Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

112. NẮM VỮNG BẢN CHẤT NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ, PHÊ PHÁN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH LÀ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CẤP THIẾT ĐỐI VỚI TỔ CÁC CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.88 KB, 27 trang )

Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN
NẮM
NẮM VỮNG
VỮNG BẢN
BẢN CHẤT
CHẤT NGUYÊN
NGUYÊN TẮC
TẮC TẬP
TẬP TRUNG
TRUNG DÂN
DÂN CHỦ,
CHỦ, PHÊ
PHÊ
PHÁN
PHÁN NHỮNG
NHỮNG QUAN
QUAN ĐIỂM
ĐIỂM SAI
SAI TRÁI
TRÁI THÙ
THÙ ĐỊCH
ĐỊCH LÀ
LÀ VẤN
VẤN ĐỀ
ĐỀ QUAN
QUAN
TRỌNG
TRỌNG CẤP
CẤP THIẾT


THIẾT ĐỐI
ĐỐI VỚI
VỚI TỔ
TỔ CÁC
CÁC CHỨC
CHỨC ĐẢNG
ĐẢNG TRONG
TRONG QUÂN
QUÂN
ĐỘI
ĐỘI HIỆN
HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU
Trung thành với những nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn giữ
vững và khảng định Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức
và hoạt động của Đảng là điều kiện không thể thiếu để phát huy dân chủ, giữ vững
kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động thông suốt từ trung ương đến chi bộ. Vì vậy, đối
với tổ chức đảng trong qn đơi hiện nay là phải nắm vững bản chất nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đây là, cơ sở hết sức hết sức quan trọng để trung thành và tuân thủ

nghiêm ngặt nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, là cơ
sở giữ vững và đấu tranh phê phán với mọi quan điểm sai trái, thù địch, nhằm phủ
nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, âm mưu “phi chính trị hóa” qn đội, làm Đảng
tan rã từ bản chất, khơng cịn lãnh đạo qn đội trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt.
CHƯƠNG 1
NẮM VỮNG BẢN CHẤT NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ, ĐẤU
TRANH PHÊ PHÁN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRONG
GIAI ĐOẠN HIệN NAY.
1.1. Sự hình thành và phát triển nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong quá trình hoạt động lý luận và đấu tranh cách mạng C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khảng định để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản cần phải
trở thành một lực lượng độc lập, có một đảng vơ sản triệt để cách mạng, có cơ sở lý
luận đúng đắn, và “Hiện nay, đã đến lúc người cộng sản phải cơng khai trình bày
trước tồn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình”1. Hai ơng quyết định
cải tổ “Liên đồn những người chính nghĩa” (Ra đời từ năm 1836 bao gồm những
người vô sản tiên tiến thuộc nhiều dân tộc. Một tổ chức chặt chẽ và có tính tập trung
rất cao, kỷ luật nghiêm minh, nhưng lại hoạt động biệt phái thốt khỏi giai cấp cơng
nhân, thiếu tính dân chủ, với phương thức hoạt động mạo hiểm. Tổ chức này thừa
nhận chỉ có C.Mác và Ph.Ăng-ghen mới có khả năng đem lại cho các tổ chức công
nhân một lý luận, đường lối và phương thức đúng đắn) thành “Liên đoàn những
1

C.Maực vaứ Ph. Aấngghen: Toaứn taọp, Nxb. CTQG - H.1995, t.4, tr595


3

người cộng sản” và “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” ra đời (năm 1848), một văn kiện
có tình chất cương lĩnh đầu tiên trên thế giới.
Q trình đó, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra những quan điểm lí luận

quan trọng đặt nền móng cho cơng tác xây dựng Đảng. Nhưng do hạn chế về hoàn
cảnh lịch sử lúc bấy giờ nên hai ơng khơng có điều kiện ngun cứu để xây dựng
thành một học thuyết hoàn chỉnh, mà chỉ đưa ra một số tư tưởng có tính ngun tắc
về xây dựng Đảng.
Tư tưởng xây dựng một Đảng vô sản trên nguyên tắc tập trung dân chủ lần
đầu tiên được C.Mác và Ph.Ăng-ghen trình bày trong “Điều lệ liên đồn những
người cộng sản” (1947) song các ông chỉ dùng thuật ngữ “dân chủ triệt để”. Đảng
xây dựng trên nguyên tắc “dân chủ triệt để”. Các ông chỉ rõ: Đảng phải được xây
dựng trên những nguyên tắc dân chủ triệt để, các cơ quan lãnh đạo của Đảng được
bầu ra đều có thể bị thay thế hoặc bãi miễn, mọi đảng viên đều bình đẳng, được tự
do thảo luận những vấn đề sinh hoạt đảng. Đảng phải thường xuyên được củng cố
vững chắc. Sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức là khơng gì có thể phá vỡ nổi.
Đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện, thời gian hoạt động và những
nhiệm vụ mà đảng phải giải quyết. Năm 1864 trong dự thảo “Điều lệ của Hội liên
hiệp công nhân quốc tế”, C.Mác viết: “Hội đồng trung ương là cơ quan quốc tế,
thực hiện mối liên hệ với các tổ chức khác nhau đang hợp tác. Để cho công tác điều
tra về những điều kiện xã hội trong các nước khác nhau ở Châu âu có thể được tiến
hành đồng thời và dưới sự lãnh đạo chung đều được tất cả các đoàn thể thảo luận,
để khi cần có những biện pháp thực tiễn ngay lập tức, thì khơng những đồn thể
tham gia hội liên hiệp đều có thể hành động đồng thời và ăn khớp được”. Đoạn văn
trên cho thấy quốc tế I là một tổ chức lãnh đạo theo một đường lối và một mục tiêu
chung, được các hội công nhân các nước thảo luận, để mọi hành động thực tiễn, đều
được tiến hành một cách đồng thời trên cơ sở thống nhất ý trí. Trong “Điều lệ của
liên đoàn những người cộng sản”, “Điều lệ hội liên hiệp công nhân quốc tế”, đã xác
định cả cơ cấu tổ chức của liên đồn. Cơ cấu đó thấm nhuần tinh thần tập trung dân
chủ. Như vậy, thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen do hoàn cảnh lịch sử, nội dung dự kiến


4


về nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng chưa hình thành như một khái
niệm khoa học.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăng-ghen qua đời, những tư tưởng và truyền thống về
tổ chức đã bị các lãnh tụ của quốc tế II xuyên tạc và phản bội. Họ đã từ bỏ nguyên
tắc cách mạng, tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác, làm cho các Đảng xã hội - dân
chủ thích nghi với hoạt động nghị trường thuần túy, mưu toan hạn chế phong trào
công nhân trong khuôn khổ đấu tranh cải lương, không nhằm mục tiêu đấu tranh lật
đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong những điều kiện như vậy, vấn đề có ý
nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân là phải đập tan
chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của học thuyết Mác trên các lĩnh vực, trong
đó có học thuyết về xây dựng Đảng, về xây dựng các Đảng thực sự cách mạng của
giai cấp cơng nhân. Nhiệm vụ lịch sử đó sau này đã được V.I.Lênin hoàn thành một
cách xuất sắc.
Đến đầu thế thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn phát triển cao
và chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản biến thành lực lượng phản
động, giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số và chất lượng, cách mạng vô sản đã trở
thành trực tiếp. Là cơ sở thực tiễn cho V.I.Lênin phát triển và hoàn thiện tư tưởng
của C.Mác và Ph.Ăng-ghen. V.I.Lênin đã khái quát từ sự địi hỏi phải có tập trung
và thống nhất từ tư tưởng nguyên tắc tập trung dân chủ triệt để của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen. Thông qua các bài viết trên báo “Tia lửa” và các tác phẩm “Làm gì”
( bắt đầu từ 5/ 1901 -2/1902), tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi”, những sách
lược của Đảng dân chủ xã hội trong cách mạng dân chủ được viết từ năm 1903 1905. V.I.Lênin đưa ra thật ngữ “Tập trung dân chủ” tại Đại hội II Đảng công nhân
dân chủ Nga. V.I.Lênin đã luận giải nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng
Đảng và tiến hành cuộc đấu tranh giữa những người mác xít và bọn cơ hội cơ hội,
cải lương, dân tộc chủ nghĩa xung quanh vấn đề tập trung dân chủ trong Đảng.
V.I.Lênin khảng định đây là nguyên tắc tổ chức cao nhất, là xương sống của tổ
chức đảng, một thuộc tính vốn có của giai cấp cơng nhân, một nguyên tắc cơ bản
để xây dựng một Đảng mác xít cách mạng kiểu mới. Sau bốn năm (1906) tại Đại



