như: Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Hạ thời cách, Thu
15


thời cách, Đông thời cách (Đưa đông cách), Tứ mùa cách, Nhàn ngâm cách.
3.1.1.2. Nhóm nhan đề “khẩn nguyện”và “tích xưa”
Nhóm nhan đề ứng với đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” có 14/42 bài 33,3 %. Đề tài “khẩn nguyện” gồm 7 bài: đều thuộc chặng hát thờ Hát nhập
tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng
đám, Mời rượu và đề tài “tích xưa” (7 bài: có 5 bài thuộc chặng hát Quả cách, 2
bài thuộc chặng hát hội (Phú Kiều và Phú Xích Bích). Điều này cho thấy các bài
hát thuộc đề tài“khẩn nguyện” và “tích xưa” có 12/14 bài (85,7%) là những bài
hát thuộc chặng 1 và chặng 2 – các chặng hát mang tính nghi thức lề lối và bài
bản. Chỉ có 2/14 bài (14,3%) thuộc chặng hát thứ 3 – chặng hát hội.
3.1.1.3. Nhóm nhan đề “lao động” và “giao duyên”
Nhóm nhan đề ứng với đề tài“lao động” và “giao duyên” có 22/42 bài
(52,4 %). Có thể chia thành nhóm nhan đề ứng với đề tài “lao động” (10 bài –
45,5 % - có thể chia nhỏ hơn thành các nhóm nhỏ: đề tài nghề nghiệp và đề tài
quan hệ xóm làng. Nhóm đề tài nghề nghiệp gồm các bài Ngư tiều canh mục
cách, Thuyền chèo cách (Hò đò cách), Giã cá, Xe chỉ vá may, Giương cung
bắn cò). Nhóm đề tài quan hệ xóm làng gồm các bài Tứ dân cách, Cầu bạch
cầu bông, Xẻ ván bắc cầu, Đường đi trên suối dưới khe, Trồng bông luống
đậu). Đề tài “giao duyên” (12 bài – 54,5 %). Các bài ca giao duyên là những bài
hát có nội dung hát đối và hát đố giữa bên nam và bên nữ.
3.1.2. Đề tài và mạch lạc trong các bài hát Xoan

3.1.2.1. Đề tài được triển khai nhất quán
Đề tài của các bài Xoan được triển khai nhất quán từ nhan đề đến từng ca
từ, từng đoạn trong bài. Thiên nhiên, sự vật, thời tiết, nghi lễ và cả con người
trong các bài này đều được miêu tả bằng những từ ngữ thuộc về trường nghĩa
mà nhan đề đã gọi tên.
3.1.2.2. Đề tài được phát triển và mở rộng
Mạch đề tài của một bài hát Xoan không những được triển khai nhất qn
mà cịn có khả năng mở rộng và phát triển sang các đề tài khác. Chẳng hạn như
với đề tài thiên nhiên có một chủ đề bao quát (tứ thời) với đường dẫn liên kết
16


giữa các tiểu chủ đề (xuân, hạ, thu, đông). Hoặc chủ đề bao quát tứ dân với các
tiểu chủ đề (sĩ, nơng, cơng, thương), (ngư , tiều, canh, mục). Tóm lại, hiện
tượng phát triển, mở rộng hay “lấn sân” sang các đề tài khác cho ta thấy mạch
của đề tài một bài hát Xoan khơng bị bó hẹp, khơng là duy nhất.
3.2. ác trƣờng từ vựng trong ca từ hát Xoan
Các trường từ vựng được khảo sát và phân tích trong ca từ hát Xoan
tổng cộng là 6854 từ bao gồm: con người (2039 lần ~ 30,9%), thời gian (1083
lần ~ 16,4 %), vũ trụ (967 lần ~ 14,6 %), thực vật (915 lần ~ 13,9%), động vật
(854 lần ~ 12,4%) và lễ hội (726 lần ~ 11,0%).
3.2.1. Trường từ vựng “con người”
Các từ ngữ biểu thị con người trong ca từ hát Xoan gồm 6 lớp từ định danh
thông qua các tiểu trường biểu thị: cảm xúc, hoạt động, địa vị, nghề nghiệp, giới
tính và bộ phận cơ thể. Cụ thể:
3.2.1.1. Tiểu trường từ vựng “tình thái” của con người
Tiểu trường chỉ cảm xúc, tình cảm có tần số xuất hiện cao nhất 401/2039
lần (~ 19,6 %). Tiểu trường này gồm các lớp từ chỉ đặc trưng: tâm lí tình cảm;
trạng thái sự vật, hiện tượng; mùi vị, màu sắc; tính chất tuyệt đối; chiều hướng,
nhiệt độ, số lượng.

