Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giáo dục trung học cơ sở huyện phú lương tỉnh thái nguyên (1997 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 80 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI THỊ LÊ

GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN (1997 - 2017)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI THỊ LÊ

GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN (1997 - 2017)
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ QUẾ LOAN


THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu“Giáo dục trung học cơ sở
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2017)” dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Thị Quế Loan là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Mai Thị Lê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể và
cá nhân. Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Khoa Lịch sử trường Đại
học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên- cơ sở đào tạo; Trường THPT Phú Lương
- nơi tôi công tác; các cơ quan đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi khai thác
tư liệu: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái Nguyên, Chi cục Thống Kê tỉnh Thái
Nguyên, Thư viện tỉnh Thái Nguyên, Uỷ ban nhân dân huyện Phú Lương,
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Phú Lương, các trường Trung học cơ sở trên

địa bàn huyện Phú Lương.
Đặc biệt, với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi gửi lời cảm ơn đến cô
giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Quế Loan - người đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện và hồn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới người thân, bạn bè và đồng nghiệp
đã luôn động viên, chia sẻ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Mai Thị Lê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ............................................................... vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................. 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................... 5
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 6
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 6
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHÚ LƯƠNG VÀ TÌNH HÌNH

GIÁO DỤC TRƯỚC NĂM 1997 ........................................................... 7
1.1.

Khái quát về huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên ................................... 7

1.1.1. Điều kiện tự nhiên và địa hình .................................................................. 7
1.1.2. Dân cư ........................................................................................................ 9
1.2.

Tình hình giáo dục huyện Phú Lương trước năm 1997 .......................... 11

1.2.1. Tình hình giáo dục từ năm 1954 đến năm 1985 ...................................... 11
1.2.2. Tình hình giáo dục từ năm 1986 đến năm 1996 ...................................... 17
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 19
Chương 2. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THCS HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2017........................................................... 20
2.1.

Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục và việc thực
hiện ở huyện Phú Lương ......................................................................... 20

2.2.

Hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên và học
sinh Trung học cơ sở ............................................................................... 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





2.2.1. Hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất ........................................................ 28
2.2.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh Trung học cơ sở ......................... 33
2.3.

Chương trình và các hoạt động giáo dục ................................................. 36

2.3.1. Chương trình giáo dục ............................................................................. 36
2.3.2. Các hoạt động giáo dục ........................................................................... 41
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 46
Chương 3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THCS HUYỆN PHÚ
LƯƠNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2017........................................... 47
3.1. Những thành tựu của giáo dục THCS huyện Phú Lương ......................... 47
3.2. Những hạn chế của giáo dục THCS huyện Phú Lương ............................ 54
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục THCS huyện Phú Lương .... 57
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 60
KẾT LUẬN....................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 63
PHỤ LỤC ẢNH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ cái viết tắt

Nội dung


1

CSVC

Cơ sở vật chất

2

GD - ĐT

Giáo dục và đào tạo

3

NXB

Nhà xuất bản

5

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa

6

TH

Tiểu học


7

THCS

Trung học cơ sở

8

THPT

Trung học phổ thơng

9

UBND

Ủy ban nhân dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng:
Bảng 2.1.

Số trường THCS trên địa bàn huyện Phú Lương (1997 - 2017) ..............29


Bảng 2.2.

Số trường, lớp khối THCS năm học 2016 - 2017 ....................................31

Bảng 2.3.

Số học sinh THCS huyện Phú Lương qua một số năm học .....................36

Bảng 3.1.

Kết quả giáo dục mơ hình trường học mới lớp 6 năm học 2015 - 2016 ..49

Bảng 3.2.

Kết quả xếp loại học lực bậc THCS qua một số năm học .......................50

Bảng 3.3.

Chất lượng lên lớp, xét tốt nghiệp bậc THCS (tỉ lệ %) ............................51

Bảng 3.5.

Kết quả xếp loại hạnh kiểm bậc THCS của một số năm học ...................52

Biểu đồ:
Biểu đồ 1.1. Dân số huyện Phú Lương qua các năm .....................................................9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vị trí và vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo (GD - ĐT) đã được
Mác- Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều trong các tác phẩm của
mình. Kế thừa quan điểm Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ln
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của sự nghiệp GD - ĐT, ln coi GD - ĐT
là quốc sách hàng đầu vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội
và, có vai trị cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ tổ quốc.
Ở nước ta, sau hơn hai mươi năm đổi mới, nền giáo dục đào tạo đã có
nhiều chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trước
những thách thức của sự phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ trong khu vực
và trên thế giới, trước những địi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa (CNH - HĐH) đất nước nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh,
chất lượng tốt hơn. Chúng ta chỉ có thể phát triển kinh tế xã hội một cách lành
mạnh và bền vững bằng việc chăm lo phát triển giáo dục với tốc độ nhanh hơn,
chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn và đảm bảo công bằng trong giáo dục. Song
những thay đổi trong giáo dục - đào tạo vẫn còn chậm, còn nhiều bất cập so với
yêu cầu của phát triển kinh tế và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu
vực. Bên cạnh đó cơ chế thị trường cũng ảnh hưởng đến giáo dục cả mặt tích cực
lẫn mặt tiêu cực. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương, bệnh thành tích
trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn hố, những yếu kém trong quản lí
dạy thêm, học thêm tràn lan, chất lượng và hiệu quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày càng lớn về nguồn nhân lực có tri
thức. Mặt khác, đời sống của đội ngũ cán bộ giáo viên - lực lượng trực tiếp quyết
định chất lượng GD - ĐT cịn nhiều khó khăn.
Phú Lương là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc tỉnh Thái Ngun.
Tồn huyện có 08 dân tộc cùng sinh sống. Trong những năm qua, cùng với cả

