Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

227. MỤC TIÊU “ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN NỀN TẢNG CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH” LÀ SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT ĐÚNG CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM. Ý NGHĨA TRONG ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.44 KB, 14 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TÀI LIỆU
MỤC
MỤC TIÊU
TIÊU “ĐỘC
“ĐỘC LẬP
LẬPDÂN
DÂN TỘC
TỘC VÀ
VÀ CHỦ
CHỦ NGHĨA
NGHĨAXÃ
XÃ HỘI
HỘI TRÊN
TRÊN NỀN
NỀN
TẢNG
TẢNG CHỦ
CHỦ NGHĨA
NGHĨAMÁC
MÁC –– LÊ
LÊ NIN,
NIN, TƯ
TƯ TƯỞNG
TƯỞNG HỒ
HỒ CHÍ
CHÍ MINH”
MINH” LÀ
LÀ SỰ


SỰ
LỰA
LỰACHỌN
CHỌN DUY
DUYNHẤT
NHẤT ĐÚNG
ĐÚNG CỦA
CỦAĐẢNG
ĐẢNG VÀ
VÀ DÂN
DÂN TỘC
TỘC VIỆT
VIỆT NAM.
NAM. Ý
Ý
NGHĨA
NGHĨATRONG
TRONG ĐẤU
ĐẤU TRANH
TRANH TƯ
TƯ TƯỞNG
TƯỞNG LÝ
LÝ LUẬN
LUẬN HIỆN
HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021

2021


2

Mởđầu
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang đạt được những thành tựu quan trọng và
tiếp tục phát triển trong tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp. Báo cáo chính trị tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Nền kinh tế đó vượt qua
thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước,
bỡnh quõn trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối tồn diện.
Văn hố và xó hội cú tiến bộ trờn nhiều mặt; việc gắn phỏt triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xó hội cú chuyển biến tốt, nhất là trong cụng cuộc xoỏ đói,
giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xó hội ổn
định, quốc phũng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát
triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa có tiến bộ trên
cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực”1.
Tuy vậy, bên cạnh những thời cơ lớn, vận hội lớn, chúng ta cũng đang đứng
trước khơng ít thử thách cam go. Trong tình hình đó, một số người do phai nhạt
lý tưởng, thoái hoá biến chất và do cả sự cơ hội về chính trị, bị kẻ thù làm lung
lạc ý chí đã đưa ra một số quan điểm làm phân tâm xã hơị, có tác động tiêu cực
tới quá trình đổi mới, quá trình đẩy mạnh phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng và thối trào. Sự tan rã của
Liên Xơ, của các chế độ xã hội chủ nghĩa châu Âu và của hệ thống xã hội chủ
nghĩa nói chung là bằng chứng nói lên tính vơ vọng cho bất kỳ nước nào, khi còn
1


Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.


3

xem chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của sự phát triển (!). Với mức độ mềm dẻo
hơn, mang tính "khách quan", "thực tế" hơn, có người cho rằng, trước năm 1945,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đúng là mục tiêu, lý tưởng của chúng ta.
Nhưng, giờ đây, đất nước đã hồ bình, độc lập, thống nhất mà vẫn xem "độc lập
dân tộc là mục tiêu" thì hồn tồn vơ nghĩa…
Tất cả những ý kiến ấy, vơ tình hay cố ý, đều bỏ qua hiện thực lịch sử mà hầu
hết những người có lương tri khơng chỉ trong dân tộc, mà trên thế giới thừa nhận
là: Sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những bước tiến
to lớn không chỉ trong cuộc đâú tranh cho độc lập dân tộc, mà cả trong quá trình
xây dựng xã hội mới – xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn hơn 77 năm lãnh đạo cách mạng và sau hơn 20 năm lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới đất nước, những thành quả cách mạng cùng những thành tựu mà
Đảng ta, dân tộc ta đạt được…đều là những kỳ tích vĩ đại của sự nhất quán và
kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Báo cáo chính trị tại
đại hội X, Đảng ta đã tổng kết và rút ra 5 bài học, trong đó bài học số 1 là:
“trong quỏ trỡnh đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xó hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”1, đó là lựa
chọn của lịch sử và duy nhất đúng của nhân dân ta. Phát huy những bài học kinh
nghiệm đã được tích luỹ trong q trình đó, phát triển và vận dụng sáng tạo
chúng vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc sẽ mang lại triển vọng huy hoàng cho mọi
quốc gia đang và sẽ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nước ta là
một điển hình.
Với ý nghĩa đó, ở tiểu luận này, tác giả không tham vọng đề cập tất cả các bài
học được Đảng ta rút ra trong quá trình đổi mới. Tác giả tập chung phân tích,
1


Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.


4

làm rõ bài học 1 với nội dung là: kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xó hội trờn nền tảng chủ nghĩa Mỏc - Lờnin và tư tưởng Hồ Chí Minh” là
sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng và dân tộc ta, từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn
trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
I. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội - lơ gíc phát triển tất yếu
của xã hội Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trước hết, cần khẳng định: Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
có nội dung mang tính lịch sử, cụ thể. Trong các giai đoạn khác nhau, trong các
thời kỳ khác nhau của cuộc cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo, mục tiêu đó
mang nội dung khơng hồn tồn như nhau.
1.1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX.
Ngược dòng lịch sử, trở lại những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở
nước ta: Thực dân Pháp sau khi buộc triều Nguyễn bạc nhược đầu hàng, chúng đã cơ
bản đặt ách thống trị lên nước ta và bắt đầu áp dụng chính sách thống trị thuộc địa
phản động tồn diện: chun chế về chính trị; vơ vét, bóc lột về kinh tế; nơ dịch về
văn hố.
Chính quyền thực dân khơng xố bỏ chế độ phong kiến và những di tích
lạc hậu của chế độ qn chủ như nó đã làm ở phương Tây, mà cải biến và sử
dụng chế độ phong kiến, biến nó thành cơng cụ tay sai để thống trị, đàn áp nhân
dân Việt Nam. Từ đó, trong xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, phong kiến; mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược, trực tiếp là đế quốc Pháp và bè lũ tay

sai câu kết chặt chẽ với nó.


5

Trong hai mâu thuẫn vừa nêu, mâu thuẫn thứ hai có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Để giải quyết mâu thuẫn đó, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã
nổ ra; nhiều biện pháp, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đã được khảo
nghiệm.
Đơng du khơng có kết quả, một số sĩ phu yêu nước (như Phan Chu Trinh,
Phan Văn Trường) tìm sang Pháp với hy vọng bằng con đường nghị trường để
cứu nước...Song, đi sang phương Tây với con đường cứu nước như vậy cũng
không thành.
Bên cạnh con đường hồ bình, ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX, một số người
yêu nước theo ý thức hệ phong kiến cũng đã nghĩ tới con đường bạo lực. Tôn
Thất Thuyết đã chủ trương kiên quyết sử dụng bạo lực để chống lại sự xâm lược
của đế quốc Pháp. Chiếu "Cần Vương" do ông soạn thảo và được Vua Hàm Nghi
chấp thuận đã thể hiện đậm nét tư tưởng này. Nhờ đáp ứng đúng nhu cầu của
nhân dân, chiếu Cần Vương đã được quần chúng khắp nơi hưởng ứng. Đồng bào
nhiều nơi ở khắp Bắc, Trung, Nam đã nổi dậy dùng bạo lực để chống lại thực
dân Pháp. Ở Nam Bộ có Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Trương Định...
Ở Trung Bộ có khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng, khởi nghĩa Ba
Đình,...Ở Bắc Bộ có khởi nghĩa n Thế...Con đường bạo lực đó dường như
diễn ra liên tục trong một thời gian khá dài.
Mặc dù không thiếu dũng cảm và quyết tâm, nhưng kết cục chung của tất
cả các phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến và các
phong trào phản kháng trên đây của nông dân đều thất bại.
Cũng trong thời kỳ này, một số đảng chính trị ít nhiều mang tính tích cực
theo khuynh hướng tư sản đã ra đời. Một trong những số đó là Việt Nam Quốc
dân Đảng của Nguyễn Thái Học (được thành lập năm 1927). Trong các phong