3.2.1.2. Tiểu trường từ vựng « hoạt động » của con người
Tiểu trường biểu thị hoạt động của con người trong 42 bài hát Xoan
chiếm 390/2039 lần (~ 19,3%) bao gồm 2 lớp từ: hoạt động độc lập chiếm
297/390 lần (~ 76,1 %); quan hệ và tình thái chiếm 93/390 lần (~ 23,9 %).
3.2.1.3. Tiểu trường từ vựng “ địa vị xã hội”: có tần số xuất hiện là 383/2039 (~
18,7 %), xuất hiện nhiều hơn ở các bài hát Xoan đề tài nghi lễ.
3.2.1.3. Tiểu trường từ vựng “giới tính con người”: có tần số xuất hiện là
361/2039 lần (~ 17,8 %), xuất hiện nhiều nhất ở các bài hát Xoan đề tài giao
duyên.
3.2.1.5. Tiểu trường từ vựng “nghề nghiệp”: có tần số xuất hiện là 332/2039 (~
16,3%), xuất hiện phổ biến trong các bài hát Xoan đề tài lao động .
3.2.1.6. Tiểu trường từ vựng “bộ phận cơ thể người”: có tần số xuất hiện ít nhất
172/2039 lần (8,4 %).
17


3.2.2. Trường từ vựng “thời gian”
Trường từ vựng biểu thị thời gian xuất hiện 1083/6584 lần - 16,4%, gồm
các tiểu trường: thời gian mùa – thời tiết (551/1083 lần– 50,9 %); thời gian
ngày – tháng - năm (289/1083 lần – 26,7 %) và thời gian quá khứ - hiện tại –
tương lai (243/1083 lần – 22,4%).
3.2.3. Trường từ vựng “vũ trụ”
Trường từ vựng biểu thị vũ trụ xuất hiện 967/6584 lần - 14,6%, gồm 2 tiểu
trường: sự vật – hiện tượng tự nhiên (627/967 lần ~ 64,8 %); không gian
(340/967 lần – 35,2%).
3.2.4. Trường từ vựng “thực vật”
Trường từ vựng biểu thị thực vật trong hát Xoan xuất hiện 915/6584 lần 13,9 % trong đó gồm các tiểu trường: Cây (389/915 lần - 42,5%); Hoa (361/915
lần ~ 39,5%) và Rau – Củ - Quả (165/915 lần – 28,0 %).
3.2.5. Trường từ vựng “động vật”
Đây là trường từ vựng đứng thứ 5 trong các trường từ vựng được khảo

