Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

(Luận văn thạc sĩ) chính sách phát triển thủy quân của các chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ XVI XVIII​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.37 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA VIỆT NAM HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
-----------------------

LÊ THỊ KIỀU

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVI- XVIII

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH VIỆT NAM HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-X

Người hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Xuyến

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình triển khai đề tài khóa luận, em đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ tận tình và nhận được nhiều lời khun bổ ích để hồn
thành khóa luận.
Em xin chân thành gửi lời cảm đến cô Vũ Thị Xuyến, người đã trực
tiếp chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu để hồn thành
khóa luận. Cơ đã tận tình truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm, cũng như đưa ra
những lời khuyên định hướng giúp em đi đúng hướng đề tài nghiên cứu. Nhờ
vậy mà em có thể hồn thành khóa luận đúng thời gian quy định.
Ngoài ra, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tồn thể thầy cơ trong khoa
Việt Nam học và tiếng Việt đã giúp đỡ em cùng tập thể K59 Việt Nam học


trong suốt 4 năm học tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Em
cũng xin gửi lời cám ơn tới thư viện trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN, thư
viện Quốc gia, Phòng tư liệu khoa Việt Nam học đã tạo điều kiện giúp em
tiếp cận nhiều nguồn tư liệu phong phú.
Xin gửi lời cảm ơn đến bạn Phạm Thị Thơm - K59 Việt Nam học, Ngơ
Hồng Thắng - K59 Lịch sử đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong q trình tìm kiếm
tài liệu và cùng trao đổi kiến thức trong suốt thời gian triển khai khóa luận.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã ln quan
tâm, động viên và tạo điều kiện thuận lợi, tạo động lực giúp tơi hồn thành
khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Lê Thị Kiều


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả Lê Thị Kiều xin cam đoan:
Khóa luận tốt nghiệp là thành quả từ sự nghiên cứu hồn tồn nghiêm
túc của tác giả thơng qua khảo cứu và nghiên cứu tài liệu liên quan, và được
thực hiện dưới sự hướng dẫn, định hướng của giảng viên hướng dẫn Thạc sĩ
Vũ Thị Xuyến.
Đề tài khóa luận là một đề tài mới do tác giả đưa ra và được sự đồng ý
của giảng viên hướng dẫn, khơng hề có sự sao chép theo bất cứ đề tài nào
tương tự.
Mọi sự tham khảo trong khóa luận đã được chú thích và trích dẫn
nguồn rõ ràng trong báo cáo và danh mục tài liệu tham khảo.
Mọi sự sao chép không rõ ràng, không hợp lệ theo quy chế của nhà
trường tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Lê Thị Kiều


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
NỘI DUNG ................................................................................................................ 5
Chương 1: TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN Ở ĐÀNG TRONG.............. 5

1.1. Đàng Trong trong bối cảnh khu vực thế kỉ XVI-XVIII .................... 5
1.2. Tiền đề phát triển thủy quân ở Đàng Trong ...................................... 7
1.2.1. Đặc điểm vị trí địa lý ........................................................................ 7
1.2.2. Kỹ nghệ đóng thuyền ..................................................................... 10
Chương 2: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN CỦA CÁC
CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVI- XVIII...................... 18
2.1. Phép duyệt, tuyển ................................................................................ 18
2.1.1 Phép tuyển binh ............................................................................... 18
2.1.2 Phép duyệt binh ............................................................................... 22
2.2. Chính sách tổ chức và quản lý ........................................................... 27
2.2.1. Thủy quân chính quy ...................................................................... 27
2.2.2. Lực lượng truyền tin và vận chuyển ............................................... 29
2.3. Kỷ luật quân đội .................................................................................. 35

2.4. Chính sách đãi ngộ .............................................................................. 38
Chương 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG ................................................................. 44
3.1. Một số nhận định ................................................................................ 44
3.2. Một số trận đánh lớn của thủy quân Đàng Trong ........................... 54
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta trong giai đoạn cuối thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII đã xảy ra
nhiều biến động lớn về chính trị cũng như kinh tế xã hội, đặc biệt là từ khi
nhà Lê sơ sụp đổ (1428-1527). Là một triều đại hùng mạnh, in dấu ấn sâu
đậm trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hố nên sự suy sụp của nhà Lê
sơ đã góp phần gây ra cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực
phong kiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, khiến đời sống dân chúng điêu đứng.
Nhưng nhìn ở góc độ khác khách quan hơn, giai đoạn này cũng đã hoàn thiện
nguyện vọng Nam tiến của triều đại Lê sơ. Quá trình Nam tiến là một trong
những kết quả quan trọng trong lịch sử dân tộc, kéo dài qua nhiều thời kì,
nhiều đời vua khác nhau. Nhưng chỉ đến thời các chúa Nguyễn mới diễn ra
thực sự mạnh mẽ và có hiệu quả rõ rệt mà Chúa tiên Nguyễn Hoàng (15581613) là người mở cõi. Nguyễn Hoàng để tránh sự thủ tiêu của họ Trịnh, dựa
vào lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất đái,vạn đại dung
thân”, đã khéo léo xin Trịnh Kiểm vào cai quản vùng đất Thuận Hóa đầy khó
khăn, lựa chọn nơi này là nơi dung thân là nơi dấy nghiệp. Bắt đầu từ Chúa
Tiên đến các đời Chúa kế vị đều đã cố gắng xây dựng cơ đồ vững mạnh cả về
chính trị và kinh tế. Nhắc đến Đàng Trong là nhắc đến một nền kinh tế ngoại
thương phát triển rộng mở, nhưng song song với kinh tế chúa Nguyễn luôn
chú trọng xây dựng lực quân đội đông và mạnh, trong đó đặc biệt phải kể đến
thủy quân. Việc chú trọng phát triển thủy quân ở Đàng Trong thứ nhất là do
đặc điểm vị trí địa lí thuận lợi cho việc lưu thơng bằng đường thủy với hệ

thống sơng ngịi kênh rạch chằng chịt, đường bờ biển kéo dài và đây cũng là lí
do người dân Đàng Trong quen với việc sử dụng thuyền và phát triển văn hóa
nước. Điều quan trọng hơn nữa, việc phát triển thủy quân đã phục vụ cho nhu
cầu chính trị của Đàng Trong chống lại họ Trịnh ở phương Bắc, hoàn thành
sứ mệnh mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Do đòi hỏi cấp thiết phải xây
dựng quân đội mạnh và tình hình thực tế của Đàng Trong, đã thúc đẩy Chúa
1