6

trào đó, những hoạt động của các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và
Nguyễn Thái Học là tiêu biểu, mang khuynh hướng mới rất đậm nét và có ý
nghĩa nổi bật.
Thất bại của phong trào Cần Vương cũng chính là thất bại của hệ tư tưởng
phong kiến.
Thất bại của Nguyễn Thái Học cũng đánh dấu điểm kết thúc luôn vai trò lịch
sử của giai cấp tư sản bản xứ và con đường cứu nước trên lập trường tư sản, tiểu tư
sản để hướng sự phát triển của đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Nguyên nhân cơ bản khiến cho các phong trào đó khơng thành cơng là
chưa có một lý luận cách mạng khoa học soi đường, chính vì vậy, chưa xác định
đúng đối tượng, lực lượng, phương thức tiến hành đấu tranh giải phóng. Nói
cách khác, khơng có đường lối cứu nước nào nảy sinh từ thực tiễn đấu tranh của
nhân dân ta khi đó có thể chỉ ra con đường và cách thức đúng đắn giải quyết
những vấn đề cơ bản, cấp bách đang đặt ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam: độc
lập và dân chủ.
Trước khi đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất
Thành (sau đó, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã làm "cuộc
đại tổng kết lịch sử", nhìn nhận, đánh giá một cách có hệ thống mọi con đường
mà các bậc tiền bối đã đi qua.
- Con đường của cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật, đánh Pháp chẳng khác
gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
- Cụ Phan Châu Trinh định dựa vào Pháp để canh tân đất nước khác nào
"xin giặc rủ lòng thương".
- Chủ trương cầm súng chống Pháp của cụ Hồng Hoa Thám khả dĩ hơn,
nhưng Cụ cịn mang nặng cốt cách phong kiến.



7

- Con đường nghị viện mà Phan Văn Trường chủ trương, thử nghiệm
cũng khơng đem lại kết quả.
Vì vậy, tuy Nguyễn Ái Quốc rất kính trọng các cụ, nhưng khơng đi theo
con đường của các cụ.
Trong tư tưởng, nhận thức của Người, chỉ có tinh thần yêu nước truyền
thống, ý chí bất khuất; chỉ với sức mạnh của truyền thống lịch sử sẽ không thể
nào chiến thắng được quân xâm lược trong thời đại mới. Để giành được thắng
lợi, nguồn sức mạnh đó cần được nâng lên một chất lượng mới và cùng với nó,
điều căn bản hơn là phải nhận biết được thời đại đang sống, tìm ra nguồn sức
mạnh mới, động lực mới cả trong nước và trên trường quốc tế .
Năm 1911, Người lên tàu đi tìm đường cứu nước. Trải qua 21 năm đi khắp
năm châu bốn biển, Người thấy rằng, dù ở nước Pháp, nước Anh hay nước Mỹ,
vẫn có sự phân cực giàu nghèo. Tại đó, bên cạnh thiểu số những kẻ giàu có sống
phè phỡn bằng áp bức, bóc lột là đại đa số những người lao động cơ cực. Nói
cách khác, ngay ở các "chính quốc" - nơi có độc lập dân tộc - cũng phân chia
thành thiểu số những kẻ giàu có và số đơng những người nghèo khổ; ở đó cũng
khổ cực, cũng nhức nhối nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc; ở đó, độc lập dân tộc
khơng đi liền với ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Người cũng nhận ra rằng, mặc dù nước Pháp, nước Anh vốn là quê hương
của các cuộc cách mạng tư sản, là những cường quốc đang lớn tiếng cổ xuý cho
các khẩu hiệu bình đẳng, tự do..,nhưng các thuộc địa của họ, dù ở châu Á, châu
Phi hay các nước Mỹ Latinh, đều là địa ngục trần gian đối với người bản xứ và là
thiên đường của bọn thực dân. Đối với khơng ít nhà cách mạng của các dân tộc
thuộc địa, cách mạng tư sản Anh, Pháp có thể cung cấp những nguyên mẫu đáng
noi theo, hào quang của các xứ sở đó có thể rọi sáng con đường giải phóng dân tộc