sát của các bài hát Xoan (854/6584 lần - 12,4 %). Trong này được chia thành 5
nhóm: Ngư (235/854 lần – 27,5 %); Điểu (198/854 lần - 23,1%); Thú (138/854
lần – 16,2 %); Trùng (171/854 lần – 20,0 %) và động vật tưởng tượng (112/854
lần - 13,2 %).
3.2.6. Trường từ vựng “lễ hội”
Trường từ vựng “lễ hội” trong ca từ hát Xoan đứng vị trí thứ 6, là trường
từ vựng nhỏ nhất, chiếm 726/6584 lần (~ 11,0 %). Trường từ vựng này bao gồm
các tiểu trường: tên gọi của lễ hội (281/726 ~ 37,8%); tính chất của lễ hội
(250/854 lần ~ 32,9%); hoạt động của lễ hội ( 195/854 lần ~ 29,3%).
3.3. Một số biểu tƣợng ngơn ngữ - văn hóa trong ca từ hát Xoan
3.3.1. Một số biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan
3.3.1.1. “Hoa” (huê) – Biểu tượng của thời gian, của sắc đẹp, tuổi trẻ, người
con gái và của phẩm chất tâm hồn.
Trong ca từ hát Xoan, biểu tượng hoa thường được nói chệch thành huê
(để tránh phạm húy) xuất hiện 141 lần. Đây là biểu tượng xuất hiện nhiều nhất
về tần số và số bài hát: 28/42 bài ở cả 3 chặng hát (chặng 2 và chặng 3 chiếm
18


ưu thế). Biểu tượng hoa trong hát Xoan một mặt mang những đặc điểm phổ
biến có ý nghĩa khái quát như một mẫu số chung; mặt khác nó cũng thể hiện
đậm nét những quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh riêng biệt của người
xưa.
3.3.1.2. “Cá - ngư” – biểu tượng cho thành quả lao động; sự hiểu biết, tri thức
của người xưa; sự may mắn và phẩm chất, địa vị cao quý của con người.
Biểu tượng cá - ngư xuất hiện 62 lần trong các bài hát Xoan, đứng thứ 2
trong 5 biểu tượng được khảo sát. Biểu tượng cá trong hát Xoan vừa có nét
chung của con cá mang ý nghĩa biểu tượng thơng thường lại vừa có nét riêng
của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cũng có thể khẳng định, cá - ngư là
biểu tượng cho cuộc sống lao động hàng ngày của người dân; đồng thời là biểu

tượng cho đời sống tâm hồn của họ.
3.3.1.3. “Cánh đồng”, “đồng ruộng” , “đồng lúa” – biểu tượng của không
gian lao động (vụ mùa no đủ), và biểu tượng của khơng gian tâm tình ( nỗi nhớ
mong)
“Cánh đồng”, “đồng ruộng”, “đồng lúa” trong ca từ hát Xoan là biểu
tượng xuất hiện với tần số 29 lần, đứng ở vị trí thứ 3 trong các biểu tượng ngơn
từ được khảo sát. Đây là một biểu tượng có tính đa nghĩa: gắn liền với cuộc
sống lao động và tâm hồn của họ. Biểu tượng cánh đồng cho người nghe thấm
thía một cuộc sống lao động vất vả với những ước mơ giản dị, gần gũi (mưa
thuận gió hịa, được mùa, no ấm, được nên duyên và hạnh phúc trong tình u
đơi lứa, trong cuộc sống gia đình).
3.3.1.4.“Quả đúm” – biểu tượng cho tín vật, người bạn tâm tình trong hát giao
duyên nam nữ đối ca
Quả đúm là một biểu tượng nổi bật nhất trong bài hát Xoan thuộc chặng
ba. Hình ảnh này xuất hiện 23 lần trong bài Hát đúm (chặng 3). Quả đúm là một
vật có thật tượng trưng hai bên hát đối đáp và diễn trò (ném quả đúm); là vật
biểu trưng để trai gái dễ dàng hơn trong việc bộc lộ, bày tỏ tâm tình; là tượng
trưng cho tín hiệu của tình u đơi lứa. Đây là biểu tượng phản ánh một phần
mối quan hệ con người với xã hội (con người trong tình u đơi lứa), phản ánh
thế giới tâm hồn của người dân. Biểu tượng này được phát triển dựa trên mối
19