5

hội IV, Đại hội thông qua nguyên tắc tập trung dân chủ và chính thức đưa vào điều
lệ Đảng. Tháng 07 năm 1920 là tiêu chuẩn của các Đảng tham gia vào Quốc tế
cộng sản. Sau năm 1945 hàng loạt các Đảng cộng sản giành chính quyền, nguyên
tắc tập trung dân chủ đều được nghi vào điều lệ Đảng.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn trung thành nguyên tắc tập
trung dân chủ. Tổng kết công tắc xây dựng Đảng, Đảng ta khảng định: “quá trình
phát triển Đảng gắn liền với việc Đảng kiên trì và từng bước cụ thể hóa nguyên tắc
tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện nguyên tắc này mà Đảng ta giữ vững và phát triển
được tổ chức, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp
của toàn Đảng”2. Trong điều kiện Đảng cầm quyền nguyên tắc tập trung dân chủ
còn là nguyên tắc tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là
nguyên tắc chỉ đạo phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã
hội, là điều kiện không thể thiếu để phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, pháp luật,
bảo đảm cho hoạt động thông suốt từ trên xuống dưới. Tập trung dân chủ được hiến
pháp nghi nhận tại điều 4 hiến pháp năm 1959, tại điều 6 hiến pháp năm 1980, tại
điều 6 hiến pháp năm 1992, và điều 6 hiến pháp năm 2001, điều đó càng khảng định
khơng chỉ trong Đảng, mà nhà nước ta được xây dựng tổ chức và hoạt động dựa trên
nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện bản chất của nhà nước cách mạng, của giai
cấp công nhân, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, nguồn gốc ra đời và phát triển nguyên tắc tập trung dân chủ là một
quá trình gắn liền với sự ra đời và cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cơng nhân,
gắn liền với những điều kiện và hồn cảnh lịch sử cụ thể từng nước. Khi Đảng
giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm vụ vai trò và điều kiện
hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn bản, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ
là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng, mà cịn là của hệ thống chính
trị.
1.2. Vị trí vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ.


ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, Baựo caựo tõng keỏt cõng taực xãy dửng ẹaỷng thụứi kyứ
1975-1995, Nxb CTQG, 1996, tr.86
2


6

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn khảng định Tập trung dân chủ là nguyên
tắc tổ chức cơ bản, chỉ đạo xun suốt và tồn bộ q trình tổ chức, sinh hoạt nội bộ
và quá trình hoạt động của Đảng , bảo đảm cho Đảng là một chỉnh thể có tổ chức
chặt chẽ, kỷ luật tự giác nghiêm minh, đồn kết thống nhất cả ý trí và hành động; có
vai trị chỉ đạo các mối quan hệ trong sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của
Đảng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa địa phương và trung ương, giữa cá nhân và tổ
chức...; là cơ sở cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng được bảo đảm bằng sức
mạnh tổ chức, vừa phát huy được tính tích cực, chủ động của tổ chức đảng, đảng
viên, tập trung được trí tuệ của tồn Đảng. Theo Hồ Chí Minh thực hiên ngun tắc
trung dân chủ cịn “tạo ra khả năng thường xuyên tự đổi mới, thường xuyên nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu”3 là phương thuốc hữu hiệu ngăn ngừa
những căn bệnh nguy hiểm hay mắc phải của một Đảng cầm quyền như tệ quan liêu,
gia trưởng, độc đốn, chun quyền, tham ơ hủ hóa, dân chủ q chớn; đây cịn là
một tiêu chuẩn để phân biệt Đảng cộng sản với các đảng phái khác, phân biệt người
cộng sản chân chính với các phần tử tự do, vơ chính phủ, kém ý thức tổ chức, tính
kỷ luật.
1.3. Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.
 Nguyên tắc tập trung dân chủ là thuộc tính bản chất GCCN
C.Mác và Ph.Ăng-ghen coi tập tập trung dân chủ là cái “vốn có” của giai cấp
cơng nhân. Đảng là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức
chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân là nơi thể hiện tập trung bản chất của giai cấp
công nhân.
Giai cấp công nhân ra đời và phát triển gắn liền với sản xuất đại công nghiệp

(khơng giống sản xuất giản đơn), q trình được rèn luyện trong nền sản xuất đó,
vừa địi hỏi trình độ chun mơn hóa ngày càng sâu, vừa địi hỏi trình độ hợp tác hóa
ngày càng cao và q trình đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, với sự
thống nhất lợi ích chính trị, kinh tế, mục tiêu lý tưởng cao cả, đã tạo cho giai cấp
công nhân những đặc chưng cơ bản: tinh thần triệt để cách mạng, tính tập trung
Ban tử tửụỷng vaờn hoựa trung ửụng, Taứi lieọu nghiẽn cửựu nghũ quyeỏt hoọi nghũ lần thửự
6, naờm1999, tr.14
3


7

thống nhất, tính kỷ luật nghiêm minh, tinh thần dân chủ tập thể, tinh thần đoàn kết
hiệp đồng hợp tác. Những đặc chưng đó là ý thức, là hành động, phong cách của
GCCN, mà các giai cấp khác không thể có. Tập trung dân chủ là một nội dung thuộc
bản chất của giai cấp công nhân, nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh bản chất tổ
chức của giai cấp công nhân trong lao động sản xuất và trong đấu tranh cách mạng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định xây dựng tổ chức, chỉ đạo hoạt động
của Đảng, đảm bảo là một chỉnh thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ, đồng bộ hệ
thống nhất từ trung ương đến cơ sở, tránh được tình trạng lỏng lẻo, lộn xộn, vơ chính
phủ bè phái, sẽ phát huy cao độ trí tuệ, tinh thần trách nhiệm, sự sáng tạo của mọi
thành viên, mọi tổ chức vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đó cịn là u cầu, là
phương tiện phát huy thế và lực của cách mạng.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là biện pháp quản lí giáo dục
rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ nghiêm kỷ luật loại trừ những phần tử cơ
hội xét lại, vơ chính phủ, thối hóa biến chất phá hoại Đảng. Cùng với nhân tố
chính trị, tư tưởng, nguyên tắc tổ chức bảo đảm sự trong sạch, năng lực lãnh đạo
sức chiến đấu, uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, cịn là tiêu trí phân
biệt Đảng cộng sản với các đảng cơ hội xét lại, phi vô sản. V.I.Lênin cho rằng:
“sức mạnh của giai cấp cơng nhân chính là tổ chức”4. Vì thế, “Đội tiên phong của

giai cấp cấp cơng nhân phải hết sức có tổ chức”5, ngun tắc tổ chức chính là
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khi Đảng giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm vụ vai
trò và điều kiện hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn bản, nguyên tắc tập trung
dân chủ khơng chỉ cịn là ngun tắc tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng, mà còn
là của hệ thống chính trị, là nguyên tắc chỉ đạo, là phương hướng lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, nên vai trị của ngun tắc tập trung dân chủ khơng ngừng
được tăng lên.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các Đảng cộng sản và Đảng
ta cho thấy vai trò đặc điểm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngay từ
4
5

V.I.Leõnin: Toaứn taọp, Nxb. Tieỏn boọ, Maựtxcụva, 1977, t.14, tr. 163
V.I.Leõnin: Toaứn taọp, Nxb. Tieỏn boọ, Maựtxcụva, 1974, t.8, tr. 2 86


