Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tài liệu Đánh giá hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116 KB, 7 trang )

Họ tên : Trương Đức Dũng
Lớp : QTKD K39
BÀI THU HOẠCH
Môn : CHUYÊN ĐỀ TỰ CHỌN
***** ***** *****
STT : 22 Đề 2:
* Đánh giá hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp tư nhân ở VN.
* Đề xuất những giải pháp phát triển hệ thống doanh nghiệp tư nhân ở VN.
Trong những năm trở lại đây, khối doanh nghiệp tư nhân, đã cất cánh và góp phần
đưa nền kinh tế Việt Nam thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Có thể nói rằng
khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã góp phần thay đổi sâu sắc nhân thức của chúng ta về
vai trò của khối tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng
nhanh chóng. Đó là do nhu câu của các nước ASEAN đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, vốn
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm mạnh và các nhà đầu tư
nước ngoài đã ồ ạt rút vốn ra khỏi Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó đa số
các doanh nghiệp quốc doanh trong nước lai hoạt động thua lỗ hoặc chỉ hòa vốn, và chiếm tỷ
lệ lớn các vốn vay xấu của ngân hàng thương mại. Két quả là, nền kinh tế nước ta thiếu hụt
vốn trầm trọng nhưng sử dụng không hiệu quả vốn ít ỏi ấy, và giảm tốc độ tăng trưởng 1
cách đáng lo ngại. Đứng trước sức ép tìm cách đẩy mạnh tăng trưởng và giải quyết các vấn
đề xã hội như thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu, Đảng và nhà nước ta đã mạnh dạn khuyến
khích khối doanh nghiệp tư nhân, với hy vọng hy động được số vốn nhàn rỗi rất lớn trong
dân. Sau nhiều nhăm thực hiện khuyến khích trên, hoạt động của khối doanh nghiệp tư nhân
đã gặt hái được không ít thành công, nhưng bên cạnh đó còn nhiều hạn chế, vì vậy chúng ta
cần phải đưa ra một số nhứng giải pháp về chính sách nâng cao chất lượng phát triển của
khu vực kinh tế này.
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp đã trở nên khá dễ dàng, giúp tăng nhanh số
lượng doanh nghiệp thành lập mới
Những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối doanh nghiệp tư nhân phát
triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật
không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng ký kinh doanh", Luật Doanh
nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ


đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu
của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ KH-ĐT, kể từ khi Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực vào đầu năm 2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho
đến cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10
năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Sự lớn mạnh và tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân
Sự thay đổi nhận thức đó được đánh dấu bằng việc ban hành Luật Doanh nghiệp vào
ngày 1-1-2000. Chỉ tính riêng trong gần 3 năm, từ tháng 1-2009 đến tháng 10-2002, gần
50.000 doanh nghiệp mới đăng ký, trong đó hầu hết là thuộc sở hữu tư nhân (xem bảng 1).
Số lượng doanh nghiệp tư nhân và coongt y trách nhiệm hữu hạn mới đăng ký đã nhiều hơn
tổng số doanh nghiệp mới đăng ký trong 9 năm, từ 1991 đến 1999 (45.005 doanh nghiệp).
Tuy nhiện, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân mới đăng ký thuộc dạng doanh nghiệp vừa và
nhỏ, tính đến năm 2002 có vốn trung bình là 1,35 tỷ đồng, khoảng 90 ngàn USD.
Bảng 1: Các doanh nghiệp mới đăng ký
(ĐVT vốn: tỷ đồng)
2000 2001 2002
a
Tổng đến 2002
Số
DN
Vốn
Số
DN
Vốn
Số
DN
Vốn
Số
DN
Vốn