8

họ. Nhưng, đối với Nguyễn Ái Quốc, các cuộc cách mạng đó - cách mạng tư sản là
các cuộc cách mạng "không đến nơi"; con đường tư bản chủ nghĩa không thể là
khuôn mẫu, là cứu cánh cho các dân tộc đang rên xiết dưới ách thực dân và đang
khát khao một con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp để tiến tới một xã
hội, mà ở đó có sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho
quảng đại quần chúng.
Theo Người, những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư sản chỉ là
những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn giải phóng, các dân tộc chỉ có
thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Chính lập trường u nước, lịng khát khao giải phóng dân tộc đã mang lại
cho Nguyễn Ái Quốc hòn đá thử vàng chắc chắn để không mơ hồ, lạc hướng trong
vô số các lý luận, các học thuyết nảy nở đủ màu, đủ sắc trong hoàn cảnh đương
thời. Ngay khi được biết về Quốc tế II, câu hỏi mà Nguyễn Ái Quốc đặt ra và có ý
nghĩa quyết định đối với sự lựa chọn lập trường chính trị của Người là Quốc tế đó
có giúp đỡ các dân tộc nô lệ và lệ thuộc đấu tranh giải phóng mình khơng ?
Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại (1917) đã mở ra
một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại, thời kỳ bắt đầu thắng lợi của cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Từ phía các dân tộc bị áp bức, khẩu hiệu mà Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng
vĩ đại của Trung Quốc, đưa ra: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh
phúc" đã phản ánh nhu cầu và niềm khát vọng chung của họ. Nhưng chưa có một
dân tộc thuộc địa nào tự mình đủ sức giành thắng lợi ở đầu thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, như trên đã đề cập, vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
mọi nỗ lực giải phóng dân tộc đều không thành công, mọi con đường cứu nước
đều bế tắc. Điều đó càng chứng tỏ rằng, các dân tộc thuộc địa không thể chỉ dựa


9


vào sức lực vốn có của mình để chiến thắng sự liên hiệp của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc. Nhu cầu tìm bạn đồng minh cũng đã đặt ra cho tất cả các dân tộc phụ
thuộc, thuộc địa. Những điều kiện để thoả mãn nhu cầu đó đã xuất hiện: cả phía
giai cấp vơ sản lẫn phía các dân tộc bị áp bức đều có nhu cầu kết hợp với nhau
để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, hoàn cảnh lịch sử chung
của thời đại đã phát triển tới mức đặt song hành cuộc đấu tranh giải phóng của
giai cấp vơ sản quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
và tạo ra đầy đủ tiền đề để hai cuộc cách mạng này kết hợp với nhau.
Từ thực tế đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận mang tầm chiến lược là: Trong
thời đại ngày nay, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào
khác, ngồi con đường cách mạng vơ sản. Người khẳng định dứt khốt rằng, chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, rằng muốn độc
lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội”… Hồ Chí Minh chủ trương soạn thảo
chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, thành lập Đảng và dẫn dắt cách mạng
Việt Nam theo mục tiêu đã chọn. Thực tiễn thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
là bằng chứng, chứng minh hùng hồn cho điều đó.
1.2. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sau thống nhất đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Như phân tích ở trên cho thấy: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội vào trước 1945, có nội dung trực tiếp nhất là đấu tranh giành chính quyền về
tay nhân dân; xố bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tạo tiền đề
chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội cho việc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Trong thời kỳ từ 1954 đến ngày 30-4-1975, mặc dù miền Bắc đã
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng đấu tranh cho hồ bình, độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước, quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là nhiệm vụ