1


nước, GD - ĐT ở tỉnh Thái nguyên nói chung và huyện Phú Lương nói riêng đã
nhận được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, đồn thể các cấp, vì vậy
đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trường lớp
được hình thành và phát triển ở các địa bàn đáp ứng nhu cầu học của mọi
người. Tuy nhiên điều kiện phục vụ cho giảng dạy và học tập của Phú Lương
còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhiệm vụ đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp dạy học; cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng
bộ, vừa thừa vừa thiếu; một bộ phận giáo viên cao tuổi thể hiện chậm đổi mới,
khơng theo kịp trình độ phát triển của khoa học công nghệ, nhất là ở những xã
đặc biệt khó khăn. Về phía học sinh, nhiều em đặc biệt là các em học sinh dân
tộc ở vùng sâu, vùng xa do hồn cảnh gia đình khó khăn nên khơng được đầu
tư cho học tập. Đó là thực tế những khó khăn mà huyện Phú Luơng cần phải
giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu đổi mới của sự nghiệp
phát triển GD - ĐT, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Nghiên cứu giáo dục trung học cơ sở (THCS) huyện Phú Luơng giai
đoạn 1997 - 2017 để làm rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối
với giáo dục nói chung, những kết quả đã đạt được và tồn tại của giáo dục
THCS huyện Phú Lương qua các giai đoạn, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm để góp phần đưa chất luợng giáo dục của huyện ngày một đi lên đáp
ứng yêu cầu của thời kì đổi mới.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn “Giáo dục trung học cơ sở huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2017)” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về giáo dục Việt Nam
nói chung cũng như giáo dục ở tỉnh Thái Ngun nói riêng. Trong q trình
làm luận văn, tác giả đã tiếp cận được với các cơng trình sau:
Sách “Lịch sử giáo dục Việt Nam” được Nxb giáo dục phát hành năm

2004 của tác giả Bùi Minh Hiển cuốn sách bao gồm 8 chương. Cuốn sách đã sơ
2


lược giáo dục Việt Nam qua các thời kì lịch sử, từ giáo dục Việt Nam từ thời kì
phong kiến đến giáo dục Việt Nam thời kì đổi mới, đặc biệt giai đoạn 1975 đến
năm 2000. Cuốn sách đã giúp tác giả có cái nhìn tổng qt về giáo dục Việt
Nam từ thời kì phong kiến đến đổi mới.
Năm 2005, trong luận văn thạc sĩ “Giáo dục phổ thông tỉnh Thái Nguyên
từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997 - 2005)”, tác giả Nguyễn Minh Tuấn đã làm
bật được sự phát triển và đặc điểm của giáo dục phổ thông tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 1997 đến 2005. Luận văn đã cung cấp cho tác giả khái quát về tình
hình giáo dục phổ thông tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2005.
Trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” xuất bản năm
2008 của tác giả Đặng Quốc Bảo đã tập hợp các bài viết, bài nói, văn bản của
chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, tư tưởng về giáo dục của Người đã để lại
những bài học kinh nghiệm cho ngày nay.
Luận văn thạc sĩ “Chuyển biến về kinh tế - xã hội huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên trong thời kì đổi mới (1986 - 2005)” của tác giả Trần Minh Thu
(2010). Luận văn đã trình bày sơ lược tình hình kinh tế, xã hội huyện Phú
Lương trước năm 1986 và đi sâu nghiên cứu, phân tích những chuyển biến kinh
tế, xã hội huyện Phú Lương thời kì đổi mới. Luận văn đã cung cấp cho tác giả
khái quát về tình hình kinh tế, xã hội huyện Phú Lương thời kì đổi mới (1986 2005).
Luận văn thạc sĩ “Giáo dục phổ thông tỉnh Thái Nguyên (1945 - 1954)”
của tác giả Bùi Thị Hoa (2011). Luận văn đã có cái nhìn khá đầy đủ về giáo
dục thổ thông tỉnh Thái Nguyên trong 10 năm đầu kháng chiến chống thực
dân Pháp. Luận văn đã giúp cho tác giả khái qt được về tình hình giáo dục
phổ thơng tỉnh Thái Nguyên giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Luận án tiến sĩ “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục
phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010” của tác giả Đoàn Thị Yến (2011). Luận án

đã nêu lên được Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên chủ trương, quán triệt chủ trương,
đường lối của Đảng về giáo dục và áp dụng vào thực tiễn địa phương. Luận án đã
3


cung cấp được cho tác giả chủ trương, đường lối của Đảng đối với giáo dục và
được áp dụng thực tiễn ở tỉnh Thái Nguyên cũng như tình hình giáo dục tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn từ 1997 đến năm 2010.
Luận văn thạc sĩ “Giáo dục Trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên,
tỉnh Thái Nguyên (2009 - 2017)” của tác giả Trần Việt Huấn (2019) đã đi sâu
phân tích tình hình giáo dục THCS thành phố Thái Nguyên trên mặt như cơ sở
vật chất, quy mô trường, lớp, giáo viên, học sinh, chất lượng giáo dục trên địa
bàn thành phố. Luận văn giúp cho tác giả nhiều tài liệu về giáo dục Trung học
cơ sở thành phố Thái Nguyên từ năm 2009 đến năm 2017.
Cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về giáo dục trung
học cơ sở huyện Phú Lương giai đoạn từ 1997 đến 2017.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục trung học cơ sở huyện
Phú Luơng tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến 2017.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình giáo dục THCS huyện Phú Lương giai đoạn từ
năm 1997 đến năm 2017.
- Nghiên cứu những kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục THCS huyện Phú Lương.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về huyện Phú Luơng và chủ trương, đường lối phát triển giáo
dục cơ sở của Đảng, Nhà nước và địa phương giai đoạn trước năm 1997.
- Nghiên cứu sự phát triển của giáo dục trung học cơ sở ở huyện Phú
Luơng giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2017.