DN tư nhân 6.412 2.817 7.087 3.873 4.871 3.095 18.370 9.785
Công ty TNHH 7.304 7.968 11.38 14.080 9.162 13.453 27.504 35.501
Công ty cổ phần
b
726 3.066 1.534 7.552 1.565 7.112 3.825 17.730
Tổng cộng 14.442 13.851 19.659 25.504 15.598 23.660 49.699 63.016
a
Số liệu của năm 2002 là đến tháng 10.
b
Bên cạnh những công ty tư nhân mới thành lập,loại này có thể bao gồm những
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, những doanh nghiệp cổ phần mới thành lập có sở hữu
nhà nước, và những công ty cổ phần được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước.
Đi liền với sự bùng nổ số lượng doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng của khu vực tư
nhân rất cao. Ví dụ trong năm 2003 trong lĩnh vực công nghiệp, khu vực tư nhân đã dẫn đầu
về tốc độ tăng trưởng (18,7%), hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (18,3%) và khu vực
doanh nghiệp nhà nước (12,4%). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực tư nhân đã đạt
75,9 ngàn tỷ đồng, xấp xỉ khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương (78,7 ngàn tỷ đồng),
và vượt trội doanh nghiệp nhà nước địa phương. Ngay trong năm đầu tiên thực hiện Luật
doanh nghiệp và bải bỏ hàng trăm giấy phép không còn phù hợp, GDP đã tăng 6,7% và năm
2003 đạt 7,3%.
Không những thế, khu vực tư nhân còn là nguồn tạo ra việc làm quan trọng. Mỗi năm
có 1,3 triệu người ra nhập vào thị trường lao động. Khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện
đang trải qua cuộc đại phẫu thuật với các hình thức cổ phần hóa, sáp nhập, bán và giải thể,
khó mà tạo ra thêm việc làm mới. Trong khi đó mỗi năm khu vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài cung cấp 100.000 việc làm mới và khu vực nông nghiệp là 200.000. Điều này có nghĩa
là còn thiếu 1 triệu việc làm cho những người mới gia nhập (chú ý là chưa tính đến những
người lao động hiện hữu nhưng đang thất nghiệp hoặc muốn chuyển việc làm). Ví thế, sự
phát triển mạnh hơn nữa của khu vực kinh tế tư nhân (phi nông nghiệp) là điều kiện cần thiết
để giúp chúng ta giải quyết tình trạng thất nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
còn đóng góp nhiều lợi ích khác cho nền kinh tế xã hội Việt Nam như: phục vụ những phân

khúc thị trường còn bỏ ngỏ, là nơi ươm mầm những tài năng khởi nghiệp và quản trị, tạo cơ
hội phát triển và triển khai các công nghệ thích hợp, …
Những thách thức phía trước
Bên cạnh những hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tư nhân kể trên thì khu vực kinh
tế tư nhân đang phải đối mặt với những thách thức không nhỏ.
Trước hết, số lượng doanh nghiệp thực sự đang hoạt động không nhiều như con số đăng ký
Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt động tính
đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.012,
2
tức là khoảng 55% so
với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc
dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá
trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với những thay đổi liên tục của môi
trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v. Vì vậy,
hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số lượng doanh nghiệp đã đăng ký
thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó phản ánh sự năng động của khối
doanh nghiệp tư nhân. ở các nước phát triển thuộc tổ chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn
hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7 năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên,
hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy
đủ về những doanh anghiệp đã dừng hoạt động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết
quả nghiên cứu gần đây của MPDF, nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của
cơ quan phụ trách đăng ký doanh nghiệp và TCTK là (i) doanh nghiệp giải thể và ngừng
hoạt động thì hầu như không được ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của
TTTTDN; (ii) nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập
mới mà là chi nhánh hoặc công ty con của một doanh nghiệp khác và (iii) một số doanh
nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của
riêng doanh nghiệp (ví dụ như được mua quyển "hóa đơn đỏ" VAT).
3
Hiểu rõ hơn những
nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp

thiết thực hơn.
Thứ 2, Các doanh nghiệp đang hoạt động chưa phát triển mạnh về chất do còn nhiều khó
khăn trong hoạt động sau đăng ký
Trong khi việc thành lập doanh nghiệp đã dễ dàng hơn nhiều, thì hoạt động kinh
doanh cũng như cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp tư nhân sau đăng ký vẫn
còn bị nhiều cản trở. Tuy khối doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô
đầu tư sản xuất nói chung còn tương đối nhỏ. Một doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ có
31 lao động, 4 tỷ đồng vốn - thấp hơn đáng kể so với con số 421 lao động và 167 tỷ đồng
vốn của doanh nghiệp nhà nước và 299 lao động, 134 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Quy mô vốn có hạn đã hạn chế khả năng trang bị công nghệ tiên tiến
của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với mức đầu tư trung bình cho tài sản cố định trên một
lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng đối với doanh nghiệp nhà nước và 247
triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
4
Doanh nghiệp tư nhân không
thể tham gia vào những dự án lớn từ ngân sách Nhà nước cũng như khó cạnh tranh trên thị
trường quốc tế do quy mô quá nhỏ và năng lực hạn chế. Trong nhiều trường hợp, tốc độ
phát triển của các công ty tư nhân bị hạn chế bởi một số yếu tố của môi trường kinh doanh.
Đó là những cản trở trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu bên ngoài như đất đai, vốn
đầu tư và các hạn chế do một số quy định có tính kiểm soát còn cứng nhắc, đặc biệt trong
lĩnh vực thuế.
Thứ 3, Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân mới thành lập, uy tín trong kinh doanh chưa
cao, ít kinh nghiệm và dễ bị tổn thương trong môi trường toàn cầu hóa cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Có tới 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu các nguồn lực cơ bản như
vốn, năng lực quản lý, đất đai, khó tiếp cận các nguồn vốn, đội ngũ nhân viên có tỷ lệ thay
thế cao…
Nhưng nổi bật hơn cả là doanh nghiệp tư nhân bị đối xử bất bình đẳng . Rất ít doanh
nghiệp tư nhân được trực tiếp thuê đất nhà nước mà phần lớn phải thuê lại mặt bằng của các
doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay chỉ một số ít địa phương có chính sách hỗ trợ mặt bằng
với thủ tục nhanh chóng cho doanh nghiệp tư nhân trong khi hàng loạt các doanh nghiệp