8

khi mới ra đời để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ đã là một cuộc đấu tranh
ngay ngắt giữa người cộng sản và giai cấp tư sản, với phần tử cơ hội xét lại, tư tưởng
tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhưng nhiều Đảng đã ngộ nhận đổ lỗi cho nguyên tắc
tập trung dân chủ làm trì trệ, lạc hậu, khơng ưu việt hơn tư bản do thiếu dân chủ nên
thiếu năng động sáng tạo, không phát triển toàn diện, do Đảng độc quyền đứng trên
nhà nước, nên các Đảng đã từ bỏ và dẫn tới tan rã mất chính quyền. Thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố quyết định sự sống còn của Đảng cộng sản
gắn với sự thành bại của cách mạng vô sản. Đảng nào phủ nhận xa rời, vi phạm đều
dẫn tới chỗ giảm sút ý chí, phân tán sức mạnh, phân liệt thậm chí tan rã.
Đảng ta khảng định: “chỉ có thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ mới
có thể vừa chống được tập trung quan liêu, vừa chống được tình trạng vơ chính phủ

và bè phái”6, và chỉ rõ: phủ nhận xa dời nguyên tắc tập trung dân chủ là tự phá hoai
sức mạnh về tổ chức, biến Đảng thành một câu lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ
hội, bè phái vơ chính phủ đủ loại, đưa đến tan rã, thủ tiêu bản thân Đảng. Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện cơ bản Đảng lãnh đạo được quân đội,
Đảng yêu cầu phải thường xuyên kiên trì, giữ vững, thực hiện nghiêm, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong quá trình xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta “Kiên trì nguyên
tắc tập trung dân chủ, bảo đảm dân chủ và tập trung trong quá trình hoạch định và
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chính sách, trong tổ chức và hoạt động, làm
cho Đảng vững mạnh về tổ chức, tạo khả năng thường xuyên yêu cầu tự đổi mới,
thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu”7, “vi phạm nguyên tắc,
kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, đang làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm giảm
lòng tin của nhân dân”8
Để xây dựng Đảng ngang tầm địi hỏi của cơng cuộc đổi mới, sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước, xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước
hiện đại, địi hỏi phải tăng cường khối đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống,
ngăn chặn vơ hiệu hóa sự phá hoại của kẻ thù trên lĩnh vực tổ chức. Đảng ta xác
6
7
8

Vaờn kieọn ẹaùi hoọi ẹaỷng VII, tr. 130
Vaờn kieọn ẹaùi hoọi ẹaỷng VII, tr. 14
Vaờn kieọn ẹaùi hoọi ẹaỷng VII, tr. 15


9

định: giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh phê phán với

mọi quan điểm sai trái, thù địch là một trong những vấn đề cơ bản cấp bách hiện
nay.
Tóm lại, tập trung dân chủ là thuộc tính bản chất GCCN, Đảng được tổ chức
trên nguyên tắc tập trung dân chủ là tất yếu khách quan, nếu từ bỏ nguyên tắc này là
sai lầm, là phi khoa học, tức là từ bỏ bản chất GCCN của Đảng cộng sản.
 Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống biện chứng giữa hai thành
tố tập trung và dân chủ.
Bản chất Nguyên tắc tập trung dân chủ còn là sự thống nhất giữa hai yếu tố tập
trung và dân chủ, khơng có sự mâu thẫn đối lập nhau, hai thành tố vừa làm tiền đề
vừa làm điều kiện cho nhau không được coi nhẹ mặt nào. Tập trung trên cơ sở dân
chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ phải có lãnh đạo, hai thành tố
tập trung và dân chủ bổ xung cho nhau, tăng cường tập trung trên cơ sở mở rộng
phát huy dân chủ, còn dân chủ phải hướng tới tăng cường của tập trung và chỉ có
trên cơ sở thống nhất biện chứng hai thành tố đó thì dân chủ trong Đảng mới càng
phát triển và làm cho tập tập trung dân chủ trong Đảng càng vững chắc, đồng thời
ngược lại những hiện tượng tập trung quan liêu, hình thức, chun quyền độc đốn,
vơ chính phủ, tự do vô kỷ luật là trái bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, sẽ bị
đẩy lùi. Hồ Chí Minh đã khái qt mối quan hệ đó là: “tập trung trên nền dân chủ
và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, tập trung và dân chủ luôn đi đôi với nhau”9, “
tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung, tập thể lãnh đạo cá
nhân phụ trách là dân chủ tập trung”10 .
Tập trung trên nền tảng dân chủ là tập trung gắn với dân chủ, được quyết định
trên cơ sở dân chủ, để thực thi dân chủ, các cơ quan lãnh đạo đều do dân chủ lập
nên, quyền lực của cơ quan lãnh đạo là quyền lực do đảng viên giao phó, do hội nghị
đảng quyết định, do đảng viên tập trung ý kiến, tổng hợp trí tuệ kinh nghiệm mà
thành, đó chính là sự tập trung do chính đảng viên lập nên, khơng phải do bất kỳ
9
10

Hồ Chớ Minh, Toaứn taọp, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.240

Hoà Chớ Minh, Toaứn taọp, Taọp 5, Nxb CTQG, H.1996, tr. 554


10

một ai tự ý quyết định, là sự tập trung trên sự thống nhất ý chí, và hành động, lợi ích
và trách nhiệm của đa số, được hình thành một cách tự giác, chứ không phải là một
thứ tập trung được thiết lập một cách hình thức cưỡng bức, hay tập trung chỉ để phục
vụ một nhóm người, một cá nhân, nó đối lập với tập trung quan liêu độc đoán,
chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, chấn áp cấp dưới, đe dọa đảng viên, hình thức,
đẳng cấp trong đảng.
Tập trung trên cơ dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực, đó là sự chấp hành
nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, là địi hỏi tính tập trung cao độ là tránh nhiệm
rất cao của đảng viên. Nhưng nghị quyết của Đảng lại chính là sản phẩm dân chủ
của đảng viên là kết quả của quá trình tham gia thảo luận bàn bạc, là trí tuệ ý chí của
đảng viên, việc tuân thủ nghị quyết của đảng viên chính là tuân thủ ý chí nguyện
vọng của đảng viên, chính là tơn trong quyền làm chủ của đảng viên. Trong thực
hiện thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các chế độ ấy trên cơ sở thống nhất cao độ về mục tiêu lợi ích, quyền lợi một
cách nghiêm ngặt. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng có thẩm quyền ra chỉ thị nghị
quyết cho cấp dưới thực hiện, kiểm tra đôn đốc, khen thưởng kỷ luật cấp dưới,
nhưng các cơ quan đó đều do dân chủ bầu cử lập ra, đại biểu cho trí tuệ và sức mạnh
của đảng viên đó khơng thể hiểu là tập trung quan liêu, duy ý trí, mà là thể hiện tập
trung gắn liền với dân chủ. Các cấp đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước tổ
chức đảng, gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình cấp dưới thực hiện tập thể
lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Để hiểu sâu sắc hơn “dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung”, chúng ta thấy
rằng trong lịch sử xã hội lồi người, từ khi có sự phân chia giai cấp cho đến nay
chưa bao giờ có một thứ dân chủ chung chung, dân chủ thuần túy, dân chủ vô bờ bến
“Dân chủ là khát vọng của toàn nhân loại, nhưng trên con đường vươn tới khát

vọng đó nó bị chi phối bởi các đảng và mang dấu ấn của điều kiện kinh tế - xã
hội”11. V.I.Lênin đã từng nói rằng: nếu khơng khinh thường lẽ phải và khơng khinh
thường lịch sử thì ai cũng thấy rõ chừng nào cịn có những giai cấp khác nhau thì
Nhũ Lẽ - Lẽ Khaỷ Thó, Moọt ẹaỷng laừnh ủáo vaứ Thửùc thi dãn chuỷ, Táp chớ coọng
saỷn soỏ 1/2005, tr.26
11