- Kết quả đạt được và những hạn chế của giáo dục trung học cơ sở huyện
Phú Lương (1997 - 2017). Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở trên địa
bàn huyện Phú Lương.
4


3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: 17 Trường THCS thuộc huyện Phú Lương do Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Phú Lương quản lý.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu giáo dục THCS huyện Phú Lương
từ năm 1997 đến 2017. Tác giả chọn từ năm 1997 vì năm 1997 là năm tái thành
lập huyện Phú Lương sau khi bàn giao 10 xã phía Bắc huyện về Bạch Thông
tỉnh Bắc Kạn.
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục THCS huyện Phú
Lương trên các mặt như cơ sở vật chất, hệ thống trường, lớp, đội ngũ cán bộ,
giáo viên, học sinh, các hoạt động giáo dục, những thành tựu, hạn chế và
phương hướng nâng cao chất lượng giáo dục THCS trên địa bàn huyện.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Tác giả dựa trên 2 nguồn tư liệu chính để thực hiện luận văn:
Nguồn tài liệu thành văn, bao gồm:
- Các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết, báo cáo của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, Bộ Giáo dục và Đào tạo, liên quan đến giáo dục đào tạo, giáo dục
THCS nói chung và giáo dục THCS ở huyện Phú Lương nói riêng; Các báo
cáo, thống kê, phương án năm học của các trường THCS, Phòng Giáo dục
huyện Phú Lương từ năm 1997 đến năm 2017.
- Các cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục, đặc biệt các luận văn,
các đề tài liên quan đến giáo dục ở Việt Nam nói chung và ở huyện Phú Lương
tỉnh Thái Nguyên nói riêng; Các tác phẩm Lịch sử đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,

Lịch sử đảng bộ huyện Phú Lương, lịch sử địa phương.
- Nguồn tài liệu thu được từ thực địa bao gồm ảnh về hoạt động giáo dục
của các trường THCS trên địa bàn huyện Phú Lương.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên
cứu chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử

5


nhằm khái qt một cách có hệ thống tồn cảnh bức tranh giáo dục THCS
huyện Phú Lương từ năm 1997 đến năm 2017. Phương pháp logic được sử
dụng nhằm đánh giá bản chất, tính tất yếu, quy luật vận động khách quan của
giáo dục THCS huyện Phú Lương. Từ đó, rút ra những nhận xét, phương
hướng nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện nói chung và giáo dục
THCS nói riêng.
- Ngồi ra, tác giả luận văn cũng vận dụng các phương pháp điền dã với
việc quan sát các hoạt động giáo dục tại các trường THCS ở huyện Phú Lương,
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hoá bằng bảng
biểu, để luận văn có cái nhìn tổng qt hơn.
5. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ sự phát triển, những kết quả đạt được của giáo dục THCS
huyện Phú Luơng.
- Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của giáo dục THCS huyện Phú Lương
trong những năm 1997 - 2017; rút ra một số bài học kinh nghiệm và đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian tới.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về huyện Phú Lương và tình hình giáo dục trước

năm 1997.
Chương 2. Tình hình giáo dục THCS huyện Phú Lương từ năm 1997 đến
năm 2017.
Chương 3. Đánh giá tình hình giáo dục THCS huyện Phú Lương từ năm
1997 đến năm 2017.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
VÀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRƯỚC NĂM 1997
1.1. Khái quát về huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và địa hình
Phú Lương là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Năm 2017,
Phú Lương có diện tích 35071 Km2 với dân số 94.203 người (trong đó, dân số
ở nơng thơn khoảng 87 nghìn người. Phía Bắc giáp huyện Bạch Thơng, phía
Đơng giáp huyện Võ Nhai, phía Nam và phía Đơng Nam giáp thành phố Thái
Nguyên, phía Tây Nam giáp huyện Đại Từ. Phú Lương có 13 xã, 2 thị trấn và
có giới hạn từ 21035’23’’ - 21055’06’’ vĩ độ Bắc và 105037’04’’ - 105048’02’’ kinh
độ Đông. Trong lịch sử, địa danh và địa giới huyện Phú Lương có nhiều sự
thay đổi.
Ngày 18 - 12 - 1996, quán triệt Nghị Quyết kì họp thứ 10 Quốc hội khóa
IX và chỉ thị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tái lập
tỉnh Thái Nguyên, Huyện ủy cùng với Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
huyện Phú Lương đã tổ chức lễ bàn giao 10 xã phía Bắc huyện (Nơng Hạ, Nơng
Thịnh, Thanh Bình, Chợ Mới, n Đĩnh, Quảng Chu, Như Cố, Bình Văn, Yên
Hân, Yên Cư) về huyện Bạch Thông của tỉnh Bắc Kạn tại Thị trấn Đu.
Năm 2013, thực hiện Nghị quyết 124/NQ - CP của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Thái Nguyên về điều chỉnh địa giới hành chính xã Động Đạt và Phấn Mễ để mở