Nguyễn phải nhanh chóng có những chính sách riêng để phát triển lực lượng
quân sự, đặc biệt là lực lượng thuỷ qn. Vậy thì chính sách xây dựng và phát
triển lực lượng thuỷ quân của chúa Nguyễn là gì? Và chính sách của Chúa đã
tác động như thế nào đến Đàng Trong, giúp Đàng Trong đứng vững trước
những sóng gió ra sao? Để đi tìm những lời giải đó, tơi đã chọn đề tài “Chính
sách phát triển thủy quân của chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ XVIXVIII” làm đề tài khố luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đàng Trong được hình thành trong thời đại có nhiều biến động của lịch
sử. Tuy nhiên, vương quốc của chúa Nguyễn không chỉ được biết đến với một
nền ngoại thương, một nền kinh tế hàng hóa phát triển nở rộ, mà cịn được
nhắc đến với một nền chính trị rộng mở, quân đội hùng mạnh trong đó phải
đặc biệt kể đến sự phát triển của lực lượng thủy quân. Nhiều sử gia đã ghi
nhận về vấn đề này có thể kể đến như: Phủ biên tạp lục của Lê Q Đơn một
vị quan của triều đình Đàng Ngồi đã miêu tả rất chi tiết về địa hình Đàng
Trong, quân đội Đàng Trong, những thông tin mà tác giả mắt thấy tai nghe
khi trực tiếp đến Đàng Trong khảo sát tình hình. Những điều này cũng đã
được ghi nhận trong những chính sử Việt khác như Đại Nam thực lục hay
Nam triều cơng ngiệp diễn chí....
Bên cạnh đó cũng gần đây rất nhiều cơng trình nghiên cứu về qn đội
triều Nguyễn cũng đã đề cập đến quân đội Đàng Trong như: Trịnh Ngọc
Thiện, Tìm hiểu tổ chức quân đội Việt Nam thời kì chúa Nguyễn và vương

triều Nguyễn (từ cuối thế kỉ 16 đến nửa đầu thế kỉ 19), tạp chí khoa học
ĐHSP TPHCM, số 63, năm 2014 đã làm rõ hơn tổ chức quân đội dưới triều
Nguyễn trên nền tảng là cách thức tổ chức quân đội dưới thời chúa Nguyễn
nhưng hồn thiện hơn và theo hướng chính quy hơn; Tác giả Phạm Văn Thủy
với cơng trình nghiên cứu “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu
XIX: Qua các nguồn sử liệu phương Tây” (trong sách: Nguyễn Văn Kim
(Cb.), Người Việt với biển, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012, tr.506-523) là một
2


cơng trình nghiên cứu về qn đội Việt Nam qua các thời kì từ thế kỉ 17-19
nhìn từ các nguồn sử liệu phương Tây, đã đưa ra một cái nhìn lịch đại xuyên
suốt hơn. Cùng một số nghiên cứu khác cũng cung cấp những thơng tin thú vị
về hình thức tổ chức quân đội, đặc biệt là thủy quân như Li Tana, Xứ Đàng
Trong- Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18, Nxb trẻ, năm 2004...
Bên cạnh đó, một số cơng trình về Hồng Sa – Trường Sa xuất bản gần
đây đề cập đến việc khẳng định chủ quyền của chúa Nguyễn tại đây như:
Nguyễn Quang Ngọc, Đội Hoàng Sa: cách thức thực thi chủ quyền độc đáo
của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa biển Đông trong các thế kỉ 17, 18
và đầu thế kỉ 19, Nghiên cứu Đông Nam Á, tháng 2/2012; Trần Nam Tiến
(2014), Đội Hoàng Sa trong lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo của
Việt Nam, Nxb Văn hóa và văn nghệ; Trần Đức Anh Sơn, Ngành đóng thuyền
và tàu thuyền ở Đàng Trong thế kỉ 17-18, Nghiên cứu lịch sử, số 7 năm
2014...Trong các công trình này, lực lượng thuỷ binh của Đàng Trong cũng ít
nhiều được các tác giả khảo cứu và cũng là nguồn tài liệu bổ trợ quan trọng
cho khóa luận.
Ngồi ra các ghi chép, nghiên cứu của những người ngoại quốc khi đến
Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài là nguồn sử liệu quý giá, cung cấp dữ liệu
mới mẻ mà mà khóa luận đã khai thác triệt để. Trong đó có nhiều ghi chép
liên quan đến quân đội, chính trị Đàng Trong, như: Thích Đại Sán, Hải ngoại

kỷ sự, Nxb Viện đại học Huế, năm 1963; Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong
năm 1621, Nxb Tp Hồ Chí Minh, năm 1998...
Tất cả những cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp một cái nhìn chi
tiết hơn, mới mẻ hơn về thủy quân Đàng Trong, từ đó làm nền tảng giúp tơi
có thể phân tích và làm rõ hơn chính sách phát triển lực lượng thủy quân của
chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ XVI- XVIII và các hoạt động khác mà
Chúa đã thực thi trên lãnh thổ của mình.

3


3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua những dữ liệu cứ thu thập được từ tài liệu, tôi đã tiến hành
phân tích, phân loại thơng tin và làm rõ chính sách tập trung phát triển thủy
quân của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Tìm hiểu rõ bối cảnh chính trị, nền
tảng vị trí địa lí, văn hóa nước bản địa và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú đã thúc đẩy chúa Nguyễn hoạch định và ban hành chính sách. Từ đó tiến
tới phân định và lí giải chính sách chúa áp dụng để xây dựng thủy quân Đàng
Trong từ khâu tuyển mộ lính, phân bổ, quản lí; đến việc luyện tập thao diễn
trong quân đội để hướng đến một đội quân tinh nhuệ. Đồng thời, việc Chúa đề
ra những biện pháp kỉ luật nghiêm minh nhằm giữ kỉ cương phép nước, quản
lí tốt lực lượng qn đơng đảo cũng được khố luận tập trung khảo cứu. Bên
cạnh đó, một số hoạt động dù chưa được hoạch định và ghi chép cụ thể nhưng
khóa luận cũng đã tập trung phân tích. Những hoạt động đó dù bất thành văn
nhưng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, vừa thể hiện sự tiến bộ trong tư tưởng
lãnh đạo của chúa Nguyễn vừa là tiền đề để những triều đại sau xây dựng
hoàn thiện hơn, đặc biệt trong vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cứu hộ
cứu nạn trên biển. Qua kết quả của q trình phân tích, khóa luận đã đưa ra
một số nhận định chung về những chính sách trên. Cuối cùng tác giả đã khảo
cứu một số trận đánh lớn của thủy quân Đàng Trong làm minh chứng để

người đọc có thể thấy rõ hơn hiệu quả của chính sách phát triển thủy quân của
chúa Nguyễn trong giai đoạn thế kỉ XVI-XVIII.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện bài nghiên cứu, tôi đã lựa chọn phương pháp khảo cứu tài
liệu để hiểu sâu hơn và nắm rõ hơn về vấn đề mình làm. Sau đó tơi hệ thống
lại chi tiết những yếu tố chính yếu cho bài nghiên cứu, để hình thành nên một
cái nhìn khái quát nhất về vấn đề. Bên cạnh đó, tơi cũng áp dụng các phương
pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp nghiên cứu liên ngành…

4


NỘI DUNG
Chương 1:
TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN Ở ĐÀNG TRONG
1.1. Đàng Trong trong bối cảnh khu vực thế kỉ XVI-XVIII
Cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI nhà Lê ngày càng khủng hoảng và
suy thoái, các vua Lê lần lượt là Lê Hiến Tông (1497-1505), Lê Uy Mục
(1505-1509) và Lê Tương Dực (1509-1516) đều không chú ý chăm lo triều
chính ăn chơi sa đọa. Nhân lúc tình hình chính trị hỗn loạn, thế lực của Mạc
Đăng Dung (1527-1530) là Thái phó kiêm tiết chế các doanh quân thủy bộ
thâu tóm tồn quyền lực phế truất vua Lê lên ngơi hồng đế năm 1527. Mặc
dù vậy những người ủng hộ triều Lê vẫn âm thầm chuẩn bị lực lượng chờ
ngày khôi phục quốc thống. Năm 1533, Lê Duy Ninh được tôn lên làm vua
lập lại triều Lê mà sử gọi là thời kỳ Lê trung hưng. Nhà Lê được khôi phục
tạo nên cục diện Nam – Bắc triều và cuộc chiến không cân sức giữa nhà Mạc
và nhà Lê trong suốt gần 50 năm.
Ngay từ khi cuộc chiến Nam Bắc triều đang cịn tiếp diễn thì trong nội
bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống chia rẽ. Sau khi Nguyễn Kim bị sát hại