10


chính trị số một, bao trùm trong cả nước. Mục tiêu "độc lập dân tộc" lúc đó là
giữ vững thành quả độc lập dân tộc mà nhân dân miền Bắc đã đạt được, loại bỏ
sự thống trị của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của Mỹ ở miền Nam nhằm làm
cho miền Nam thoát khỏi ách chủ nghĩa thực dân mới. Chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một chế độ xã hội mang đầy đủ những đặc trưng bản chất của mình vẫn
là mục tiêu, lý tưởng cần vươn tới đối với cả nước.
Tuy nhiên, từ sau ngày 30-4-1975, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn
là mục tiêu, nhưng mang nội dung mới; đó khơng cịn là đấu tranh giành và giữ
chính quyền, xố bỏ sự thống trị của đế quốc, thực dân; đó khơng cịn là giữ
vững thành quả độc lập dân tộc mà nhân dân miền Bắc đã đạt được, loại bỏ sự
thống trị của đế quốc Mỹ…,mà đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các luồng
tư tưởng đa chiều, đa diện… để rồi quyết định đi hay không đi lên chủ nghĩa xã
hội.v.v…
Tư tưởng ở một số người lúc đó cho rằng, do hai miền cịn có những khác
biệt đáng kể về kinh tế và nhiều vấn đề khác, nên chưa thống nhất đất nước vội.
Hãy để miền Nam làm tiếp nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, đến
khi giữa hai miền có sự hồ đồng thì sẽ tiến hành thống nhất đất nước, tiến lên
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước (!); hoặc để miền Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa một thời
gian, sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội (!); hay miền Nam nên xác lập chế độ
dân chủ nhân dân một cách triệt để và trung lập để tranh thủ sự giúp đỡ của mọi
nước có các thể chế chính trị khác nhau nhằm tạo những tiền đề cần thiết rồi sẽ
tiến lên chủ nghĩa xã hội (!).
Đối với chúng ta, kinh nghiệm lịch sử hiện đại chứng minh rằng, thống nhất
đất nước chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở độc lập dân tộc thực sự - độc lập trên


11

nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, từ đó sẽ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh

thần cần thiết cho việc bảo vệ vững chắc chủ quyền của dân tộc.
Đó cũng là nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân ta đi theo Đảng tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân khơng chỉ nhằm thốt khỏi ách đô hộ
của ngoại bang, cũng không phải chỉ nhằm thốt khỏi gơng cùm của phong kiến
để rồi lại rơi vào tình trạng bị bóc lột theo phương thức tư bản chủ nghĩa, mà
muốn tiến tới thoát khỏi mọi kiểu áp bức, bóc lột, mọi người đều được sống trong
ấm no, tự do và hạnh phúc. Muốn vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Vấn đề còn lại chỉ là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào,
theo mơ hình nào, chứ khơng phải là vấn đề có nên tiến lên chủ nghĩa xã hội hay
không ?
Bằng việc kiện định với học thuyết Mác-Lênin, trung thành và vận dụng
sáng tạo lý luận đó vào điều kiện nước ta, Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã vững vàng “chèo lái” đưa “con thuyền” cách mạng Việt Nam vững
bước trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.3. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Ngày nay, độc lập dân tộc với nghĩa thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới đã đạt được trong thực tế, nhưng việc giữ vững, củng cố và
phát huy thành quả đó trong xây dựng xã hội mới vẫn là một vấn đề không đơn
giản. Chủ nghĩa đế quốc nói chung, đế quốc Mỹ nói riêng đang ra sức sử dụng
nhiều con đường, bằng nhiều biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hố, khoa
học - cơng nghệ, dân tộc và tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất chế độ chúng ta,
thậm chí, nhằm xác lập trở lại quyền thống trị của chúng cùng bè lũ tay sai.
Do đó, mục tiêu "độc lập dân tộc" hiện nay được biểu hiện rõ nhất ở chỗ
bảo đảm có đường lối độc lập, tự chủ trong phát triển đất nước. Nó xa lạ với mọi