rộng địa giới hành chính thị trấn Đu. Một số xóm thuộc xã Động Đạt (Xóm
Cây Châm, xóm Cầu Lân, Xóm Tân Lập) và Phấn Mễ (xóm Lân 1, xóm Lân 2,
xóm Tràng Học, xóm Mấu 2) được sát nhập vào thị trấn Đu.
Đến năm 2017, thực hiện điều chỉnh địa giới và hành chính, xã Sơn Cẩm đã
chuyển về thành phố Thái Nguyên. Đến năm 2019, huyện Phú Lương bao gồm 15
đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc và 2 thị trấn là thị trấn Đu và thị trấn Giang
Tiên cùng với đó là 13 xã là Yên Ninh, Cổ Lũng, Tức Tranh, Động Đạt, Ôn
7


Lương, Hợp Thành, Phấn Mễ, Vô Tranh, Phú Đô, Phủ Lý, Yên Đổ, Yên Lạc,
Yên Trạch) bao gồm 240 xóm, 14 tổ dân phố.
Huyện Phú Lương được chia thành 2 vùng rõ rệt với nhiều đồi núi dốc,
do đó có địa hình khá phức tạp. Phía Bắc, gồm các xã Hợp Thành, Ôn Lương,
Phủ Lý, Yên Lạc, Yên Ninh, Yên Trạch. Các xã này có địa hình dốc, đồi núi và
khá phức tạp. Giao thông và cơ sở hạ tầng ở đây tương đối khó khăn (độ dốc:
250 - 300 và độ cao từ 500m - 1000m). Phía Nam của huyện gồm thị trấn Đu, thị
trấn Giang Tiên, xã Phấn Mễ, xã Động Đạt, xã Vơ Tranh. Địa hình ở các xã, thị
trấn này chủ yếu là đồi, núi thấp và các thung lũng (độ dốc: 150 - 250 và độ cao
từ 100m - 300m). Núi ở đây thường đan chéo vào nhau với các đồi núi cao, tạo
nên các bậc thềm lớn.
Địa hình huyện Phú Lương nằm trong phần sau của cánh cung Ngân Sơn
và hệ kiến tạo hình thành của địa hình tỉnh Thái Nguyên. Huyện Phú Lương có
nhiều đồi núi thấp, đồi núi đá vơi với dạng đồi bát úp, sườn thoải gồm các loại
sa phiến thạc, một số đồi núi đã thành các ruộng bậc thang trong q trình
người dân khai phá.
Huyện Phú Lương có hệ thống sông, suối tương đối lớn. Ao, hồ, sông,
suối trong địa bàn huyện chạy qua 5 xã, thị trấn. Đó là, thị trấn Đu, thị trấn
Giang Tiên, Yên Đổ, Cổ Lũng và Phấn Mễ. Trong đó, các xã Vơ Trang, Tức
Tranh, Sơn Cẩm và Phú Đô nằm cạnh sông Cầu - một con sơng bắt nguồn từ

Bắc Cạn có chiều dài 17km. Con sông này vừa đen lại nguồn tưới tiêu lớn cho
các xã phía Nam của huyện vừa là nơi phân chia địa danh giữa huyện Đồng Hỷ
và huyện Phú Lương. Sông Đu và các nhánh sông Đu tương đối lớn với tổng
chiều dài khoảng 45m (trong đó, nhánh sơng chính dài khoảng 10km). Sơng
nằm ở phía Bắc của huyện, ngồi cung cấp nước tưới, sơng Đu cịn cung cấp
lượng thủy sản khá dồi dào “cơm làng Giá, cá chợ Đu”.
Như vậy, với hệ thống sông, suối, ao, hồ tương đối lớn và phân bố đồng
đều ở các vùng đã đủ phục vụ nhu cầu cho người dân trong huyện sinh hoạt và
sản xuất. Từ đó, góp phần nâng cao năng suất và phát triển kinh tế.

8


Về khí hậu, huyện Phú Lương có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nóng
ẩm, mưa nhiều và được chia làm 2 mùa rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), lượng mưa trung bình hàng năm
của huyện từ 1800 - 2000 mm, nhiệt độ từ 250 - 300, độ ẩm khoảng 80%. Vào
mùa khô, huyện Phú Lương thường xuyên bị khô hạn do lượng nước bốc hơi
vào mùa này cao.
Tuy là một huyện miền núi, nhưng hệ thống giao thông vận tải ở huyện
Phú Lương tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và quốc phịng an
ninh. Trên địa bàn huyện có 3 tuyết đường bộ quan trọng chạy qua: Quốc lộ 3,
quốc lộ 37 và đường 254. Trong đó, quốc lộ 3 với chiều dài hơn 50km chạy qua
8 xã và thị trấn là tuyến đường lớn và quan trọng nhất đi qua địa bàn huyện.
Quốc lộ 37 qua địa bàn huyện từ ngã ba Bờ Đậu qua huyện Đại Từ sang Tuyên
Quang. Ngồi ra, cịn có tuyến đường 254 đi từ km 31 lên huyện Định Hóa
(Thái nguyên).
1.1.2. Dân cư
Trong những năm qua, dân số huyện Phú Lương có nhiều biến động
(xem biểu đồ 1.1)