(năm 1545), vua Lê trao mọi quyền bính cho Trịnh Kiểm (con rể của Nguyễn
Kim). Để củng cố thế lực của mình, Trịnh Kiểm tìm mọi cách loại bỏ ảnh
hưởng của nhà Nguyễn. Con trai trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông bị
Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Nguyễn Hồng thơng minh lanh lợi, lập nhiều
cơng trạng càng làm tăng thêm mối e ngại cho Trịnh Kiểm. Bởi vậy, Nguyễn
Hồng khó tránh khỏi nghiệp sát thân. Nắm rõ được tình hình, ơng đã âm
thầm nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ vùng
đất Thuận Hóa. Trịnh Kiểm xét thấy rằng, đây là vùng đất vơ cùng hiểm trở
và khó khăn không đáng lo ngại, cũng là cơ hội để loại trừ ảnh hưởng của
Nguyễn Hồng nên đã đồng tình phê chuẩn. Đoan quốc cơng Nguyễn Hồng
vái tạ trở về phủ, cùng với các cơng tử Thái bảo Hịa quận công, Thụy quận
5


công và các tướng Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc ngay
ngày hơm ấy đem một nghìn qn thủy ra cửa biển nhằm theo hướng hai xứ
Thuận, Quảng mà tiến. Chiến thuyền tiến thẳng vào cửa Yên Việt đóng quân
trên bãi cát nổi thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương. Nguyễn Hoàng mật sai
quân đi khắp các huyện từ Vũ Xương đến Hương Trà xem xét địa thế. Quân
của Chúa thấy ở xã Phú Xuân huyện Hương Trà núi sơng vịng tụ, cảnh đẹp
dân giàu, bèn trở về bẩm báo, Đoan quốc công rất mừng, nghĩ cách thi hành
đức chính để vỗ về dân chúng.
Sự ra đi của Nguyễn Hồng như lịch sử đã cho thấy khơng phải chỉ để
bảo tồn tính mạng mà cịn là thực hiện bước mở đầu cho một chiến lược lâu
dài xây dựng lực lượng chống lại họ Trịnh, đất Thuận Hóa đã trở thành nơi
dấy nghiệp của họ Nguyễn. Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, con là
Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) lên thay. Nguyễn Phúc Nguyên là con trai
thứ sáu của chúa Nguyễn Hoàng. Tuy cịn trẻ tuổi nhưng có tài chí cao, sớm
đã được cha tin tưởng giao phó cơng việc. Nguyễn Phúc Nguyên tiếp tục sự
nghiệp của cha, tăng cường sức mạnh kinh tế, quân sự, mở rộng lãnh thổ về

phía Nam và khuyến khích di dân lập ấp. Năm 1627, mâu thuẫn giữa nhà
Nguyễn và nhà Trịnh càng gay gắt. Nhận thấy rằng họ Nguyễn có ý muốn li
khai, khơng chịu nạp thuế như trước nữa, chúa Trịnh mang quân đi đánh họ
Nguyễn. Sự kiện này chính thức mở đầu cho thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân
tranh kéo dài 45 năm (1627-1672) trong lịch sử và cũng chính thức đánh dấu
sự chia tách hoàn toàn Đàng Trong - Đàng Ngoài. Năm 1744, Nguyễn Phúc
Khoát – vị chúa cuối cùng của Đàng Trong xưng vương cũng là lúc Đàng
Trong rơi vào tình trạng suy thối. Như vậy trong vịng hơn 200 năm, Đàng
Trong đã trải qua 9 đời chúa Nguyễn cầm quyền, khởi đầu là chúa tiên
Nguyễn Hoàng (1558-1613) và tiếp đến là các đời chúa kế vị: Nguyễn Phúc
Nguyên (1613-1635), Nguyễn Phúc Loan (1635-1648), Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687), Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), Nguyễn Phúc Chu (16911725), Nguyễn Phúc Chú (1725-1738), Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Tuy
6


chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn nhưng chính quyền họ Nguyễn ở
Đàng Trong đã để lại nhiều bài học vàng son trong lịch sử dân tộc về kinh tế,
chính trị.
Khi mới vào Thuận Hóa, Thái tổ Nguyễn Hồng đóng ở dinh Ái Tử.
Dinh có nghĩa là chỉ một đạo quân, cũng dùng làm tên gọi một đơn vị hành
chính trong suốt thời chúa Nguyễn và cho đến cả thời Gia Long sau này.
Dinh được cai quản bởi các quan võ gọi là chưởng dinh hay trấn thủ, các cơ
quan chính quyền trung ương của xứ Thuận Hóa đều ở đó. Sau đó, trong q
trình Nam tiến mở rộng lãnh thổ đời Chúa Hi Tông (chúa Nguyễn Phúc
Nguyên) lãnh thổ Đàng Trong chia làm 12 dinh và 1 trấn: Dinh Bố Chính tục
gọi là dinh Ngói (ở làng Thổ Ngõa, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình), dinh
Quảng Bình (nay là Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy Quảng Bình), dinh Lưu
Đồn (tục gọi là dinh Mười, ở làng Võ Xá, huyện Khương Lộc), cựu dinh ở Ái
Tử, Chánh dinh, dinh Quảng Nam, dinh Bình Khương, dinh Bình Thuận, dinh
Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, dinh Long Hồ và trấn Hà Tiên.

1.2. Tiền đề phát triển thủy quân ở Đàng Trong
1.2.1. Đặc điểm vị trí địa lý
Vị trí địa lý cũng góp phần lí giải lí do vì sao chúa Nguyễn lại tập trung
phát triển một lực lượng thủy quân hùng mạnh. Vùng đất Đàng Trong mà
Chúa trị vì, cho đến thế kỉ XVII là toàn bộ vùng đất rộng lớn bao gồm Nam
Trung Bộ và Nam Bộ của nước ta hiện nay, vì thế mà được coi như một quốc
gia riêng biệt, độc lập với xứ Đàng Ngoài. Những điều này đã được
Cristophoro Borri1 nghiên cứu và tường thuật lại rất mạch lạc, rõ ràng và cụ
thể: “Xứ này, về hướng Nam giáp vĩ tuyến 11, về hướng Bắc, xế về Đơng Bắc,
giáp xứ Đàng Ngồi, về hướng Đơng, có biển Đông và về hướng Tây, xế về
Tây Bắc, giáp nước Lào”2. Khơng chỉ vậy, theo Borri vùng đất này cịn có
một vị trí đặc biệt quan trọng đối với các nước láng giềng của Đàng Trong:
Cristoforo Borri là một giáo sĩ Dòng Tên, người Ý, đã đến Đàng Trong truyền giáo những năm đầu thế kỷ
XVII.
2
Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.12.
1

7


“Cịn trong các bản đồ của thế giới thì xứ này như là cửa vào và là khởi đầu
của Trung Quốc”3.
Có thể thấy, điều kiện địa lý liên quan đến việc phát triển lực lượng thủy
quân của Đàng Trong có nhiều khác biệt so với Đàng Ngoài. Vùng đất của
Chúa Nguyễn là một vùng đất trù phú với nhiều tiềm năng. Đây là một vùng
đất mới, hẹp ngang, nhưng trải dài, nằm giữa núi và biển. Phía Tây của Đàng
Trong là dãy núi Trường Sơn phủ đầy rừng rậm trải dài xuống phía Nam. Đây
cũng chính là nơi khởi nguồn của các con sông chảy từ Tây sang Đông chia cắt
lãnh thổ Đàng Trong. Phía Đơng là đường bờ biển trải dài với nhiều hải cảng.