quan hệ bổ sung và liên tưởng.
3.3.1.5.“Mái đình”, “đình làng” – biểu tượng cho trung tâm tín ngưỡng, tơn
giáo, lễ hội đồng thời là biểu tượng cho không gian vui chơi, tâm tình của người
xưa
Mái đình, đình làng là biểu tượng ngôn ngữ xuất hiện 19 lần trong 12 bài
hát của cả 3 chặng. Thứ nhất, với các bài hát Xoan ở chặng 1 và chặng 2, mái
đình, đình làng là biểu tượng của thế giới tín ngưỡng, tượng trưng cho khơng

gian cầu nguyện trang nghiêm và thành kính của người xưa được phát triển qua
mối quan hệ tương đồng. Thứ hai, với một số bài hát Xoan ở chặng 2 và chặng
3, đình là được phát triển qua mối quan hệ bổ sung. Đó cũng là khơng gian
tượng trưng cho hoạt động vui chơi, giao duyên của người xưa.
3.3.2. Một số nhận xét
Như vậy, các biểu tượng đã phân tích xuất hiện khá đều ở các bài ca cả 3
chặng hát (hát thờ - hát chúc, hát quả cách, hát giao duyên). Giá trị biểu trưng của
các biểu tượng chủ yếu hướng đến các nghĩa biểu trưng chính của hệ biểu tượng
văn hóa thế giới và Việt Nam. Mặc dù vậy, ca từ hát Xoan trên cơ sở kế thừa và
sáng tạo lại, tạo ra những hình ảnh biểu trưng nhất quán mà vẫn mang được phong
cách riêng khó trộn lẫn của mình.
3.4. Tiểu kết
Như vậy, ở chương 3, đặc điểm ngữ nghĩa của ca từ trong hát Xoan Phú
Thọ được xem xét trên ba phương diện: hệ thống nhan đề; các trường từ vựng ;
một số biểu tượng ngôn ngữ. Trong mối quan hệ với nhan đề, ca từ hát Xoan
được chia thành 3 nhóm đề tài: nghi lễ, thiên nhiên và xã hội. Nhóm đề tài xã
hội đứng đầu với 22/42 bài – 52,4%, đề tài nghi lễ đứng thứ hai với 14/42 bài –
33,3% và nhóm đề tài thiên nhiên chiếm 6/42 bài – 14,3%. Điều này cũng có
thể khẳng định đây là ngun nhân chính để coi hát Xoan được coi là dân ca
nghi lễ phong tục. Mạch triển khai đề tài trong ca từ Xoan được ghi nhận theo 2
hướng: duy trì trong tồn bộ ca từ và được phát triển, mở rộng. Hiện tượng này
có tác động đến các bài hát Xoan ở chỗ: có một đề tài, chủ đề lớn và đường dẫn
đến các tiều chủ đề liên quan.
Các trường từ vựng trong hát Xoan được phân tích theo sáu trường từ
20


vựng biểu thị: con người; thời gian; vũ trụ; thực vật; động vật và lễ hội. Trường
từ vựng biểu thị con người trong hát Xoan được định danh bằng các tiểu trường
biểu thị cảm xúc, tình cảm; hoạt động, trạng thái; địa vị xã hội; giới tính và