115.000

110.000

105.000

100.000

95.000

90.000

85.000
1989

1996

2006

2017

Biểu đồ 1.1. Dân số huyện Phú Lương qua các năm

9


Trước Cách mạng Tháng Tám, dân số trong huyện Phú Lương chưa tới
10.000 người. Đến 01- 04- 1989, dân số của huyện là 107.390 người, năm 1996
là 110.000 người. Năm 1997, do thay đổi địa giới hành chính, huyện Phú
Lương đã bàn giao 10 xã phía Bắc huyện về Bạch Thơng tỉnh Bắc Cạn. Vì vậy,

dân số trên địa bàn huyện bắt đầu giảm. Đến năm 2006, dân số huyện Phú
Lương là 105.077 người. Tuy nhiên, đến năm 2017, xã Sơn Cẩm chuyển về
Thành phố Thái Nguyên do điều chỉnh địa giới hành chính của tỉnh nên dân số
huyện Phú Lương đã bị giảm đáng kể, chỉ còn 94.203 người đến năm 2018 dân
số huyện Phú Lương 94.415 người.
Phú Lương là một huyện làm nông nghiệp là chủ yếu nên dân số nông
thôn chiếm tỉ lệ cao. Theo niên giám thống kê năm 2008, tỉ lệ nông thôn ở
huyện Phú Lương lên tới 92,6%, tỉ lệ sống ở thành thị chỉ có khoảng 7,4%. Đến
năm 2016, dân số nơng thơn ở huyện là 97.300 người, trong khi đó số người
sống ở thành thị là 11.950 người [16, tr.24,25]. Mật độ dân số của huyện trung
bình 288 người/km2. Trong đó, thị trấn Đu có mật độ dân số cao nhất là 18,727
người/km2, Yên Ninh là xã có mật độ dân số thấp nhất là 128 người/km2.
Dân cư huyện Phú Lương chủ yếu là dân bản địa sống trên địa bàn
huyện từ lâu đời. Một số khác là dân cư các tỉnh miền xi như Thái Bình,
Nam Định, Hà Tây… di cư lên theo chương trình xây dựng các vùng kinh tế
mới của Nhà nước.
Huyện Phú Lương là nơi tập trung 08 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Những dân tộc này họ sống xen kẽ nhau, đùm bọc và gắn bó với nhau trong sản
xuất cũng như trong cuộc sống đời thường như ma chay, cưới hỏi. Đúng như
câu tục ngữ của người Tày “Pì nọong tam tó, bó tày pì nọong só rườn”, hay của
dân tộc Kinh: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Tinh thần đoàn kết, tương
thân tương ái này trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc trong huyện
Phú Lương.
Trong sản xuất và đời sống hàng ngày, các dân tộc trên địa bàn huyện Phú
Lương ln cần cù, chịu thương, chịu khó và thơng minh. Công việc chủ yếu của

10


cư dân là làm ruộng, phát nương làm rẫy. Cư dân ở đây đã tích lũy được nhiều

kinh nghiệm trong sản xuất để tăng năng suất lao động và tạo ra những đặc sản
vùng, đúng như câu “Cơm làng Giá, cá làng Đu”. Trong quá trình chinh phục
thiên nhiên, họ chế tạo ra các loại vũ khí (cung, nỏ…) hay dệt vải, đắp đê trong
sinh hoạt và sản xuất. Ngoài cây lúa là chủ đạo, Phú Lương còn phát triển một số
loại cây công nghiệp, cây ăn quả nhất là cây chè trên đất Feralit.
Phú Lương là huyện có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó,
dân tộc Kinh là đơng nhất chiếm hơn 50% dân số. Ngồi ra, cịn có các dân tộc
Tày, Sán Chay, Nùng, Sán Dìu, Thái, Hoa, H’mơng và một số dân tộc khác.
Các dân tộc trên địa bàn huyền đều mang những phong tục, tập quán và sắc thái
riêng của dân tộc mình. Tiêu biểu, điệu Sli của dân tộc Nùng, hát lượn của dân
tộc Tày. Trong những năm gần đây, di sản văn hóa “Lễ hội cầu mưa” của dân
tộc Sán Chay ở xã Tức Tranh huyện Phú Lương được công nhận là văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia và được nhiều người biết đến. Đây là những món ăn tinh
thần nhân dân Việt Nam nói chung và huyện Phú Lương nói riêng.
1.2. Tình hình giáo dục huyện Phú Lương trước năm 1997
1.2.1. Tình hình giáo dục từ năm 1954 đến năm 1985
Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu” giúp cho miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng và bắt
đầu bước vào thời kì xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tháng /1956, chính
sách giáo dục phổ thơng của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được ban hành
theo đề án cải cách giáo dục lần hai. Hệ thống trường phổ thông 9 năm được
thay thế bằng hệ thống giáo dục mới 10 năm gồm 3 cấp học: cấp 1 (từ lớp 1
đến lớp 4); cấp 2 (từ lớp 5 đến lớp 7); cấp 3 (từ lớp 8 đến lớp 10). Huyện Phú
Lương cũng như các tỉnh miền núi, thời gian học cấp 1 là 5 năm vì học thêm
một lớp vỡ lòng trước khi trẻ bước vào lớp 1.
Thực hiện nghiêm túc chính sách cải cách giáo dục phổ thơng của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (năm 1956), đến cuối năm 1957, phần lớn các xã
11