Do sự ăn sâu của núi nên có những nơi núi và biển gặp nhau tại một điểm.
Đàng Trong cũng được biết đến với ba vùng tự nhiên khác nhau. Hai vùng đầu
có những đồng bằng tương đối rộng nên rất phù hợp để phát triển nơng nghiệp,
đó là vùng Quảng Nam với sự bồi đắp của sơng Thu Bồn diện tích khoảng
1.800 cây số vng, vùng thứ hai là đồng bằng Bình Định ngày nay, có diện
tích khoảng 1.550 cây số vng, và vùng thứ ba ở giữa có rất nhiều thung lũng.
Như đã đề cập ở trên, phía Tây là địa hình núi cao hiểm trở chạy theo hướng
tây đông, ăn sát ra biển, tạo ra địa hình bị chia cắt với nhiều thung lũng, khiến
đường bộ đi lại cũng rất khó khăn. Để di chuyển từ phủ này sang phủ khác,
phương tiện nhanh chóng và thuận tiện nhất chỉ có thể bằng thuyền. Đến thế kỉ
thứ XVII, giao thông ở Đàng Trong chủ yếu vẫn là đường thủy, Thiền sư thích
Đại Sán khi đến đây vào thế kỉ XVII đã cho biết: “các phủ đều khơng có đường
lối thơng nhau, mỗi phủ đều do một cửa biển đi vào, nếu đi từ phủ này sang
phủ khác tất do đường biển”4 [6,tr.132].
Đàng Trong cũng được biết đến là vùng đất có hệ thống sơng ngịi kênh
rạch chằng chịt. Có nhiều sơng và hệ thống sông lớn chảy qua lãnh thổ của
chúa Nguyễn: Hệ thống sông Bến Hải - Thạch Hãn (Quảng Trị), sông Hương
(Thừa Thiên Huế), hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn (Quảng Nam), hệ thống
3
4

Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr.14.
Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Nxb Viện đại học Huế, năm 1963, tr.132.

8


sơng Kone - Hà Thanh (Bình Định), Sơng Ba (Tây Ngun), hệ thống sơng
Cái Nha Trang và Dinh Ninh Hịa (Khánh Hịa).... Những hệ thống sơng này
khơng chỉ cung cấp nguồn nước dồi dào cho phát triển nông nghiệp, là hệ

thống giao thơng vận tải chính mà cịn là một hệ thống giao thơng hào giúp
cho việc phịng thủ thêm kiên cố.
Để tiện cho việc đi lại bằng đường thuỷ, bên cạnh những con sông lớn,
chúa Nguyễn đã cho xây thêm nhiều con kênh. Các Chúa đã đích thân chỉ đạo
việc đào và nạo vét các con sông nhằm lấy nước tưới tiêu và tạo ra các tuyến
đường lưu thông. Chẳng hạn, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648- 1687) đã cho
đào và nạo vét các kênh như: Kênh Hồ Xá (thuộc huyện Vĩnh Linh- tỉnh
Quảng Trị), kênh Trung Đan ở huyện Minh Linh (tháng 5 năm 1681), kênh
đào Mai Xá (tháng 8 năm 1681), khai kênh Hà Kỳ (tháng 11 năm 1686)5 từ
Cầm Phô (Vĩnh Linh) cho thông nước với sông Minh Lương (Gio Linh) từ đó
thuyền bè đi lại dễ dàng. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) cũng có nhiều
chính sách tiếp tục hoạt động mở rộng giao thông đường thủy6.
Có thể thấy vị trí địa lý đóng vai trị rất lớn trong việc phát triển thủy
quân ở Đàng Trong. Bờ biển dài và địa hình cắt xẻ dẫn đến hướng phát triển
thủy quân ở Đàng Trong khác so với Đàng Ngoài, thủy quân Đàng Trong
phát triển mang thiên hướng hải quân (hướng biển) hơn là thủy quân nội thủy
ở Đàng Ngồi.
Bên cạnh một vị trí địa lý thuận lợi, Đàng Trong còn là một vùng đất
giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng. Do là vùng đất thưa
dân, nên hầu hết tài nguyên rừng vẫn còn ngun vẹn với nhiều lồi gỗ q,
bền chắc thích hợp để đóng thuyền, kết bè. Và cũng vì ảnh hưởng của vị trí
địa lý là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa nước lâu đời như Champa, Mã
Lai đã tạo nên những nét đặc sắc trong văn hóa nước ở Đàng Trong thể hiện
Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (tập 1), Viện khoa học và xã hội Việt Nam- Viện sử
học, Nxb Giáo dục, tr.82-92-93.
6
Nguyễn Thị Hải, Chính sách nội thương của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 9(94), năm 2015, tr.7.
5


9


rõ nét qua các loại thuyền bè và kĩ nghệ đóng thuyền; nhìn chung thuyền
Đàng Trong thích hợp để đi biển hơn là Đàng Ngồi.
1.2.2. Kỹ nghệ đóng thuyền
Khi nghiên cứu về ngành đóng thuyền Đàng Trong ta có thể thấy được
4 yếu tố quan trọng đã thúc đẩy sự phát triển của nó: 1. Đặc điểm địa hình và
q trình khai thác mở rộng lãnh thổ; 2. Nhu cầu về chiến tranh và bảo vệ
lãnh thổ; 3. Nhu cầu về sự phát triển kinh tế. 4. Có nguồn tài nguyên gỗ
phong phú, chất lượng cao phục vụ cho việc sản xuất tàu thuyền. Trong bài
nghiên cứu này chúng tôi chủ yếu nhấn mạnh đến nhu cầu về phục vụ chiến
tranh và quá trình khai thác, bảo vệ lãnh thổ.
Trong suốt thời gian tồn tại của Đàng Trong, các chúa Nguyễn đều chú
trọng phát triển ngành đóng tàu thuyền - một trong những ngành mũi nhọn
của quốc gia. Việc đóng, sử dụng tàu thuyền của người Việt vào nhiều mục
đích khác nhau đã có từ rất sớm. Ngồi là phương tiện đi lại, chun chở hàng
hố, hình ảnh những chiến thuyền cũng xuất hiện nhiều trong các trận thuỷ
chiến trong lịch sử7. Thế kỷ XV, Đại Việt sử kí tồn thư chép, mỗi thuyền
được trang bị một khẩu hỏa khí, 10 súng lớn và 10 súng hạng trung, 80 súng
hạng nhỏ. Việc bố trí khí giới cho thấy rằng số lượng binh lính trên thuyền
khá đơng và đã có sự phân công qua cách sử dụng các loại súng. Năm 1465,
Lê Thánh Tông đã ban hành 9 phép thủy trận và 31 quân lệnh về thủy trận.
Những bằng chứng trên chính là cơ sở lí giải tại sao thuyền lại có vai trị quan
trọng trong qn đội và những bài học về thủy quân của các triều đại trước
cũng là tiền đề giúp hoàn thiện hơn lực lượng thủy quân Đàng Trong.
Liên quan đến nghề đóng thuyền thì một trong những chính sách quan
trọng nữa của Chúa Nguyễn là chính sách “công tượng”. Để phát triển các
ngành nghề thủ công, Chúa đã tuyển hàng trăm thứ thợ vào quân đội để đảm
nhiệm những nhu cầu của nhà nước đương thời, đặc biệt là việc chế tạo vũ khí,

Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm, Nxb
Quân đội nhân dân, tr.231.
7

10


đóng sửa tàu thuyền và nhu cầu của việc xây cất nhà cửa. Theo phản ánh trong
các hồi kí của người nước ngoài từng đến Đàng Trong các thế kỉ XVII- XVIII,
ngành đóng thuyền ở Đàng Trong là một ngành độc quyền của nhà nước, do
các chúa Nguyễn đích thân kiểm sốt chỉ đạo. Chúa rất chú trọng đến ngành
đóng tàu, trước là để phục vụ nhu cầu đi lại do điều kiện địa hình, sau là để
phục vụ cho quân đội. Mục đích của Chúa là xây dựng một lực lượng thủy
quân hùng mạnh để chiến đấu với thủy quân họ Trịnh và đồng thời là việc
phòng thủ bờ biển, đảm bảo an ninh trước các thế lực ngoại bang xâm lấn.
Các vị chúa Nguyễn vừa là người ra lệnh đóng thuyền vừa là kĩ sư
trưởng chỉ huy mọi hoạt động liên quan đến việc đóng thuyền. J.Barrow, một
nhà buôn người Anh đã đến Đàng Trong trong 2 năm 1792-1793, đã ghi lại
trong hồi kí của mình: “Chúa là người quản đốc các cảng, nhiều kho binh khí,
kĩ sư trưởng của xưởng đóng thuyền. Trong cơng việc đóng thuyền thì khơng có
một cái đinh nào đóng xuống mà khơng xin ý kiến của chúa Nguyễn trước
tiên”. Như vậy, các xưởng đóng thuyền của Đàng Trong đều do nhà nước quản
lí. Thợ đóng thuyền được huy động từ nhiều địa phương trong nước, tùy thuộc
vào thế mạnh nghề nghiệp của họ: “thợ xẻ ở xã Duy Đức là thạo nhất. Thợ
đóng thuyền người Động Hải và Cừ Hà quen đóng thuyền to, các xã huyện
Khang Lộc và huyện Lệ Thủy đều có thợ, hay đóng thuyền nhỏ để chở đồ buôn
bán”8. Những người thợ thủ công này sau khi trưng tập về Phú Xuân, được
biên chế vào các ti, đội chuyên trách việc đóng thuyền như: Ti thợ đóng
thuyền, ti thợ mộc thuyền chuyên lo xẻ ván để phục vụ việc đóng thuyền, ti thợ
làm đinh sắt, ti thợ làm mái chèo, ti thợ làm buồm, ti thợ hóa luân chun đóng

tàu thủy cỡ lớn9.... Chính sách của Chúa đã đáp ứng được nhu cầu của quân sự
trong giai đoạn đầu, khi tận dụng được nguồn nhân lực đã có kĩ năng cơ bản về
sông nước để phát triển ngành đóng thuyền thành một ngành mũi nhọn.
Trần Đức Anh Sơn, Ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Đàng Trong thế kỉ 17-18, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 7 năm 2014, tr,43.
9
Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, dẫn lại Trần Đức Anh Sơn, Ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Đàng Trong
thế kỉ 17-18, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7, năm 2014, tr,43.
8

11


Ngành đóng thuyền phát triển thành một ngành mũi nhọn, đã cung cấp
khơng chỉ cho qn đội mà cịn phục vụ cho sinh hoạt và phát triển kinh tế
một số lượng lớn thuyền chuyên dụng, cả về số lượng và chất lượng thuyền.
Để đạt được thành tựu như vậy là sự nỗ lực của quân và dân xứ Đàng Trong,
đồng thời cũng có sự đóng góp quan trọng của tài nguyên thiên nhiên đặc biệt
là một nguồn lâm sản dồi dào.
Đàng Trong nằm trong hệ sinh thái phổ tạp, đất đai phì nhiêu đã cung
cấp một lượng lớn lâm sản phục vụ cho nhu cầu của nhà nước. Một thương
nhân người Pháp khi đến Đàng Trong đã nhận định về sự phong phú nguồn
tài nguyên rừng của Đàng Trong như sau: “Đàng Trong tràn ngập những
ngọn núi, phong phú với những loại gỗ xây dựng và những loại khác thích
hợp cho sản xuất đồ dùng...”10. Trong rừng có vơ vàn loại gỗ có thể khai thác
phục vụ cho nhu cầu làm các vật dụng của Đàng Trong trong đó có cả thuyền
chiến như: gỗ hoa lê bền không mọt thường dùng làm rương hòm, bàn ghế,
vật dụng; gỗ hồng, gỗ giáng hương keo, gỗ kiền kiền cứng bền chôn dưới đất
lâu năm không hư.... Tuy các loại gỗ rất phong phú dễ dàng cho việc khai
thác, nhưng do điều kiện địa hình hiểm trở, khó để vận chuyển, nên Chúa đã

tập hợp một lực lượng đông đảo phục vụ cho việc khai thác gỗ và vận chuyển
về Phú Xuân. Năm 1729, chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) cho lập đội
mộc than ở Trường Đúc gồm 195 người, chuyên khai thác gỗ đóng thuyền
đem về nộp cho phủ Chúa. Họ được miễn thuế thân và miễn lao dịch, nhưng
hàng năm phải đi tìm kiếm, khai thác và nộp đủ số gỗ theo định mức. Chúa
cịn cử người vào tận vùng Quang Hóa (nay thuộc huyện Trảng Bàng- Tây
Ninh) để khai thác các loại gỗ tốt trở về Phú Xuân đóng thuyền11.
Nhờ việc khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên lâm sản, việc cung
cấp gỗ cho ngành đóng thuyền được ổn định, việc đóng thuyền của Chúa diễn
Dẫn theo Vũ Thị Xuyến, Các nguồn và thương phẩm Đàng Trong thế kỉ XVI-XVIII, Luận văn thạc sĩ, năm
2014, tr.85.
11
Trần Đức Anh Sơn, Ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Đàng Trong thế kỉ 17-18, Nghiên cứu lịch sử, số
7 năm 2014 , tr.42.
10

12


ra thuận lợi và phát triển với quy mô lớn, kích thước thuyền cũng dần được
tăng lên, chất lượng thuyền được đảm bảo. Bên cạnh đó kĩ thuật đóng thuyền
của Đàng Trong cũng dần được nâng cao.
Khơng có tư liệu nào ghi chép cụ thể về cách thức đóng thuyền chiến
của Đàng Trong sử dụng loại gỗ nào để đóng thuyền, có lẽ đây là bí mật qn
sự nên khơng được tiết lộ. Chỉ có những nhận định về thuyền Đàng Trong nhẹ
nên di chuyển rất linh hoạt nên có thể phỏng đoán Đàng Trong sử dụng những
loại gỗ bền chắc và nhẹ để đóng thuyền. Và điều này cũng được áp dụng đối
với thuyền của dân binh. Theo Trần Nam Tiến, thuyền của đội Hồng Sa thì
có mê hay đáy dưới đan bằng tre rồi quét cứt trâu, để khơ và phủ lớp dầu rái
sau cùng, phía trên thành thuyền làm bằng gỗ trị, có ba cột buồm bằng gỗ

kiền kiền, các bộ phận không quan trọng như các then thì làm bằng gỗ mù u,
cánh buồm đan bằng lá và các vật dụng khác trên thuyền hầu như cũng làm
bằng tre hoặc gỗ. Thuyền của đội Hoàng Sa là một kiểu thuyền chài truyền
thống, còn thuyền chiến của nhà nước tuy bắt nguồn từ việc đóng thuyền của
các địa phương, nhưng là tập hợp được điểm mạnh của các địa phương lại để
đóng thành chiếc thuyền hồn chỉnh, bởi vậy thuyền có chất lượng tốt hơn và
kĩ thuật vượt trội hơn.