11

khơng thể nói tới dân chủ thuần túy, mà chỉ có thể nói tới dân chủ có tính giai cấp.
Cái thứ dân chủ thuần túy, dân chủ không bờ bến chẳng qua chỉ là một công thức
rỗng tuếch; dân chủ tư sản là một bước nhảy vượt bậc của nhân loại, nhưng tiếp
sau đó là bước nhảy cao hơn dân chủ tư sản, như vậy lịch sử đã chia dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa chứ không phải chúng ta cứng nhắc chia ra. Dân chủ
dưới sự chỉ đạo của tập trung là dân chủ có mục đích, có định hướng có lãnh đạo, có
tổ chức, hướng tới tập trung, bảo vệ và giữ gìn sự thống nhất trong Đảng, các đảng
viên được tôn trọng và được bảo vệ quyền bình đẳng trong bàn bạc, thảo luận, quyết
định các công việc của đảng, nhưng phải trong khuôn khổ tổ chức, phải chấp hành
kỷ luật Đảng, phục tùng nghị quyết của đảng. Cá nhân phục tùng tổ chức, được tự do
phát huy mọi sáng kiến, kinh nghiệm của mình, nhưng phải nhằm tập trung trí tuệ,
hành động thống nhất của toàn Đảng hướng vào thực hiện mục tiêu, lý tưởng trung
của Đảng. Trong điều 3, điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam nghi rõ bốn quyền của
đảng viên là: “1. Được thông tin, thảo luận các vấn đề cương lĩnh chính trị, điều lệ
Đảng, đường lối chủ trương chính sách của Đảng ; biểu quyết các cơng việc của
Đảng”; “2. ứng cử, đề cử và bầu cử vào cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo
quy định của ban chấp hành trung ương.” ; “3. Phê bình chấp vấn về hoạt động của
tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với
các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.”; “4. Trình bày ý kiến khi tổ
chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình”. Trên

tinh thần các quyền đó, Hồ Chí Minh khảng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày
tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ của con người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc
đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”12. Vì thế, quyền thảo
luận và quyền tự do tư tưởng chính đáng có nguyên tắc vừa là quyền lợi vừa là nghĩa
vụ của mỗi cán bộ đảng viên, nó đối lập với dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, dân
chủ vơ chính phủ, dân chủ hình thức vì lợi ích cá nhân, bè phái, địa phương chủ
nghĩa, sẽ biến Đảng thành câu lạc bộ cãi vã sng, phân tán mất đồn kết.
12

Hồ Chớ Minh, Toaứn taọp, Taọp 12, Nxb CTQG, H.1996, tr.554


12

Tập trung và dân chủ liên hệ ràng buộc với nhau, phụ thuộc nhau, thống nhất
với nhau, thành tố này lấy thành tố kia làm tiền đề tồn tại cho mình, hai thành tố
khơng tách dời nhau, nhờ tập trung mà thấy rõ giá trị dân chủ và ngược lại tập trung
là tiền đề là điều kiện quy định tính chất và trình độ của dân chủ cũng như dân chủ là
tiền đề là điều kiện quy định trình độ tập trung. Dân chủ trong Đảng càng sâu rộng
thì sự thống nhất về ý chí và hành động càng cao, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
càng bền chặt, sự tập trung càng được củng cố và phát triển không ngừng và khi tập
trung trong Đảng càng được củng cố thì càng bảo đảm sự phát triển của dân chủ và
hiệu quả của dân chủ ngày càng cao. Như vậy, tập trung và dân chủ ln chế ước,
điều chỉnh địi hỏi lẫn nhau, luôn tồn tại trong một chỉnh thể. Từ trong bản chất
nguyên tắc tập trung dân chủ loại bỏ hồn tồn khuynh hướng độc đốn, quan liêu,
áp đặt, đồng thời cũng loại bỏ khuynh hướng vơ chính phủ, dân chủ cực đoan phá
hoại sự thống nhất của đảng, bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi các tổ
chức đảng trong quá trình thực hiện nguyên tắc phải nhận thức và giải quyết đúng

đắn mối quan hệ tập trung và dân chủ. Nhấn mạnh một chiều, tách dời tập trung và
dân chủ hoặc phủ nhận bất kỳ thành tố nào đều là trái với bản chất tập trung dân chủ.
Sự thống nhất giữa hai thành tố không phải là sự gán ghép chủ quan mà được
hình thành một cách khách quan do chúng đều có chung cơ sở kinh tế xã hội, đều
thuộc bản chất giai cấp công nhân, đều cần thiết cho sự tồn tại , hoạt động phát triển
của Đảng, đều dựa trên sự thống nhất lợi ích chung của Đảng, có những đặc chưng
đặc điểm, u cầu giống nhau, có trung mơi trường vận động đều là phương thức thực
hiện và bảo vệ quyên lợi của Đảng, giai cấp công nhân, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bản chất Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng khác căn bản về chất với tập
trung quan liêu, gia trưởng, độc đốn chun quyền, dân chủ có sự lãnh đạo của tập
trung khác với dân chủ vô chính phủ, dân chủ q trớn, tự do vơ kỷ luật. Lênin
khảng định mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ là một sự kết hợp hài hòa thống
nhất chặt chẽ hữu cơ giữa hai mặt thống nhất chứ không phải chỉ là tập trung hoặc
dân chủ... tuyệt đối hóa một mặt nào cũng đều dẫn đến sai lầm nguy hại ngay đến sự
lãnh đạo và sức mạnh của Đảng “chúng ta chủ trương theo chế độ tập trung dân


13

chủ. Nhưng cần phải hiểu rõ rằng chế độ tập trung dân chủ một mặt khác xa chế độ
tập trung quan liêu chủ nghiã, mặt khác thật khác xa chủ nghĩa vơ chính phủ”13.
Tập trung được xây dựng trên cơ sở dân chủ dân chủ chứ không phải tập trung quan
liêu độc đoán. Tập trung biểu hiện quyền lực của đa số với thiểu số, tập trung ý chí
nguyện vọng của toàn Đảng vào cơ quan lãnh đạo tối cao để đảm bảo sự thống nhất
cao về tư tưởng và hành động. Một “tổ chức bao giờ cũng cần có lãnh tụ, quần
chúng dù là được giáo dục tốt nhất cũng cần có lãnh tụ”14, tính tập trung của Đảng
địi hỏi Đảng phải có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, được mọi đảng viên thừa nhận và
tuân thủ, việc chấp hành nghị quyết của Đảng là không điều kiện, việc khơng chấp
hành là sự cổ vũ cho sự vơ chính phủ, vô tổ chức làm suy yếu Đảng. Tập trung
không tách dời dân chủ mà ngược lại nó bao hàm cả dân chủ, “khơng được cấn đốn

bất cứ ai mang đơn khiếu nại đến tận trung ương. Đó là điều kiện cần thiết của
nguyên tắc tập trung dân chủ”15, tai đại hội 10 của Đảng công sản Nga (3/1921)
V.I.Lênin đã thảo ra về sự thống nhất toàn Đảng, bắt phải giải tán ngay tất cả các
nhóm có tính chất bè phái trong Đảng. Như vậy chưa bao giờ V.I.Lênin cho đảng
viên hoạt hoạt đông một cách thụ động, ỷ lại, hoặc vô tổ chức, vô kỷ luật; chưa lúc
nào cho phép tồn tại những phe nhóm, bè phái, đối lập.
Bản chất tập trung dân chủ được biểu hiện ở nội dung nguyên tắc được xác
định trên nhiều cấp độ khác nhau, trên cấp độ chung nhất là tập trung dân chủ về trí
tuệ, về quyên lực, về hoạt động, về lợi ích. Đảng có cơ quan lãnh đạo cao nhất của
đảng là đại hội đại biểu toàn quốc, được trao quyền quyết định ra cương lĩnh đường
lối, điều lệ mà mọi đảng viên phải chấp hành khơng có ngoại lệ, giữa hai kỳ đại hội
là ban chấp hành trung ương, ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên,
giữa hai kỳ đại là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy), song các cơ
quan lãnh đạo của Đảng phải do dân chủ bầu ra và có thể bị bãi miễn. Thực hiện tập
thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, thực hiện tự phê bình và phê bình. Cấp ủy các cấp
thực hiện chế độ báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội
cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo hoạt động của mình
13
14
15