ở huyện Phú Lương đều có trường cấp I; huyện xây thêm một trường phổ thông
cấp II (một lớp 5, hai lớp 6, tổng số học sinh 131 và 6 giáo viên) [38, tr.20].
Cơng tác cơng đồn, các tổ chun môn bước đầu được xây dựng.
Từ năm 1957 đến năm 1960, huyện Phú Lương thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa. Huyện đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế xã hội. Trong đó, giáo dục huyện Phú Lương có bước tiến đáng kể. Để nâng
cao chun mơn, hằng năm, Phịng Giáo dục huyện Phú Lương tổ chức các lớp
bồi dưỡng, huấn luyện về chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên (riêng
quý III năm 1957 có 53 cán bộ giáo viên được tham gia lớp huấn luận ngắn
ngày do Phòng Giáo dục huyện Phú Lương tổ chức). Ngoài ra, cán bộ giáo viên
cịn được đi tham quan, học tập từ đó khích lệ tinh thần của các bộ trong ngành
giáo dục.
Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được củng cố. Huyện cử các cán bộ
có chun mơn, nghiệp vụ thường xun kiểm tra, giúp đỡ phong trào. Do đó, đã
có 13/14 xã có phong trào bình dân học vụ, tiêu biểu là 4 xã Yên Đổ, Cổ Lũng,
Phấn Mễ, Yên Trạch. Năm 1957 phong trào bình dân học vụ huyện Phú Lương
đã có 60 lớp cơng, 1 lớp tư, với gần 90 giáo viên [38, tr21]. Phong trào xóa nạn
mù chữ cũng được quan tâm. Được sự giúp đỡ của các ban, ngành trong huyện,
nhất là Đoàn thanh niên. Với sự cố gắng đó, năm 1960 huyện Phú Lương có tổng
cộng 9/14 xã, 78/132 xóm đã căn bản hồn tồn xố nạn mù chữ cho 1.993
người ở độ tuổi từ 12 đến 45 (đạt tỉ lệ 84%). Cũng trong năm này, đã có 640 cán
bộ xã từ hệ bổ túc văn hoá được chuyển lên học lớp 1 và lớp 3 [38, tr.21].
Theo cải cách giáo dục năm 1956 của Bộ Giáo dục, các tỉnh miền núi
trước khi vào lớp 1 trẻ phải học thêm một lớp vỡ lòng. Thực hiện nghiêm túc
quy định này, Giáo dục vỡ lòng huyện Phú Lương khá phát triển. Đến năm
1960, trừ các xã Phú Đơ, n Lạc và n Ninh thì tồn huyện đã có 11/14 xã
có các lớp vỡ lịng (đạt tỉ lệ 78,5%). Trong đó, các xã mở các lớp vỡ lịng nhiều
nhất là Tân Thành, Hợp Thành, Phủ Lý, Phấn Mễ, Yên Trạch (đạt tỉ lệ trên

12



90%). Bên cạnh việc mở các lớp vỡ lòng, các trường cấp I và cấp II cũng phát
triển khá nhanh. Năm học 1959 - 1960, huyện Phú Lương đã có tổng cộng 11
trường cấp I và 1 trường cấp II. Số giáo viên và học sinh không ngừng tăng lên
với 49 giáo viên và 1.721 học sinh năm học 1959 - 1960 thì đến năm học 1960
- 1961 con số này tăng lên 59 giáo viên và 2.363 học sinh. Học sinh lớp 6 lên
lớp 7 và số học sinh tốt nghiệp cấp II đều đạt 100% [38, tr.39].
Từ năm 1961 đến năm 1965, huyện Phú Lương gặp nhiều khó khăn,
trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng không vì lý do đó mà ngành giáo dục
huyện bị suy yếu. Ngược lại, giáo dục huyện Phú Lương trong thời gian này có
bước phát triển tương đối nhanh. Trong năm học 1961 - 1962, từ lớp vỡ lòng
đến cấp II của tồn huyện có 14 lớp với hơn 600 học sinh, con số này tăng lên
156 lớp với tổng số hơn 5 nghìn học sinh trong năm học 1962 - 1963. Bước
sang năm học 1964 - 1965, toàn huyện đã có tới gần 5 nghìn học sinh cấp I và
học sinh cấp II [38, tr.72].
Phú Lương là một huyện còn nhiều vùng cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là
vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện chính sách giáo dục đối
với các dân tộc trên địa bàn huyện và đào tạo con em đồng bào các dân tộc
thuộc diện chính sách thành những cán bộ có trình độ văn hố và phẩm chất
chính trị trở về phục vụ công tác ở địa phương và hợp tác xã, huyện Phú Lương
đã xây dựng trường Thanh niên xã hội chủ nghĩa (năm 1961) tạo điều kiện vừa
học vừa làm đối với các học sinh.
Trường Thanh niên xã hội chủ nghĩa khi mới xây dựng đã thu hút được
121 học sinh (trong đó có 75 nam và 46 nữ). Sang năm 1962, trường Thanh
niên xã hội chủ nghĩa đã được đón Bác Hồ, các tỉnh và các trường bạn đến
tham quan, học tập vì có thành tích xuất xắc trong sản xuất và học tập. Đây là một
động lực khích lệ tinh thần đối với thầy và trò cả nhà trường để hồn thành tốt hơn
nữa trong cơng tác giáo dục. Tuy nhiên, đến năm 1963 nhà trường đã gặp nhiều
khó khăn về lương thực thực phẩm và cơ sở vật chất. Những khó khăn này ảnh
hưởng khơng nhỏ tới chất lượng dạy và học của thầy và trò nhà trường.