Hình vẽ mơ phỏng lại thuyền của đội Hồng Sa
(Ảnh do tác giả tự vẽ, phỏng theo hình vẽ của Nguyễn Nhã)

13


Có lẽ vì thế nên kĩ thuật đóng thuyền của Đàng Trong cũng được đánh
giá khá cao về độ tỉ mỉ và trau truốt, điều này cũng thể hiện được sự thành
thạo của những người thợ đóng tàu. John Barrow, một người Anh đến Đàng
Trong vào những năm 1792-1793 đã miêu tả tỉ mỉ kỹ nghệ đóng thuyền của
người Đàng Trong như là một trong những nghề mà họ thành thạo nhất. Ông
nhấn mạnh đến kỹ thuật chia đáy thuyền thành các khoang khác nhau và vì
thế thuyền sẽ khơng bị chìm dù va phải đá ngầm. Theo J. Barrow, kỹ nghệ
đóng thuyền này thậm chí đang được áp dụng cho hải quân của hoàng gia
Anh. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đóng thuyền ở Đàng Trong một phần là
để phục vụ cho hoạt động thương mại, nhưng phần lớn là do nhu cầu của các
cuộc chiến tranh. Kĩ thuật đóng thuyền từng bước được nâng cao và khơng
ngừng cải tiến. Bên cạnh những kĩ thuật sẵn có của địa phương, Chúa cũng đã
kết hợp với một số kĩ thuật học hỏi từ phương Tây để cải tiến thêm về mẫu
mã, kích thước và dần phù hợp hơn tính chuyên dụng của thuyền. Vào khoảng
thế kỉ XVII, nhiều nhận định cho rằng tuy số thuyền do người Đàng Trong
đóng khơng nhiều bằng Đàng Ngồi nhưng chất lượng kĩ thuật không hề thua

kém. Chiến thuyền ở cả hai Đàng đều có cùng kích thước, cịn về trình độ
đóng thuyền cũng như trang bị vũ khí trên thuyền của Đàng Trong cũng được
đánh giá cao hơn. Ngồi ra Đàng Trong cịn đóng thuyền theo kiểu châu Âu
nhưng có kích thước và hình dáng khác hơn. Số thuyền châu Âu trong đội
quân Đàng Trong có thể là do chúa Nguyễn mua lại của thương nhân châu
Âu, nhưng cũng rất có thể Đàng Trong tự đóng những thuyền này, dựa trên
mơ hình thuyền của châu Âu. Bởi lẽ, Chúa Nguyễn đã từng cho người trục
vớt hai con tàu Eulden Buis và Maria de Madicis của Hà Lan bị đắm ở đảo
Champelo (Cù Lao Chàm) tháng 11 năm 1641. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại
trục vớt hai chiếc thuyền này? Thứ nhất, hai chiếc thuyền này có lẽ chứa
nhiều hàng hóa mà người Hà Lan đã thu mua được hoặc có cả vũ khí vẫn cịn
bên trong tàu, trục vớt tàu có thể sẽ thu được những đồ vật quý giá (vì mục
đích kinh tế). Thứ hai, Hà Lan giai đoạn này là một quốc gia nổi tiếng về hải
14


quân hùng mạnh, tàu của họ có thể đi biển dài ngày, chứa được số lượng lớn
binh lính. Chúa có thể tận dụng cơ hội này để học hỏi thêm kinh nghiệm đóng
tàu và thiết kế tàu theo kiểu Châu Âu (mục đích chính trị).
Ngồi việc đóng thuyền mới, các cơng xưởng đóng thuyền của các chúa
Nguyễn phải đảm trách cả việc tu sửa tàu thuyền theo định kì. Hàng năm,
Chúa sai Bộ Công và các tiểu đội sai đi khám thuyền, đánh giá mức độ hư
hỏng theo từng hạng ngạch và định ra mức tiền cần phải đầu tư để tu sửa các
hạng thuyền hư hỏng, rồi cho dựng xưởng để tu sửa.
Nhờ sự nỗ lực của mình, qua các đời Chúa số lượng thuyền không
ngừng tăng, các xưởng đóng thuyền cũng được thành lập với quy mơ ngày
càng lớn. Vào năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần đã có 133 chiến thuyền do
các xưởng trực thuộc phủ chúa đóng. Địa điểm các xưởng đóng tàu thuyền
đều tập trung ở đôi bờ sông Hương (Phú Xuân), nhưng xưởng lớn nhất của
Chúa lại nằm ở sông Thu Bồn trên đất Quảng Nam. Một nhân chứng người

Anh Thomas Bowyear, khi đến Đàng Trong năm 1695 đã nhận thấy rằng lực
lượng thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Chu gồm: “200 chiến hạm, mỗi chiếc
có từ 16-22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40-44 tay chèo. 100 chiến
thuyền lớn từ 50-75 tay chèo, 3 chiếc của người Âu các thuyền chiến trên đều
do phủ của Chúa đóng. Xưởng đóng tàu Hà Mật có tới 4000 thợ và đóng được
những chiến thuyền trọng tải đến 400 tấn”12. Alexandre de Rhodes từng nhận
định thuyền của chúa Đàng Trong rất có thể lên tới con số ít ra hai trăm và
chúa Đàng Ngồi có thể có gấp ba hay bốn lần, nên người ta đốn có tới năm
hay sáu trăm thuyền chiến Đàng Ngồi. Mà thuyền Đàng Trong cũng chẳng
thua kém về kích thước rộng lớn, về vũ khí và về trang trí.
Mặc dù đánh giá cao kỹ thuật đóng thuyền của Đàng Trong, nhưng vốn
xuất thân từ những quốc gia có nền hải quân phát triển sớm, nên người Châu
Âu vẫn cho rằng những đội thuyền của Đàng Trong chỉ hoạt động sát bờ biển,
Dẫn lại trong Nguyễn Văn Đăng, Truyền thống đóng tàu thuyền của cư dân Quảng Nam: Một sắc thái nổi
bật của văn hóa biển miền Trung, Nghiên cứu- trao đổi, Phát triển kinh tế- xã hội Đà Nẵng.
12