nghề nghiệp. Tiểu trường từ ngữ biểu thị cảm xúc, tình cảm và hoạt động, trạng
thái của con người giúp ca từ hát Xoan biểu đạt chân thực và chính xác về
những con người tha thiết yêu thiên nhiên, sự sống; yêu lao động, gia đình và
thành kính trong tín ngưỡng, tơn giáo. Tiểu trường từ ngữ biểu thị giới tính của
con người trong hát Xoan phân xuất được các từ chỉ giới nữ chiếm tần số cao
nhất. Điều này cho thấy người xưa đã rất coi trọng vai trò của người phụ nữ
trong xã hội. Đó là nhân vật trung tâm của cuộc sống tín ngưỡng, tơn giáo; cuộc
sống lao động và tình yêu, gia đình. Tiểu trường từ ngữ biểu thị địa vị xã hội
con người cho thấy vua (thành hoàng làng) và dân là hai đối tượng được nhắc
tới nhiều nhất trong hát Xoan. Nó chứng minh rằng tác giả dân gian luôn đề cao
và coi trọng hai đối tượng này: vua là tối cao, là biểu tượng thiêng liêng cho trời
và đất; dân là quan trọng, khơng có dân thì cũng khơng thể có làng, xã và nước.
Tiểu trường từ ngữ biểu thị nghề nghiệp thể hiện rõ quan niệm của người xưa:
coi trọng những người trực tiếp tạo ra lương thực (coi trọng nghề nông); trân
trọng chuyện học hành, thi cử, đỗ đạt. Các trường từ vựng biểu thị lễ hội, động
vật, thực vật, thời gian và vũ trụ đã giúp cho ca từ hát Xoan thêm phong phú
trong việc biểu đạt thế giới quan và nhân sinh quan của người xưa: mong cầu
một cuộc sống lao động bình an, mưa thuận, gió hịa, mùa màng tươi tốt; cuộc
sống gia đình hịa thuận, đầy đủ phúc đức và một đời sống nghi lễ tơn giáo hịa
hợp giữa thiên nhiên, vũ trụ và xã hội làng quê xưa.
Các biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan lần lượt được nhìn nhận và
đánh giá: hoa - huê, đồng, cá – ngư, quả đúm và đình. Đây là năm biểu tượng
ngơn ngữ đặc trưng, có giá trị bền vững nhất xuất hiện trong tất cả các bài hát,
chặng hát, cuộc hát Xoan. Các biểu tượng ngôn ngữ đã biểu đạt được ý nghĩa
trong các mối quan hệ: con người với thế giới tự nhiên; với quốc gia, dân tộc;
với xã hội và ý thức về bản thân.

21



KẾT LUẬ
1. Hát Xoan là tên gọi của một loại hình dân ca xưa của vùng đất Tổ trung
du Phú Thọ, được tổ chức trong dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Xoan
được người xưa đọc chệch đi của từ Xuân (có nghĩa là mùa xuân). Hát Xoan là
điệu hát múa để chào đón mùa Xuân. Đây là lối hát dân gian trong các lễ hội tới
khi tín ngưỡng thờ thành hồng phát triển thì lối hát này được hát ở cửa đình
trong các hội làng trở thành dân ca nghi lễ, phong tục.
Dù có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến hát Xoan Phú Thọ ở các
góc độ lịch sử, xã hội, văn hóa và nghệ thuật nhưng chưa có bất cứ một cơng
trình nào có hướng nghiên cứu về đặc điểm ca từ hát Xoan Phú Thọ (từ góc độ
Ngơn ngữ học).
Dựa trên cơ sở lí thuyết về Ngơn ngữ học (phân tích diễn ngôn; từ vựng –
ngữ nghĩa; biểu tượng ngôn ngữ) và Văn hóa học (mối quan hệ giữa ngơn ngữ
văn học với âm nhạc; nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ; một số khái niệm
âm nhạc - văn học cơ bản và cơ sở thực tiễn (hát Xoan và các yếu tố liên quan
trong đời sống xã hội, văn hóa), luận án xác định hướng nghiên cứu là tập
trung vào các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ca từ hát Xoan.
2. Về hình thức, các bài hát Xoan Phú Thọ có kết cấu văn bản tương đối
chặt chẽ, đầy đủ và phù hợp với nội dung của từng chặng hát, từng bài, từng
đoạn. Các yếu tố hình thức như thể, vần, nhịp, tiết tấu và sự hòa phối thanh điệu
tuân theo những quy tắc chung: đúng luật là chủ yếu; sự phá cách hay không
tuân theo luật chỉ là thứ yếu. Những điều này đã làm nên sự hài hịa với tính
chất, nội dung của từng bài, từng chặng trong cả cuộc hát Xoan.
Các đặc điểm hát Xoan về mặt hình thức được xem xét trên bốn khía cạnh:
Một là kết cấu văn bản của hát Xoan: Kết cấu văn bản hát Xoan được chia
theo đoạn. Kết cấu đoạn trong hát Xoan được chia thành 3 loại: một đoạn, hai
đoạn và ba đoạn. Kết quả khảo sát cho thấy kết cấu ba đoạn chiếm ưu thế
(17/42 bài - 40,5 %) và chủ yếu là các bài hát Xoan thuộc chặng hai (chặng hát
Quả cách).
Hai là thể trong hát Xoan: Thể trong ca từ hát Xoan gồm: 4 tiếng và biến