V.I.Lẽnin: Toaứn taọp, Nxb. Tieỏn boọ, Maựtxcụva, 1977, t.36, tr. 185
V.I.Leõnin: Toaứn taọp, Nxb. Tieỏn boọ, Maựtxcụva, 1981, t.28, tr.709
V.I.Leõnin, Toaứn taọp, Taọp 7, Nxb M.1979, tr.357


14

đến các tổ chức đảng trực thuộc. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị
quyết của Đảng. Thểu số phục tùng đa số cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục

tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và
Ban chấp hành trung ương. Nghị quyết của các cơ quan lãnh của Đảng chỉ có giá trị
thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành, trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình, đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số, được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến đại hội đại biểu tồn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, khơng được truyền bá ý kiến
trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó,
khơng phân biệt đối sử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Tổ chức đảng
quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song khơng được trái với
ngun tắc, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và nghị quyết
của cấp trên.
Nhưng nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ không cố định, bất biến mà
được phát triển, cụ thể hóa phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng,
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ được
quy định trong chương II, điều 9, điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (Đại hội IX thơng
qua 22/4/2001), trong đó đã kế thừa các quy định của điều lệ Đảng khóa trước, một
cách đầy đủ hoàn chỉnh, thể hiện sâu sắc bản chất nguyên tắc, những nội dung ghi
trong điều lệ cịn tiếp tục được cụ thể hóa trong các chỉ thị, quy định của các cơ quan
lãnh đạo các cấp của Đảng.
1.4. Đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ
quan trọng cấp bách hàng đầu đối với Đảng ta hiện nay.
Ngay từ khi mới ra đời và cho đến nay chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là đối
tượng phê phán xuyên tạc của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản. Các nhà tư tưởng
chống cộng tập trung vào ba vấn đề trụ cột là học thuyết hình thái kinh tế xã hội, học
thuyết giá trị thặng dư, học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Nhằm
xóa bỏ nền tảng tư tưởng, làm tan rã Đảng cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội, chống
lại phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt những thế kỷ qua và hiện nay, các nhà tư


15


tưởng chống cộng liên tục tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tìm mọi
cách đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng, nhằm phá vỡ sự đoàn kết thống nhất, làm phân liệt, tan
rã Đảng về mặt tổ chức.
Biết rõ sức mạnh của nguyên tắc tập trung dân chủ của các Đảng cộng sản,
các thế lực thù địch về chính trị tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để xuyên tặc nguyên tắc
này. Họ nhai đi nhai lại rằng, tập trung dân chủ chỉ là một thứ chế độ tập quyền, độc
đốn bảo thủ, bóp méo dân chủ, kìm hãm tư duy sáng tạo, biến Đảng thành người
máy. Họ ra sức tán dương thực hiên dân chủ tự do; dân chủ vô hạn độ dân chủ cực
đoan; ủng hộ trong Đảng có nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi. Sử dụng
triệt để chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên”, họ cổ vũ cho những bất đồng ý kiến, trong
Đảng rồi lợi dụng để chia rẽ Đảng. Ngay trong nội bộ cũng có những kẻ phản bội lí
tưởng, cơ hội hữu khuynh xét lại, phê phán lên án xét lại thậm chí cịn muốn tìm
cách xố bỏ ngun tắc này. Họ cố tình tỏ ra khơng hiểu hoặc cố tình xun tạc bản
chất của nguyên tắc, họ dẫn ra những ví dụ về sai lầm, quan liêu độc đoán mất dân
chủ của một số người trong bộ máy của Đảng để chứng minh cho việc cần phải thay
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cán bộ, đảng viên đã hiểu rằng khi tập trung thì
khơng cịn dân chủ và đã dân chủ thì khơng cần đến tập trung, rằng tập trung càng
cao thì dân chủ càng giảm, muốn tăng cường dân chủ thì phải giảm bớt tập trung.
Một số quan điểm sai trái khác lập luận rằng tập trung dân chủ là sự thống
nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập, là sự gán ghép giữa hai thành tố tập trung và
dân chủ, sự gán ghép này luôn tạo ra xu hướng triết tiêu lẫn nhau, dẫn đến nếu tăng
cường tập trung thì tất yếu thu hẹp và triệt tiêu dân chủ, cho nên đã tập trung thì phải
từ bỏ dân chủ, nếu thực hiện dân chủ thì phải từ bỏ tập trung, cịn giữ lại ngun tắc
tập trung dân chủ thì bản chất của nó là khơng thể khác phục được tệ độc đoán, gia
trưởng, quan liêu... Việc chia cắt nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối
lập với tập trung là không hiểu đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; quan điểm sai trái
nữa lại cho rằng tập trung là danh từ cịn dân chủ chỉ là tính từ chỉ là cái bổ nghĩa
cho tập trung làm cho tập trung bớt cứng đi và chỉ để làm rõ thuộc tính tập trung,



16

nên về thực chất đó chính là ngun tắc tập trung; thêm quan điểm sai trái khác khi
cho rằng bản chất gốc rễ của tập trung dân chủ là tập trung quan liêu, vì tập trung là
mục đích cịn dân chủ chỉ là phương tiện, có rất nhiều phương tiện để thực hiện mục
đích, thành ra dân chủ chỉ là một loại phương tiện. Rõ ràng, họ đã tìm mọi cách để
tầm thường hóa dân chủ, mưu đồ để phá hoại, rồi đến từ bỏ nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Quan điểm cho rằng nên thay nguyên tắc tập trung dân chủ thành nguyên tắc
dân chủ tập trung là để chuyển dân chủ thành mục đích cịn tập trung là phương tiện,
để dân chủ thành danh từ còn tập trung là tính từ, họ cịn dẫn chứng rằng ngay trong
bút tích của Hồ Chí Minh trong các văn kiện số lần dùng cụm từ “dân chủ tập
trung” nhiều hơn rất nhiều dùng cụm từ “tập trung dân chủ”, điều đó thể hiện bản
chất Tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ tập trung chứ không phải là tập trung dân
chủ. ý đồ tư tưởng này cũng chỉ là biểu hiện của tư tưởng địi xét lại, hồi nghi dao
động mà thơi. Nếu căn cứ vào lịch sử thì những bút tích của Hồ Chí Minh có ảnh
hưởng ngơn ngữ tiếng Hán và một số ngơn ngữ khác, tức là tính từ nói trước danh
từ. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh dân chủ tập trung với tập trung dân chủ là
một, tức là dân chủ có tập trung, có lãnh đạo khơng phải dân chủ vơ chính phủ.
Để phê phán các quan điểm sai trái trên cần phải hiểu một số điểm sau: khi
nói đến tập trung thì bao giờ cũng có hai trường hợp tập trung trên cơ sở dân chủ
hoặc tập trung dân phi dân chủ, tập trung quan liêu; cịn khi nói dân chủ thì cũng
như vậy, với hai trường hợp là dân chủ hướng tới tập trung hoặc dân chủ hướng tới
phá vỡ tập trung, dân chủ vơ chính phủ. Những vấn đề này khảng định tập trung trên
cơ sở dân chủ không bao giờ thống nhất với tập trung phi dân chủ, nếu tập trung trên
cơ sở dân chủ phát triển thì tập trung phi chính phủ bị đẩy lùi và ngược lại; cịn dân
chủ hướng tới tập trung cũng không bao giờ thống nhất với dân chủ phá vỡ tập
trung, nếu dân chủ hướng tới tập trung mà phát triển thì dân chủ phá vỡ tập trung bị

thu hẹp và ngược lại. Do đó, phải đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái về
bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.