15


mà chưa có nhiều thuyền hoạt động ngồi khơi xa. Tuy nhiên ở mặt nào đó,
điều này cũng cho thấy thủy qn Đàng Trong, khơng cịn đơn thuần là thủy
binh nội thủy, mà đã có thiên hướng hải quân, điều này đã vượt lên hẳn Đàng
Ngoài. Chiến thuyền của Đàng Trong được trang hoàng lộng lẫy, được khảm
vàng và bạc, theo như ghi chép của C.Borri, hiệu năng sử dụng của thuyền
Đàng Trong cao hơn. Mỗi thuyền đều được trang bị 6 súng thần công và
nhiều súng hỏa mai. Theo C. Borri thì lúc nào Đàng Trong cũng có hơn 100
thuyền được trang bị vũ khí đầy đủ và sẵn sàng xung trận. Khơng giống như
Đàng Ngồi thuyền chiến được dùng cả vào việc đàn áp các cuộc nổi dậy hay
truy bắt tội phạm, với Đàng Trong thuyền chiến chỉ để dùng cho việc đánh

trận ngoài biển. Tất nhiên, các nhà du hành phương Tây đều cho rằng thuyền
chiến của cả Đàng Ngồi và Đàng Trong đều khơng thể so sánh được về độ
lớn cũng như uy lực tấn công so với các thuyền châu Âu thời bấy giờ13.
Đến cuối thế kỉ XVII, so sánh tương quan lực lượng về thủy qn giữa
Đàng Trong và Đàng Ngồi nhìn chung là ngang nhau; điều này được
Alexandre de Rhodes công nhận. Cần phải chú ý rằng, xuất phát điểm của lực
lượng thủy quân Đàng Trong là rất thấp, cả về số lượng thuyền, lẫn binh lính
và trang bị vũ khí. Tuy nhiên, với quyết tâm trở thành một thế lực chính trị
độc lập có thể đối chọi lại Đàng Ngồi và mở rộng lãnh thổ về phía Nam, các
chúa Nguyễn khơng ngừng phát triển lực lượng, để vào năm 1672 nhà Trịnh
đã đồng ý ký thỏa hiệp ngừng chiến, chấp nhận Đàng Trong như là một thế
lực chính trị độc lập. Sau cuộc nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài kết thúc,
nhà Trịnh ở phía Bắc khơng cịn chú tâm phát triển lực lượng thủy quân nữa
mà tận dụng thời gian yên bình để phát triển kinh tế. Có lẽ vì thế mà hơn chục
năm sau cuộc nội chiến khi William Dampier đến Đàng Ngồi ơng chỉ thấy
các thuyền chiến của nhà Trịnh rất sơ sài và chỉ đóng chức năng vận chuyển
binh lính là chính mà thơi.
Phạm Văn Thủy, Thủy qn Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX: Qua các nguồn sử liệu phương Tây
(trong sách: Nguyễn Văn Kim (Cb.), Người Việt với biển, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012, tr 148.

13

16


Ngược lại, chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tích cực sắm thêm thuyền
chiến, phát triển hải quân. Điều này xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lãnh thổ khỏi
sự xâm phạm từ phía Bắc là nhà Trịnh, bảo vệ an ninh vùng biển tạo thuận lợi
cho hoạt động thương mại phát triển và quan trọng hơn là mở rộng lãnh thổ
xuống phía nam. Nhận định này tương đối phù hợp với quan sát của Choisy

đến Đàng Trong năm 1685. Choisy đã ghi chép sự phân bố lực lượng thủy
quân của chúa Nguyễn như sau: “Ngoài các chiến thuyền của Hoàng gia, các
trấn thủ của ba dinh chính trong vương quốc, nơi đó có hàng hải tốt, đều có
chiến thuyền trấn thủ. Dinh Cát ở biên giới giáp với Đàng Ngoài có 30 chiếc;
trấn thủ Dinh Chiêm có 17 chiếc, trấn thủ Dinh Niaroux (Phan Rang) có 15
chiếc”. Các Dinh Cát, Dinh Chiêm và Dinh Niaroux ở đây đại diện cho cả ba
vùng chiến lược trong chính sách phát triển và mở rộng thế lực của chúa
Nguyễn trong suốt thế kỷ XVIII.14

14

L.Cacdiere (2003), Những người bạn cố đô Huế, tập 16, năm 1929, tr. 266.

17


Chương 2:
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG THẾ KỈ XVI- XVIII
2.1. Phép duyệt, tuyển
2.1.1 Phép tuyển binh
Trong quá trình trị vì xứ Đàng Trong, các vị chúa Nguyễn đã không
ngừng mở mang bờ cõi, chính sự rộng mở. Bên cạnh đó Chúa cịn đề ra nhiều
chính sách xây dựng quân đội hùng mạnh, tạo tiền đề, cơ sở để Chúa giữ
vững nền độc lập. Đàng Trong là một vùng đất mới, cơ cấu làng và dân cư
thay đổi liên tục bởi chính sách di dân định cư. Chính bởi vậy việc kiểm sốt
và quản lí dân số là một vấn đề vơ cùng khó khăn. Điều duy nhất mà nhà
nước có thể quản lí được số lượng chính xác chính là quân đội. Bởi vậy,
chính sách tuyển quân chính là bước đệm quan trọng cho việc xây dựng quân
đội cũng như việc kiểm soát dân cư. Các chúa Nguyễn thường xuyên đốc thúc

việc tuyển quân để biên chế cho các hạm đội. Ngay từ năm 1632, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã đề ra phép “duyệt tuyển”, chia dân ra từng hạng để
đánh thuế và tuyển quân15. Việc tuyển quân dưới thời các chúa Nguyễn được
tiến hành thường xuyên và ổn định. Quân chế được quy đinh chặt chẽ và có
tính kỉ luật cao. Thơng thường chính sách tuyển qn chỉ áp dụng cho đội
qn chính quy, thuộc biên chế của triều đình, ngồi ra việc tuyển mộ thổ
binh16 thường được diễn ra theo hướng chiêu mộ sự tự nguyện của dân chúng.
Nhà nước đề cao củng cố quân đội về cả chất lượng và số lượng. Để
tăng số lượng binh lính, Chúa thực hiện chủ trương xung dân vào quân đội
với mong muốn xung được càng nhiều dân tham gia càng thuận tiện cho việc
quản lí và đảm bảo xây dựng quân đội mạnh. Họ tuyển đủ các loại dân thuộc
các loại ngành nghề khác nhau vào quân đội. Bởi vậy Đàng Trong xuất hiện
Trần Thuận, Thủy binh chúa Nguyễn với việc bảo vệ chủ quyền, khai thác nguồn lợi biển đảo trên biển
Đơng, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 16, số X3- 2013, tr.63.
16
Thổ binh hay còn gọi là quân địa phương, tạm binh hay thuộc binh. Đây là lực lượng đóng tại các địa
phương, thường tuyển người dân tại địa phương làm nhiệm vụ theo hình thức bán quân sự.
15