13


Để khắc phục khó khăn, Huyện ủy đã kịp thời giúp đỡ nhà trường tăng
cường sản xuất lương thực thực phẩm, chuyển trường Thanh niên xã hội chủ
nghĩa đến một địa điểm khác. Điều này đã giúp cho cán bộ giáo viên và học
sinh yên tâm giảng dạy và học tập. Đến cuối năm 1963, nhà trường đã đi vào
hoạt dộng nhưng vẫn cịn khó khăn về cơ sở vật chất.
Thanh toán nạn mù chữ tiếp tục được thực hiện. Nếu như năm 1960, tồn
huyện có trên 1000 người mù chữ (thuộc 7 xã Tức Tranh, Vô Tranh, Phú Đô,
Yên Ninh, Sơn Cẩm, Cổ Lũng), thì đến năm 1961, tỉ lệ mù chữ tồn huyện chỉ
cịn 14,1 %, nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch tỉnh giao (92,5%) [38, tr.73]. Các tổ
chức lãnh đạo huyện Phú Lương đã thực hiện nhiều biện pháp để giải quyết dứt
điểm việc thanh toán nạn mù chữ trên địa bàn, nhất là kêu gọi sự tham gia của
đoàn thanh niên xung phong tham gia mặt trận này. Nhờ những biện pháp tích
cực trên, đến ngày 19/5/1961, nạn mù chữ trên địa bàn huyện cơ bản được
thanh tốn.
Về cơng tác bổ túc văn hóa. Nhiều xã trên địa bàn huyện tổ chức các lớp
bổ túc văn hóa để bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ chủ chốt ở xã và hợp tác xã.
Năm 1959, xây dựng trường bổ túc văn hóa của huyện Phú Lương và khơng
ngừng được mở rộng qua các năm. Nhờ đó, có rất nhiều cán bộ được nâng cao
trình độ từ lớp 1, lớp 2 lên lớp 6, lớp 7. Năm 1961 các xã Hợp Thành, Tân
Thành, Vô Tranh, Động Đạt, Phấn Mễ, Yên Ninh tổ chức các lớp bổ túc về văn
hóa cấp I với 76 học viên theo học [38, tr.74].
Từ năm 1965, các hoạt động kinh tế - xã hội huyện Phú Lương xác định
chuyển từ thời bình sang thời chiến. Trong đó, Giáo dục và đào tạo được đặc
biệt quan tâm và đạt được nhiều thành tựu. Tiêu biểu là việc thành lập trường
Phổ thông cấp III Phú Lương (năm học 1965 - 1966) với 126 học sinh. Do đó,
số học sinh và giáo viên tồn huyện tăng nhanh. Năm học 1965 - 1966, huyện
Phú Lương tăng từ 4.867 học sinh lên 5.163 học sinh, số giáo viên từ 153 lên

188 giáo viên so với năm học trước đó [38, tr.96]. Để nâng cao chất lượng giáo

14


dục các cơ quan và tổ chức trong huyện không ngừng quan tâm lãnh đạo, xây
dựng, nâng cao bồi dưỡng năng lực cho cán bộ, giáo viên các trường.
Bước sang năm học 1966 - 1967, miền Bắc nước ta đương đầu với cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ ở miền Bắc. Tỉnh
Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Lương nói riêng chịu ảnh hưởng không
nhỏ bởi cuộc chiến tranh này. Tuy nhiên, bằng sự quan tâm của các cấp, chính
quyền, giáo dục trên địa bàn huyện có bước phát triển nhanh chóng về quy mô.
Tổng số học sinh cấp I, cấp II, cấp III đều tăng nhanh. Năm học 1966 - 1967,
tồn huyện có 14 trường cấp I, mỗi xã có 1 trường, với 137 lớp, 4.360 học sinh
(tăng 13,1% so với năm học trước), giáo viên tăng 18%; 5 trường cấp II với 32
lớp, 1.240 học sinh (tăng 24%), giáo viên tăng 17%; 1 trường cấp III với 4 lớp
(2 lớp 8, 1 lớp 9 và 1 lớp 10) với 192 học sinh (tăng 34%), giáo viên tăng 2,2%.
Cùng với đó là 82 lớp vỡ lòng với 2.884 học sinh [38,109].
Từ năm 1970 - 1975, giáo dục huyện Phú Lương có nhiều dấu hiệu
chuyển biến tốt. Có được điều này một phần là do Mĩ chấm dứt cuộc chiến
tranh leo thang ở miền Bắc, nhân dân miền Bắc nói chung và huyện Phú Lương
nói riêng có điều kiện hịa bình để phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả học sinh
trên địa bàn huyện trong độ tuổi đến trường đều được đi học. Cứ 5 người dân
thì có 2 người được đi học, đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với giáo dục
của một huyện miền núi. Chất lượng dạy và học ở các cấp, các phong trào thi
đua đều được đẩy mạnh và nâng cao. Năm học 1973 - 1974 kết quả thi hết các
cấp I, II, III đều tăng qua các năm và đạt trên 85% riêng cấp III đạt 90%. (so
với năm học 1972 - 1973, cấp I tăng 6%, cấp II tăng 8%, cấp III tăng 10%).
Năm học 1974 - 1975 tỉ lệ đỗ tốt nghiệp cả 3 cấp đều vượt chỉ tiêu [38, tr.165].
Để có được những thành tựu vượt bậc trên là sự quan tâm, tận tụy của