17

Lại có quan điểm cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ phù hợp với điều
kiện khi Đảng còn hoạt động bí mật, lãnh đạo trong chiến tranh chống kẻ thù, địi
hỏi phải có kỷ luật chặt chẽ, tập trung thống nhất cao độ, cịn trong thời bình Đảng
cầm quyền, nhân dân làm chủ thì nguyên tắc này tỏ ra lỗi thời, khơng có hiệu lực,
khơng cịn phù hợp nữa. Đây cũng là một biểu hiện của một sai lầm trong nhận thức
về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, khơng thể có Đảng nào chặt chẽ ở giai
đoạn này, buông lỏng ở giai đoạn khác, thực tiễn cho thấy dù Đảng có bề dầy lịch
sử, nhưng buông lỏng kỷ luật, coi nhẹ tập trung thống nhất, nhấn mạnh một chiều về
dân chủ, để cho những phần tử cơ hội cực đoan tự do lũng loạn, chia rẽ tổ chức, sẽ
làm rối loạn tan rã Đảng. Thực tế V.I.Lênin sử dụng nguyên tắc tập trung dân chủ để
tổ chức Đảng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng tháng 10,
và vượt qua khó khăn thử thách của những năm nội chiến giữ vững chính quyền Xơ
viết thì sau 71 năm (1991), do khơng nắm vững bản chất nguyên tắc, buông lỏng, đã
để Goocbachốp phá Đảng cộng sản, phá vỡ liên bang Xô Viết. Nên, trong mọi hoàn
cảnh, mọi điều kiện cụ thể, mọi thời kỳ của cách mạng đều phải thực hiện nghiêm
ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ khác ở cơ chế vận hành, nội dung, yêu cầu,
phương thức lãnh đạo phù hợp với từng thời kỳ cách mạng mà đòi hỏi phải đổi mới
cho phù hợp. Giữ vững tập trung dân chủ không chỉ nhằm mở rộng dân chủ, phát
huy mạnh mẽ dân chủ (vì dân chủ là bản chất là nội dung là động lực của xã hội
mới), mà cịn phải giữ gìn tính tập trung thống nhất, tính kỷ luật chặt chẽ nghiêm
minh.
Hiện nay cũng còn cần phải cảnh giác và đấu tranh chống lại ảnh hưởng tiêu
cực của nền kinh tế thị trường vào xây dựng Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ. Đó là, những tác động của “nguyên tắc cầu lợi”, “nguyên tắc dân chủ”,

“nguyên tắc trao đổi ngang giá”, “nguyên tắc mở cửa” trong nền kinh tế thị trường
đã và đang ngấm vào trong Đảng những tư tưởng hủ bại, quan niệm giá trị sai lầm
của giai cấp tư sản đã không ngừng xâm nhập vào đội ngũ đảng viên, đang tạo tư
tưởng thực dụng sùng bái đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, họ đặt lợi ích cá nhân lên
trên lợi ích tập thể, lợi ích của Đảng. Họ dùng quyền lực trong tay để độc đoán gia


18

trưởng, dân chủ hình thức để tiến hành trao đổi quyền tiền, tham ô, chiếm đoạt tài
sản tập thể. Từ địi hỏi có quyền tự chủ trong kinh doanh và phát triển trong kinh tế
thị trường để chạy theo lợi nhuận tố đa là mục tiêu phấn đấu của mình, nên khi chấp
hành đường lối chính sách của Đảng đã có hiện tượng “trên có chính sách, thì dưới
có đối sách”, đơi khi cịn hiện tượng “lệnh khơng theo, có ngăn không cấm” đã tác
động vào nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Đảng ta kiên quyết phê phán việc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ,
Đảng coi nguyên tắc tập trung dân chủ “là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt
chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các
đảng khác, phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất”16. Kinh nghiệm
phong trào công nhân thế giới trước đây, ở Liên Xô, Đông Âu vừa qua cho thấy:
những kẻ phản bội Đảng đều bắt đầu tìm cách phủ nhận nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng và tổ chức và hoạt động của Đảng.
CHƯƠNG 2
THựC TRạNG Và NHữNG GIảI PHáP NHằM GóP PHầN TUÂN THủ NGHIÊM
NGặT NGUYÊN TắC TậP TRUNG DÂN CHủ ĐốI VớI Tổ CHứC ĐảNG TRONG
QUÂN ĐộI.
1.

Thực trạng và tình cấp thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
tập trung dân chủ đối tổ chức đảng trong quân đội hiện nay.


Từ sự tan rã của Đảng cộng sản Liên Xô, và các Đảng ở Đông Âu Giờ đây ta
phải thừa nhận một thực tế đau xót, như nghị quyết TW3 (Khóa VII) chỉ ra rằng: ý
tưởng cải cách, cải tổ là đúng nhưng đường lối chính trị, giải pháp bước đi của các
Đảng đó là sai lầm, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, quan liêu xa dời quần
chúng, sai lầm trong công tác cán bộ (đặc biệt là cán bộ chủ chốt), có một bộ phận
cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền đã không giữ được phẩm chất
đạo đức cách mạng. Họ thối hóa biến chất, phạm vào tham những quan liêu, hách

ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, vaờn kieọn ủaùi hoọi ủaùi bieồu toaứn quoỏc laàn thửự VII, Nxb
Sửù thaọt, H.1991, ttr.30
16


19

dịch, xa dân, bị quần chúng ốn ghét và chính trong số họ tìm cách phê phán hoặc
từ bỏ những nguyên tắc cơ bản trong đó có nguyên tắc tập trung dân chủ.
ở Việt Nam sau chiến thắng chủ nghĩa thực dân mới, thống nhất tổ quốc,
ngay từ đại hội V của Đảng đã nhận định tình hình xa sút phẩm chất, giảm sút ý chí
chiến đấu ở một bộ phận cán bộ đảng viên là: “nhiều người từ sai lầm trong sinh
hoạt, quan liêu trong đấu tranh, đã đi đến chỗ biến chất trong lối sống, thối hóa về
chính trị”17, đến Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhận định: “Một bộ phận không nhỏ
cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm
sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, xa đọa về đạo đức lối sống. Một số cán bộ
thối hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức
nghiêm trọng”18, Hội nghị TW6 (lần 2) Khóa VIII nhấn mạnh trong Đảng cịn có
“việc thực hiện ngun tắc tập trung dân chủ không nghiêm”, một số cán bộ chủ
chốt gia trưởng, độc đoán, địa vị kèn cựa, việc giải quyết các mối quan hệ chưa tốt,
trong hội nghị nhất trí ngồi lại tỏ thái độ khơng đồng tình, khi đương nhiệm khơng

nói, nhiều nơi cịn lấy cớ tập trung dân chủ khơng dám quyết đốn, có nơi lại nhân
danh cấp ủy ra nghị quyết sai trái. Đến Đại hội IX Tiếp tục khảng định rõ hơn là:
“Việt tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ
luật kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh
thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng, pháp luật chính
sách của nhà nước, báo cáo khơng trung thực, làm cho nghị quyết của Đảng khó
vào cuộc sống”19, đến nay “nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện chưa thật tốt
trong tổ chức và trong sinh hoạt. Vẫn còn tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ
cương, kỷ luật ở một số địa phương, đơn vị. Việc xây dựng quy chế làm việc là nhằm
tăng cường dân chủ, bảo đảm tính tập trung, song khơng ít nơi khơng chấp hành
đúng quy chế đã ban hành. Có trường hợp xây dựng quy chế từ năm 1992, song đến
nay chưa bổ xung sửa đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Thực hiện quy định
ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, Vaờn kieọn ẹái hoọi ủái bieồu toaứn quoỏc lần thửự V, Taọp
3, Nxb Sửù thaọt, H.1982, tr.25
18
ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, Vaờn kieọn ẹái hoọi ủái bieồu toaứn quoỏc lần thửự VIII, Nxb
CTQG, H.1996, tr.137
19
ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, Vaờn kieọn ẹái hoọi ủái bieồu toaứn quoỏc lần thửự IX, Nxb
CTQG, H.2001, tr.76
17


20

cấp trên kiểm tra việc xây dựng và thực thực hiện của cáp dưới , cấp dưới giám sát
việc việc thực hiện của cấp trên, nhưng trên thực tế, việc này chưa làm được thường
xun”20.
Cịn tình trạng trên là do nguyên nhân khách quan từ tư tưởng phong kiên lạc
hậu, lối sống bản vị tiểu nông nền sản xuất nhỏ, vẫn còn ăn sâu bám rễ trong xã hội;