18


thuật ngữ “quân nhân” chính là để chỉ chính sách này. Ở Đàng Trong không
thể tách dời quân và dân. Để thực hiện được mục đích các chúa Nguyễn chú
trọng thực thi chính sách cơng tượng. Nhà nước trưng tập đội ngũ gồm những
thợ thủ công lành nghề từ các địa phương, đưa về Phú Xuân biên chế thành
đội ngũ như binh lính để đảm nhiệm việc chế tạo vũ khí, đóng tàu thuyền và
làm những cơng việc sửa chữa, phục vụ nhà nước và quân đội. Đưa những
người như vậy vào quân đội, nhà Nguyễn đã phần nào đáp giải quyết được
nhu cầu của mình cho dù hiệu quả kinh tế cịn nhiều yếu kém thuở sơ khai17.
Thích Đại Sán một nhà sư Trung Quốc đến Đàng Trong vào năm 1695 đã ghi

lại trong tập hồi kí Hải ngoại kỉ sự rằng trong nước, trăm thứ thợ đều do quân
làm18. Quân đinh khi được tuyển về từ các làng sau thời gian huấn luyện sẽ
được phân bổ vào những ngạch, thuyền khác nhau và mỗi người sẽ được theo
chuyên một nghề.
Cũng theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, cách thức định xã đinh sẽ
dựa vào kết quả sổ binh đã được thực hiện từ trước đó. Hằng năm cứ tháng 8,
thuyền nào có người trốn hay bị thải thì phải báo rõ cho quan sai để trình báo
để quan quân truy xét và định người thay thế, giao cho sai nhân điệu về. Đến
tháng 4 năm sau sẽ tiến tra số lính trốn của các thuyền, mỗi thuyền bao nhiêu
làm sổ để biết nhiều ít. Các cơ đội Chính dinh và dinh cứ theo ngạch binh lấy
họ tên quê quán mà suy ra số binh, chiếu xa gần mà cấp về bản xã, gọi là hàng
xã. Quan quân đến hạn về các xã tuyển lính chỉ dựa vào sổ đinh mà xét mà
chia hạng đinh để tuyển theo quy định. Việc kiểm sốt số binh lính thường
xun sẽ đảm bảo việc tuyển lính diễn ra nhanh gọn, cũng như việc kịp thời
tuyển dân đinh phù hợp để bổ sung vào các hạm đội.
Có thể thấy, việc tuyển mộ lính diễn ra theo quy chế định quân của
Đàng Trong rất rõ ràng và quy củ. Các quy định đưa ra rất chi tiết và dựa vào
đúng đặc tính dân cư của đất nước. Dân cư ở Đàng Trong ngoài dân cư bản
17
18

Li Tana (2004), Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18, Nxb trẻ tr.65.
Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, sđd, tr.22.

19


địa cịn có dân di cư, dân ngụ cư từ nơi khác đến nên rất khó kiểm sốt về số
lượng, việc hoạch định chính sách cũng phải dựa vào đặc tính động của dân
cư để ban hành. Bởi vậy nếu là dân mới di cư đến định cư thì sẽ được khoan

thư miễn 3 năm quân để yên nghiệp làm ăn, sau khi hết kì hạn quan quân mới
được phép bắt bớ tuyển quân. Những người già nua, neo đơn cũng khơng
được phép bắt lính. Nhà có 2 con trai thì chỉ bắt lính một người (hầu như là sẽ
cử con thứ đi lính vì con trưởng sẽ ở nhà thực hiện việc phụ dưỡng cha mẹ và
thờ cúng tổ tiên), người nào là con một trong nhà cũng không phải bắt lính.
Mỗi năm, các hộ dân có con từ trên 16 tuổi phải khai báo để ghi vào sổ qn,
ai có con mà khơng khai báo thì bị coi là ẩn lậu, bị bắt làm lính chăn voi. Lính
mới sẽ được cấp vào bản thuyền, được miễn việc quan trong 3 tháng và sẽ
tham gia xây dựng cất nhà. Thuyền nào bắt bớ không đúng đội trưởng phải
phạt, ngũ trưởng giáng chức. Thuyền nào có lính trốn thuyền, phải trình quan,
truy nã ngay, 10 ngày khơng được phải trình lên ty để bắt xã đó truy nã, sau 3
tháng chưa tìm được xã đó phải lên danh sách người mới để bổ sung vào kì
tuyển quân tiếp theo. Quân lính có trăm thứ thợ nhưng cai quan khơng được
sử dụng làm việc tư, trái lệnh khơng cấp ngụ lộc19.
Ngồi ra, để thủy binh hoạt động được cần phải có đội lái thuyền
chuyên nghiệp, bởi vậy quan quân cũng thường đi khắp Đàng Trong để chọn
những tay chèo giỏi vào đội thuyền Hoàng gia điều này đảm bảo an toàn cho
việc di chuyển binh lính cũng như việc vận chuyển qn lương, binh khí.
Người Đàng Trong khơng có lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ
sai để chèo thuyền. Họ chỉ tuyển những người đã có kĩ năng, khi họ cần người
để chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì tức khắc họ tiến hành
tuyển mộ quân theo cách thức sau đây: Họ ngấm ngầm phái đội trưởng và uỷ
viên lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt ngay lập tức tất cả
những trai tráng có sức cầm tay chèo và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa tới
con nhà sang hay người có thế giá, bởi vì khơng ai được miễn. Quân mệnh
19

Lê Quý Đôn (1964), Phủ Biên tạp lục quyển 1, Nxb Khoa học, Hà Nội, tr.233.

20



như sơn, khơng một ai có thể trốn tránh được quy định, kẻ nào khơng quy thụ
áp dụng hình phạt theo quy định của nhà nước20.
Các quy định mộ lính chỉ áp dụng cho việc tuyển lính cho triều đình
(lính chính quy), ngồi ra Chúa cịn cho thành lập các đội thổ binh khác ở
khắp các địa phương, nhưng việc tuyển mộ lại diễn ra hết sức thoải mái chủ
yếu là dựa trên tinh thần tự nguyện của người dân tại địa phương. Để thu hút
dân chúng tham gia các đội thổ binh, Chúa đã đưa ra các chính sách đãi ngộ
cũng như thưởng phạt, cho thấy Chúa Nguyễn đánh giá rất cao tầm quan
trọng của người dân trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúa đã cho
người dân thấy bảo vệ nhà nước cũng chính là bảo vệ cuộc sống ổn định của
chính bản thân họ, bởi vậy mà đã thu hút được đông đảo lực lượng quần
chúng nhân dân tự nguyện tham gia hỗ trợ nhà nước trong việc khai thác và
giữ gìn an ninh địa phương. Người dân khơng chỉ coi đó là một niềm tự hào
mà cịn coi đó là một phần trách nhiệm của bản thân đối với đất nước. Chúa
đặt quân giữ Hồng Sa có định sẵn số người (70 người) thường lấy người ở xã
An Vĩnh, đặt tên là đội Hoàng Sa, hầu hết là dân địa phương. Sau này do
vùng biển của Chúa càng mở rộng nên cho lập thêm đội Bắc Hải, đội Thanh
Châu, đôi Hải Môn tất cả các đội này đều do đội Hoàng Sa kiêm quản. Nhưng
không định rõ số lượng tuyển bao nhiêu, số lượng tùy theo tình hình khả năng
của các thơn tình nguyện và được cấp văn bằng sai đi, quyền lợi cũng được
hưởng như đội Hồng Sa.
Đàng Trong khơng có một ghi chép cụ thể nào về dân số, nhưng cũng
có thể khẳng định rằng dân số ở đây không hề đông đúc như Đàng Ngồi.
Nhờ số dân đơng đúc đã tạo ra lợi thế lớn cho chúa Trịnh khi cần chúa có thể
thành lập ngay lập tức nhiều sư đồn qn sĩ khác ngồi số binh lính thường
trực trong doanh trại và ln sẵn sàng xuất trận khi có lệnh. Một dẫn chứng
cho thấy rằng việc huy động lực lượng của Đàng Ngoài, để chuẩn bị cho việc
tuyên chiến với Đàng Trong chúa Trịnh đã hoàn bị một sư đoàn hùng mạnh

20

Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr.32-33.

21


×