nhà nước làm ăn thua lỗ lại để lãng phí mặt bằng nhưng rất ít bị thu hồi.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân rất dễ bị hình sự hóa các quan hệ dân sự nếu
chẳng may họ không kịp trả nợ cho ngân hàng và các chủ nợ khác. Trong khi đó, phần lớn
các Giám đốc doanh nghiệp nhà nước vẫn ung dung trước các khoản nợ quá hạn, mất khả
năng thanh toán, và chỉ cần chứng minh họ không tham ô, không cố ý làm trái là hòa cả
làng. Doanh nghiệp tư nhân luôn bị nép vế trong các quan hệ với các cơ quan cơ quyền,
không dám kiện ngay cả khi họ có lý vì thực tế hay xảy ra các nhũng nhiều, trả thù. Nếu có
khiếu kiện thì vụ kiện bị kéo dài hoặc giải quyết theo chiều hướng có lợ cho các cơ quan
công quyền kể cá khi các cơ quan này hành xử sai.
Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển và nhiều quỹ khác mà chính phủ dự kiến hỗ trợ cho khu
vực kinh tế tư nhân trên hầu như không đến được các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.
Nói một cách khác, việc ưu đãi và hỗ trợ tín dụng cho khu vực tư nhân này gần như bằng
không.
Vì vậy, để phát triển hơn nữa khối doanh nghiệp tư nhân nhằm đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng và dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế Việt Nam cần có những chính sách tập
trung hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng về chất lượng.
Có khá nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư cho doanh nghiệp thành lập
mới nhưng ít có những chính sách hiệu quả để khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng về
chất. Nhà nước cần tập trung mạnh hơn vào các chính sách và biện pháp giúp doanh nghiệp
thực sự lớn mạnh và phát triển hơn nữa về chất lượng. Những ưu tiên hàng đầu về mặt
chính sách trong các năm tới có thể là:
• Cải cách hệ thống tính và thu thuế - những quy định quá thiên về mặt kiểm soát hơn
là tạo điều kiện trong việc tính và thu thuế, bao gồm cả vấn đề hóa đơn VAT, sẽ là
rào cản lớn đối với những doanh nghiệp tư nhân muốn kinh doanh minh bạch, công
khai để tiếp cận được đầy đủ các nguồn lực cần thiết để phát triển.
• Giải quyết có hiệu quả những hạn chế trong chính sách về đất sản xuất và văn phòng–
giải pháp này có lẽ sẽ có tác động lớn nhất và có hiệu quả nhất trong mọi nỗ lực phát
triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay.
6
• Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân được cạnh tranh bình đẳng trong các lĩnh vực

kinh doanh cho đến nay vẫn dành riêng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, như dầu
khí, viễn thông, cơ sở hạ tầng v.v. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân chỉ phát
huy tác dụng khi Nhà nước đồng thời đẩy mạnh việc giảm bớt sự độc quyền và trợ
cấp kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước.
• Cải cách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện các thủ tục về giải thể
và phá sản, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Những chính sách khuyến khích doanh
nghiệp tiếp tục tăng trưởng cần đi liền với các chính sách tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tự do thoát khỏi những lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả để thực sự năng
động trong kinh doanh.
Ngoài ra, chúng ta cần chú ý đến những khó khăn mà khu vực này đang gặp phải và
cần quyết tâm thực hiện những cải tổ sau:
• Tạo sân chơi bình đẳng. Hiện nay các loại hình doanh nghiệp khác nhau hoạt động
theo nhưng luật lệ, chính sách khác nhau. Một trong những hệ quả dễ nhận thấy nhất
là sự phân bổ không hợp lý của nguồn vốn vay thương mại. Tính đến tháng 9- 2002,
50% lượng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm 70% tổng
lượng vốn cho vay trong nước ta) là dành cho các doanh nghiệp nhà nước. Các ngân
hàng nước ngoài thì chủ yếu cung cấp các dịch vụ tài chính cho các công ty đa quốc
gia hoạt động tại Việt Nam. Do đó, nguồn vốn chính cung cấp cho khối doanh nghiệp
tư nhân là từ các ngân hành cổ phần, trong khi các ngân hàng này chỉ chiếm 12% tổng
lượng vốn cho vay. Nếu các ngân hàng quốc doanh bớt dành ưu đãi cho khu vực
doanh nghiệp nhà nước thì chắc chắn nguồn vốn của đất nước ta sẽ được sử dụng hiệu

×