thể, lục bát và biến thể, thất ngôn và biến thể, song thất lục bát và biến thể và
22


thể tự do. Thể thơ chiếm ưu thế hơn cả trong ca từ hát Xoan là thể lục bát, 4
tiếng và thể thất ngôn. Thể lục bát được sử dụng nhiều ở các bài hát thuộc
chặng giao duyên. Thể 4 tiếng xuất hiện nhiều ở chặng hát thờ. Thể thất ngôn
chiếm ưu thế trong chặng hát quả cách.
Ba là vần trong hát Xoan: Vần trong ca từ hát Xoan gồm các loại: vần trong
một khổ (vần chân, vần lưng, vần liền, vần cách, vần ôm, vần hỗn hợp) và vần
giữa các khổ thơ. Trong hai loại này chiếm ưu thế hơn là vần trong một khổ. Vần
trong một khổ thơ có vần chân, vần lưng và vần hỗn hợp có tần số xuất hiện nhiều
hơn cả và mang lại giá trị liên kết cũng như giá trị tu từ cao.
Bốn là nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan: Nhịp trong ca
từ hát Xoan có 2 loại: nhịp chẵn trong các câu thơ có số tiếng chẵn (4,6 hoặc 8
tiếng) và nhịp lẻ trong các câu thơ có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Sự hòa phối
thanh điệu của ca từ hát Xoan được chia làm 2 nhóm: nhóm các dịng có thanh
điệu phối đúng luật BT (chiếm 57,3 %) và nhóm các dịng có thanh điệu phối
khơng đúng luật BT (42,7 %). Nhóm các dịng có thanh điệu phối khơng đúng
luật BT được phân xuất nhỏ hơn thành hai loại: nhóm các câu thơ có nhiều
thanh B hơn và nhóm các câu thơ có nhiều thanh T hơn. Điều này cho thấy hát
Xoan là một loại hình âm nhạc dân gian linh hoạt trong việc vận dụng sức mạnh
của sự hòa phối thanh điệu để làm nên giá trị của các bài hát.
3. Đặc điểm ngữ nghĩa của ca từ trong hát Xoan được thể hiện trên ba
phương diện: đề tài gắn với hệ thống nhan đề; các trường từ vựng; một số biểu
tượng ngôn ngữ. Cụ thể:
Thứ nhất là trong mối quan hệ với nhan đề, ca từ hát Xoan được chia
thành 3 nhóm đề tài: “khẩn nguyện” và “tích xưa”; “lao động” và “giao
duyên”; “thiên nhiên”. Mạch triển khai đề tài trong ca từ Xoan được ghi nhận
theo 2 hướng: duy trì trong tồn bộ ca từ và được phát triển, mở rộng.

Thứ hai là ca từ trong hát Xoan được chia thành 6 trường từ vựng cơ bản:
con người; thời gian; vũ trụ; thực vật; động vật và lễ hội. Trong mỗi trường lại có
thể gồm các tiểu trường. Trong đó, trường từ vựng “con người” trong hát Xoan là
trường từ vựng chiếm tần số lớn nhất. Năm trường từ vựng còn lại đều xoay quanh
trường trung tâm – trường “con người” nhằm nhắc đến qua lời ca những khía cạnh
23


×