Cũng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và từ mặt trái của nền kinh tế thị trường
tác động; Trong tổ chức bộ máy và cơ chế chưa thật chặt chẽ thống nhất hợp lí một
số chính sách vẫn cịn bất cập; sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN và ảnh
hưởng của những tư tưởng tư sản, thủ đoạn tuyên truyền của các thế lực thù địch
chống phá Đảng và chế độ XHCN làm cho một bộ dao động niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng và sự thắng lợi của CNXH. Nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu
vì nhiều cán bộ đảng viên đã hiểu không đúng và chưa thống nhất về bản chất nội
dung vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ nên tách dời, hoặc nhấn mạnh một
chiều, giản đơn phiến diện; không nghiên cứu tổng kết thực tiễn nguyên tắc tập trung
dân chủ một cách thường xuyên; trong xây dựng và hướng dẫn thực hiện quy chế
chậm, thiếu cụ thể chung chung nên hiểu chưa thống nhất; chủ nghĩa cá nhân ích kỷ
vụ lợi phát triển đã làm giảm ý thức đấu tranh bảo vệ chân lý, dẫn đến dĩ hòa vĩ quý
dễ người dễ ta, không dám đấu tranh với những sai trái đối với cán bộ chủ trì có
chức có quyền; chưa có cơ chế đồng bộ cụ thể, bảo vệ những người thẳng thắn, bị
trù dập; công tác giám sát kiểm tra ở nhiều cấp chưa đúng mức, chưa sử lý nghiêm
những tập thể cá nhân vi phạm nghiêm trọng; việc phát huy vai trò của nhân dân
trong kiểm tra giám sát của cấp ủy chính quyền đối với cán bộ đảng viên chưa sâu
rộng, chưa quan tâm đúng mức; năng lực tổ chức thực tiễn và công tác cán bộ còn
yếu kém.
Những vấn đề trên trong quân đội đều có tuy ở những mức độ khác nhau
như: giải quyết mối quan hệ bí thư, thường vụ, chỉ huy chưa tốt; thường bí thư, chỉ
huy lâu dẫn đến độc đoán chuyên quyền, gia trưởng; quan hệ cấp trên cấp dưới chưa
chặt chẽ còn quan liêu gia trưởng, áp đặt, cán bộ chỉ hướng lên trên tìm cách đối phó
Hoaứng Vieọt Phửụng: ẹõi ủiều về thửùc hieọn ủiều leọ ẹaỷng khoựa IX (Phoự vú trửụỷng
vú toồ chửực- ẹiều leọ BCHTW), Taùp trớ coọng saỷn soỏ 01/2005 , Trang 27
20


21


và giải quyết mối quan hệ với trên, ít quan tâm xuống dưới, cóp nhặt bóp dưới để có
quan hệ với trên; chưa phát huy sức mạnh tập thể, chất chiến đấu trong sinh hoạt
chưa cao, nghị quyết thiếu cụ thể tính khả thi kém, nội bộ chưa đồn kết, có nơi mất
đồn kết kéo dài; một bộ phận cán bộ, đảng viên dĩ hòa vĩ quý, chấp hành pháp luật
kém.
Trước sự ra tăng chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối
với Đảng đối với lực lượng vũ trang, vào nguyên tắc tập trung dân chủ, bốn nguy cơ
Đảng ta cảnh báo vẫn tiếp tục tồn tại, đan xen tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự
nghiệp quốc phòng an ninh; các lực lượng phản động và thù địch sử dụng nhiều biện
pháp chống phá Đảng về tổ chức, trước hết là phủ nhận, vơ hiệu hóa ngun tắc tập
trung dân chủ, chúng ra sức tuyên truyền sự xụp ở Đông Âu và Liên Xô là do thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ coi dân chủ là tính từ, là phương tiện để tập
trung bớt đi cịn thực chấp là độc đốn chuyên quyền, mất dân chủ. Chúng ra sức
khuyếch trương ca ngợi tự do tuyệt đối kiểu CNTB, dùng con bài “dân chủ”, “nhân
quyền” để đòi hỏi Đảng mở rộng dân chủ tự do vô giới hạn, để tạo điều kiện cho bọn
phá hoại mặc sức chống phá, chúng kêu gọi phải “đa nguyên”, “đa đảng”, chia rẽ
Đảng với nhà nước và nhân dân; đối với quân đội chúng tìm mọi cách mua chuộc,
cài cắm lực lượng để phá hoại nội bộ, thực hiện chiêu bài “phi chính trị hóa” qn
đội, nhằm làm lu mờ bản chất giai cấp công nhân, chuyển hóa bản chất của quân đội;
sự chống phá của kẻ thù hiện nay đối với cách mạng nước ta, với nguyên tắc tập
trung dân chủ còn là sự kết hợp với quá trình từng bước áp đặt những giá trị tự do
kiểu TBCN trên thế giới.
Trước sự tác động trực tiếp mặt trái của cơ chế thị trường, sự biến động cơ
cấu giai cấp, mở cửa hội nhập, sự vận động biến đổi các chuẩn mực giá trị có nhiều
tắc động tiêu cực đến thực hiện nguyên tắc, nhất là tư tưởng quyền lực, thực dụng,
cơ hội bè phái đang có chiều hướng phát triển, cộng hưởng với tàn dư tâm lý thói
quen, tập quán tác phong của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, lối tư duy phong
kiến sản xuất nhỏ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ, nhận thức, hành



22

động, phong cách trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của tổ chức đảng
trong quân đội.
Hiện nay, vẫn cịn khơng ít ngồi hội nghị đã tỏ ra nhận thức mơ hồ trong đội
ngũ cán bộ đảng viên trong quân đội về bản chất tập trung dân chủ, về vai trò nội
dung nguyên tắc tập trung dân chủ. Có người cịn nói: bây giờ chỉ có vấn đề dân chủ
thôi, cái chúng ta cần bây giờ là dân chủ; nếu tiếp tục thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ và thực hiện chun chính vơ sản sẽ lại rơi vào con đường của Đảng
cộng sản Liên Xô và các Đảng ở Đông Âu trước đây, sớm muộn rồi cũng sụp đổ; có
người cịn u cầu khơng nên nói vai trị lãnh đạo của Đảng nữa...nẽn coự nhiều
ủaỷng ủoỏi laọp vỡ theo hó nguyẽn nhãn cuỷa tham nhuừng, quan lieõu laứ vỡ
chổ coự moọt ủaỷng, caực bieồu hieọn suy thoaựi về phaồm chaỏt, ủáo ủửực, loỏi
soỏng cuừng coự nguồn goỏc moọt ẹaỷng, muoỏn khaộc phúc ủửụùc caực teọ
nán naứy chổ coự caựch laứm cho coự nhieàu ủaỷng ra ủụứi21
Quân đội là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế
trận chiến tranh nhân dân, là lực lượng nòng cốt bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ Đảng bảo vệ nhân và bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa. Từ công cuộc CNH - HĐH đất nước, phương hướng xây dựng quân đội cách
mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại đang đặt ra cho quân đội nhiệm vụ
nặng nề, đa rạng , phức tạp, biến động và thường xuyên phát triển, đặt ra nhiều vấn
đề mới đối với sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Là một bộ phận của Đảng, tổ chức đảng trong quân đội tất yếu phải thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt, hoạt động của mình, nắm
vững bản chất là một yêu cầu khách quan, những nội dung trong điều lệ là cái chung
nhất, cái phổ biến, mọi tổ chức trong quân đội phải tuân thủ, song mọi tổ chức trong
quân đội lại có những đặc điểm riêng về nhiệm vụ về đối tượng lãnh đạo, điều kiện
hoạt động. Sức sống, giá trị của nguyên tắc chính ở sự nắm vững bản chất nội dung
và cụ thể hóa nội dung, và sự vận dụng đúng đắn sáng tạo những nội dung cơ bản

ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam , Vaờn kieọn hoọi nghũ laàn 6 (laàn 2) BCHTW Khoựa VIII, Nxb
CTQG, H.1999, t17
21