các cấp chính quyền đến các thầy và trị trên địa bàn huyện để thầy giáo, cơ
giáo n tâm cống hiến. Bên cạnh những thành tựu trên, giáo dục còn những hạn
chế nhất định về cơ sở vật chất, nhất là giáo dục mầm non. Một số học sinh vùng
sâu, vùng xa đi lại khó khăn, kinh tế thiếu thốn khơng có điều kiện cho con em đi
15


học; một số thầy cơ giáo cịn chưa ý thức hết trách nhiệm với nghề. Do đó, tính
đến đầu năm 1975, huyện Phú Lương có tới gần 100 trẻ em không được đến
trường và nhiều em không theo học được hết cấp I phải nghỉ học để giúp đỡ gia
đình. Đối với cơng tác bổ túc văn hóa giai đoạn này cũng đã được quan tâm
nhưng chưa được phổ biến trên quy mơ rộng lớn ở các cơ quan, xí nghiệp.
Hòa chung với cả nước trong đại thắng mùa Xuân năm 1975, kinh tế - xã
hội huyện Phú Lương có những bước tiến mới. Trong đó, giáo dục huyện Phú
Lương đạt được nhiều thành tích trên cả 3 ngành học: Vỡ lịng, phổ thơng và bổ
túc văn hóa. Năm 1976, huyện Phú Lương có khoảng 2 vạn học sinh các cấp,
bình qn đạt 3 người dân thì có 1 người được đi học. Cơng tác bổ túc văn hóa
mở rộng về quy mô về cả các cơ quan và nông thơn. Nhiều cán bộ chủ chốt,
thanh niên, người dân tích cực tham gia học lớp bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2.
Tình trạng học 3 ca cũng cơ bản được giải quyết do cơ sở vật chất được quan
tâm tu sửa và mua sắm thêm để phục vụ cho việc dạy và học. Phong trào thi
đua dạy tốt, học tốt ở các trường phổ thông được chú ý. Do đó, chất lượng giáo
dục các cấp được nâng lên.
Huyện Phú Lương luôn phấn đấu tăng cường thêm cơ sở vật chất, nhất là
đối với giáo dục mầm non, cố gắng 100% con em đồng bào trên địa bàn huyện
đến tuổi đi học được đến trường; quan tâm đến đời sống và bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ đối với giáo viên.
Trong những năm 1980 - 1985, tình hình thế giới và trong nước có
những thay đổi đáng kể. Thực hiện chủ trương chung của Đảng về cải cách
giáo dục của Bộ Chính trị năm 1979, giáo dục huyện Phú Lương tăng cường

cải cách việc bồi dưỡng giáo viên, cải cách sư phạm và mở rộng về quy mô và
tăng nhanh về số lượng. Trên cả huyện có tổng 25 trường phổ thông cơ sở, 2
trường phổ thông trung học với tổng 18.831 học sinh, 5 lớp bổ túc văn hóa (156
học viên). Tỉ lệ thi đỗ tốt nghiệp các cấp luôn đạt từ 93% trở lên [38, tr.209].

16


1.2.2. Tình hình giáo dục từ năm 1986 đến năm 1996
Năm 1986 là mốc đánh dấu mở đầu cho công cuộc đổi mới một cách
tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ở Việt Nam. Đối với giáo dục,
phải đa dạng hóa các hình thức đào tạo, hình thức trường, lớp, ban hành quy
chế các trường, lớp dân lập và tư thục.
Hưởng ứng công cuộc đổi mới của Đảng, bên cạnh ra sức phát triển kinh
tế trên mọi lĩnh vực công, nông, lâm nghiệp, huyện Phú Lương còn quan tâm
đầu tư trên lĩnh vực an ninh quốc phịng, văn hóa - xã hội trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, trong thời kì sau đổi mới, kinh tế huyện Phú Lương gặp nhiều
khó khăn và rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Kéo theo đó giáo dục huyện có
nhiều biểu hiện đi xuống so với thời kì trước. Mặc dù số học sinh đi học vẫn
tăng lên qua các năm (năm 1989 tăng 1.182 em so với năm 1986) nhưng kết
quả học tập của học sinh giảm sút nghiêm trọng, học sinh lưu ban ngày càng
tăng, học sinh bỏ học cũng ngày càng nhiều lên (năm học 1986 - 1987 có 3,5%
học sinh bỏ học, thì con số này tăng lên 10% trong năm học 1988 - 1989). Tỉ lệ
đỗ tốt nghiệp các cấp đều giảm nhiều so với giai đoạn trước. Nếu như trước
đây, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp ln đạt trên 80%, thì đến năm 1987 giảm
xuống còn 73,8%, con số này đến năm 1988 giảm còn 61,08% và đến năm
1989, chỉ đạt 34,7%.
Giáo dục huyện Phú Lương có những yếu kém trên phần lớn là do công
tác quản lý, lãnh đạo của huyện cịn bỡ ngỡ, ít kinh nghiệm trong việc đổi mới
từ cơ chế tập trung quan liêu sang xã kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để khắc phục

những hạn chế này, các cấp chính quyền của huyện Phú Lương đã kịp thời
kiểm điểm đồng thời có những định hướng, triển khai các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng giúp cho kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng
vượt qua khó khăn và có bước tiến mới.
Trong thời kì những năm 1991 - 1995, với những quyết tâm cũng như
nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền, sự giúp đỡ của
17


×