12

sự sao chép bên ngoài, ỷ lại bên ngoài, lệ thuộc bên ngồi. Cùng với cái đó, một
nội dung khơng kém phần quan trọng là bảo đảm độc lập tự chủ trong chủ động

hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; tiếp thu những tinh hoa của nhân loại,
nhưng phải giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngay với nghĩa cổ điển của từ đó, độc lập dân tộc giờ đây cũng không
phải không đứng trước những nguy cơ. Sự vi phạm độc lập, chủ quyền vùng
biển, vùng trời, biên giới đất liền và hải đảo vẫn thường xuyên diễn ra với mức
độ khác nhau. Vấn đề "Nhà nước Đê Ga độc lập" vẫn âm ỉ là một minh chứng
cho điều đó...Việc bảo đảm tồn vẹn chủ quyền quốc gia vẫn thường xuyên được
đặt ra. Với những ý nghĩa như vậy, độc lập dân tộc của chúng ta vừa là một hiện
thực lịch sử, vừa là một mục tiêu ngay trong giai đoạn hiện nay và cả trong một
tương lai khơng ngắn.

Chúng ta thấy rõ mưu đồ đó qua nhiều thủ đoạn, nhiều tuyên bố của giới
cầm quyền Mỹ và bè lũ tay sai cùng những hành động thực tế của chúng. Ngay
khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ cịn đang trong q trình đàm phán và sơ
bộ được ký kết, trên tờ Thời báo Oa sinh tơn có đoạn: "Việc ký kết bước đầu
Hiệp định Thương mại với Việt Nam ngày 25/7 đánh dấu chặng đường cuối cùng
trên con đường nước Mỹ trở lại Đông Dương sau cuộc chiến Việt Nam. Oa sinh


13

tơn hy vọng rằng, các cải cách kinh tế và mậu dịch được kích thích bởi Hiệp định
này sẽ gíup Mỹ, bằng con đường thương mại, hoàn thành được những gì đã khơng
thể hồn thành được bằng đại bác: Chuyển hố một chính quyền cộng sản sang
một xã hội cởi mở". Ai cũng biết, "xã hội cởi mở" mà Mỹ nói ở đây chính là xã
hội tn theo những chuẩn mực dân chủ, nhân quyền của Mỹ , tức là một nước lệ
thuộc Mỹ.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn luôn là mục tiêu của
chúng ta.
Hiện nay, sự khủng hoảng, thoái trào của chủ nghĩa xã hội với tư cách

một chế độ xã hội không phải là cơ sở để ai đó đi tới kết luận rằng, chủ nghĩa xã
hội là một sai lầm lịch sử; rằng, "chủ nghĩa tư bản muôn năm"; rằng, chủ nghĩa
tư bản là triển vọng duy nhất và cuối cùng của mọi dân tộc, của mọi quốc gia. Sự
khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội chỉ là khủng hoảng của một kiểu, một mơ
hình bị biến dạng của chủ nghĩa xã hội. Từ kinh nghiệm thành công và chưa
thành công của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ những tri thức và kinh
nghiệm mới mà loài người đã tạo ra trong những thể chế chính trị- xã hội khác
nhau trong hiện thực lịch sử và thời đại, những người mác-xít có khả năng đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ
vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ không chỉ thốt khỏi khủng hoảng, mà cịn có bước phát
triển rực rỡ trong tương lai. Thắng lợi to lớn của Trung Quốc trong quá trình cải
cách và mở cửa trong 26 năm qua, những thành tựu to lớn mà Việt Nam đạt được
trong hơn 17 năm đổi mới là một thực tế khơng ai có thể phủ nhận. Phát huy
những bài học kinh nghiệm đã được tích luỹ trong q trình đó, phát triển và vận
dụng sáng tạo chúng vào hịan cảnh của mỗi dân tộc sẽ mang lại triển vọng huy
hoàng cho mọi quốc gia đang và sẽ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


14

Hơn nữa, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng ta đã quan niệm độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không phải là hai mục tiêu khác nhau, bên ngoài
nhau. Độc lập dân tộc mà chúng ta cần có là độc lập dân tộc của một nước xã hội
chủ nghĩa. Chỉ khi đó, độc lập dân tộc mới đi liền với ấm no, tự do, hạnh phúc
chung của nhân dân. Độc lập dân tộc là thuộc tính nội tại của chủ nghĩa xã hội với
tư cách một chế độ xã hội; khơng có độc lập dân tộc thì khơng có xã hội xã hội chủ
nghĩa.




×