23

của nguyên tắc đã được điều lệ Đảng xác định, các quy định của tổ chức đảng cấp
trên vào điều kiện cụ thể tổ chức đảng, vì vậy quá trình thực hiện phải cụ thể hóa
những nội dung yêu cầu của nguyên tắc thành các quy định quy chế về chế độ sinh
hoạt, hoạt động thành trách nhiệm quyền hạn, của từng tổ chức đảng, đảng viên,
chức trách các mối quan hệ cụ thể phù hợp với chức năng nhiệm vụ, tình hình cụ thể
ở từng tổ chức đảng.
Như vậy, rõ ràng trong tình hình hiện nay, tổ chức đảng trong quân đội phải
nắm vững bản chất nội dung, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ.
Mở rộng dân chủ, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong tổ chức đảng, cần phải “nhận
thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ; đồng thời có cơ chế thực
hiện những nội dung đó”22, vì dân chủ là bản chất, là nội dung, là động lực của xã
hội mới, đồng thời phải giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tính tập trung cao.
2.2. Những giải pháp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
bộ quân đội hiện nay.
2.2.1. Bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
nâng cao phẩm chất, năng lực một mặt cho đảng viên, cấp ủy các cấp. Quán triệt cho
cán bộ đảng viên nhận thức đầy đủ thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc
biệt nắm vững bản chất, nội dung, vai trò, mối quan hệ biện chứng giữa tập và dân
chủ, gắn liên hệ kiểm điểm về nhận thức với thực hiện nguyên tắc này. Cần phải tiếp
tục cụ thể hóa nội dung yêu cầu của nguyên tắc thành chức trách nhiệm vụ quyền
hạn và các mối quan hệ, chế độ công tác của từng cán bộ đảng viên của từng cấp ủy.
Kinh nghiệm hoạt động của Đảng chỉ rõ: “để thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ , phải nhận thức đúng và thống nhất nội dung bản chất của tập trung

dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ”23. Nắm vững
vai trò nội dung bản chất là cơ sở để nhận thức và thực hiện đúng, tránh được sai
lầm khuyết điểm, là cơ sở để nhận rạng phân biệt đúng sai, lệch lạc, hoặc cách làm
sai trái những biến dạng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Phải tổ chức học tập nắm
vững vai trò, nội dung, bản chất, nắm vững điều lệ Đảng, các quy định về tổ chức
Baựo caựo xaõy dửùng ẹaỷng vaứ ẹiều leọ ẹaỷng ẹái hoọi VII, Nxb Sửù thaọt, H.1991, tr.11
ẹaỷng coọng saỷn Vieọt Nam, Baựo toồng keỏt xaõy dửùng ẹaỷng thụứi kyứ 1975-1995, Nxb
CTQG, H.1996, tr169
22
23


24

lãnh đạo của Đảng trong quân đội, các chỉ thị hướng dẫn của trên về thực hiện
nguyên tắc.
Chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ được nâng cao trên cơ
sở thống nhất về chính trị, tư tưởng, với nền tảng giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, ở thái độ trách nhiệm chính trị, ở lối sống trong sạch lành
mạnh tự giác chấp hành kỷ luật, chấp hành nghị quyết Đảng, tích cực chống tư
tưởng thực dụng cơ hội, tham nhũng đặc quyền đặc lợi, thiếu tơn trọng cố tình làm
sai nghị quyết, vi phạm các điều cấm, quan liêu xa dời quần chúng.
Nắm vững tinh thần nghị quyết TW6 (lần 2) Khóa VIII, để khắc phục nhận
thức bản chất nội dung chưa đầy đủ, thống nhất; nhận thức về quyền hạn nghĩa vụ
chưa sâu sắc, tính tự giác và tính chủ động chưa cao dẫn đến lời nói, việc làm trái
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần phải định kỳ thường xuyên tiến hành kiểm điểm
việc nhận thức và thực hiện của cấp ủy, đảng viên thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ. Trong quá trình kiểm điểm phải chỉ rõ được kết quả, thành tựu, những hạn chế
khuyết điểm, đối với tập thể cá nhân vi phạm, nguyên nhân xác định biện pháp khác
phục hạn chế khuyết điểm. Đối với tập thể cá nhân vi phạm nguyên tắc phải kiên

quyết sử lý nghiêm minh, thường xuyên chấn chỉnh tổ chức, kịp thời kiện toàn cán
bộ lãnh đạo.
2.2.2. Tiếp tục thực hiện NQ 79 của ĐUQS TW để xây dựng ban hành các quy
định, quy chế chặt chẽ khoa học, nhằm cụ thể hóa hơn nữa các nội dung nguyên tắc
tập trung dân chủ, nhất là bảo đảm tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Xây dựng ban hành các quy định nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo
cá nhân phụ trách, xác định rõ nhiệm vụ chức trách của lãnh đạo chỉ huy các cấp, có
quy định cụ thể hơn về thiểu số phục tùng đa số. Thực hiện nghiêm túc chế độ bảo
lưu ý kiến khiếu nại của đảng viên.
Từ sau NQ79/ĐUQSTƯ việc xây dựng quy chế đã được triển khai đi vào nề
nếp, nội dung quy chế ngày càng chặt chẽ, sát tình hình cụ thể của đảng bộ từng đơn
vị. Qua thực tế cho thấy đây là biện pháp quan trọng không thể thiếu để nâng cao
chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đã giải quyết được các mối


25

quan hệ trong tổ đảng, cấp ủy, chỉ huy, cấp dưới cấp trên, cá nhân tổ chức. Vai trò
quan trọng của quy chế đã được đại hội đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VII khảng
định: “Xây dựng hệ thống quy chế, quy định, tiếp tục cụ thể hóa nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng vào hoạt động thực tiễn, bảo đảm được sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng trong mọi lĩnh vực hoạt động, xây dựng quân đội cách mạng
chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại”24, trong phần phương hướng nghị quyết
cũng xác định: “thực hiện làm việc có kế hoạch, theo quy chế và sát cơ sở”25
Để cho các quy chế thực sự đi vào cuộc sống, có hiệu lực hiệu quả địi hỏi
phải tiếp tục cụ thể hóa hơn nữa về chức năng nhiệm vụ, phương thức tổ chức hoạt
động của các cấp ủy đảng phù hợp với tổ chức biên chế, nhiệm vụ của từng loại tổ
chức đảng. Xác định rõ nhiệm vụ chức trách của chỉ huy các cấp, có quy định cụ thể
thiểu số phục tùng đa số, có chương trình kế hoạch để tăng cường cơng tác kiểm cấp
trên và cấp dưới thực hiện nghiêm chế độ báo cáo xin ý kiến, và giải quyết khiếu nại

của đảng viên, từng bước hồn thiện quy chế về cơng tác cán bộ, có quy định rõ chế
độ cán bộ đi cơ sở để chỉ đạo tại chỗ, giúp cấp dưới tháo gỡ khó khăn.
2.2.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, duy trì nề nếp chế
độ tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ đầy đủ trong sinh hoạt Đảng, tăng
cường công tác kiểm tra thực hiện điều lệ Đảng, chỉ thị nghị quyết và các quy định
quy chế hoạt động của tổ chức đảng.
Giữ vững và tăng cường nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng,
phải thực hiện đẩy đủ dân chủ trong sinh hoạt, để mọi thành viên tham gia ý kiến
trên tinh thần thẳng thắn, các đề án chủ trương biện pháp phải được thảo luận kỹ.
Thực hiện nghiêm túc có nề nếp chất lượng chế độ phê bình và tự phê bình, bí thư và
người chỉ huy phải thực sự gương mẫu chí cơng vơ tư nghiêm túc trong tự phê bình,
phát huy dân chủ và có quy định phù hợp bắt buộc phải dân chủ lấy ý kiến quần
chúng đánh giá phê bình cán bộ đảng viên, có quy chế thật cụ thể để bảo vệ những
người có ý kiến thẳng thắn, đồng thời sử lý nghiêm minh những đảng viên lợi dụng
phê bình để vu cáo đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Đảng viên cán bộ phải giữ gìn
24
25

Vaờn kieọn ủái hoọi ủái bieồu toaứn quãn lần thửự VII, 2001, tr.32
Vaờn kieọn ủái hoọi ủái bieồu toaứn quãn lần thửự VII, 2001, tr.37


×