Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.61 KB, 16 trang )

Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
Ở nước ta, vấn đề an sinh xã hội được đặt ra từ rất sớm. Là một nước chủ yếu là nông nghiệp, nền kinh tế còn chưa phát
triển, lại thường phải gánh chịu nhiều thiên tai, địch hoạ nên mầm mống về an sinh xã hội đã có trong các câu ca dao như:
“lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, hoặc “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”… các câu thành ngữ ấy đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta; góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã
hội về các hoạt động mang nội dung an sinh xã hội và dần dần được Nhà nước (kể từ thời phong kiến cho đến nay) xây
dựng thành các chính sách.
Giai đoạn (1945-1985), Nhà nước ta ban hành rất nhiều văn bản. Có tới hàng ngàn văn bản liên quan đến các vấn đề xã hội
đó là BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước; cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro
trong cuộc sống; ưu đãi xã hội đối với những người có công với nước… Một đặc điểm nổi bật của hoạt động an sinh xã hội
ở Việt Nam trong thời kỳ này là do Nhà nước thực hiện. Nhà nước đảm nhiệm hai chức năng: vừa là người ban hành chính
sách vừa là người thực hiện chính sách thông qua bộ máy của mình.
Nguồn tài chính để thực hiện an sinh xã hội chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, sự đóng góp của người dân là rất ít. Với cơ
chế điều hành theo kiểu hành chính, mệnh lệnh đã dẫn đến là Nhà nước không phát huy được những nguồn lực cho hoạt
động an sinh xã hội. Về phía xã hội thì lãng phí nguồn lực nhưng phân phối lại mang tính bình quân. Còn về phía người lao
động thì hoàn toàn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Đến khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới, đưa nền kinh
tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các hoạt động an sinh xã hội mới có sự thay đổi về
cơ bản.
Giai đoạn 1986 đến nay, cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống
kinh tế – xã hội năng động hơn, đa dạng và phong phú hơn. Người dân có nhiều cơ hội, điều kiện hơn để phát huy tiềm
năng sức sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động xã hội. Mặt khác kinh tế thị
trường cũng đặt ra nhiều thách thức như: Phá sản, thất nghiệp là những nguy cơ luôn tiềm ẩn các tệ nạn xã hội, phân hóa
giàu nghèo là điều khó tránh khỏi… Những rủi ro này làm tăng nhu cầu về an sinh xã hội của người dân. Đặc trưng cơ bản
của an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn này là đã có sự chuyển giao dần “công việc” từ
Nhà nước sang cho xã hội, cho cộng đồng.
Nổi bật nhất trong các bộ phận an sinh xã hội của Việt Nam đó là BHXH. Đây là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất
của hệ thống an sinh xã hội nhằm góp phần ổn định đời sống người lao động và gia đình họ trong các trường hợp: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Nếu như
trước đây, đối tượng BHXH ở nước ta chỉ bó hẹp trong phạm vi công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang; tài
chính BHXH chủ yếu là do ngân sách Nhà nước đảm nhận thì đến nay:
- Đối tượng tham gia BHXH mang tính xã hội rộng lớn, được áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan, tổ chức,


doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế số người tham gia BHXH không ngừng tăng lên hàng năm. Năm 1995, có 2,85
triệu người tham gia BHXH thì đến cuối năm 2003 là 5,24 triệu người.
- Hình thành được hệ thống BHXH Việt Nam thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Với hệ thống tổ chức này, lần
đầu tiên việc thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH chi trả cho các đối tượng, xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH đã được tập trung
vào một đầu mối. Về thực hiện chế độ, nếu tính cả 8 năm qua, BHXH đã giải quyết cho 1.055 triệu người nghỉ hưu và trợ
cấp BHXH một lần, bình quân mỗi năm tăng 40 vạn người, bằng khoảng 1% nguồn lao động xã hội. Trong khi đó, các đối
tượng được hưởng trợ cấp lại đều chưa có tài khoản cá nhân, phương thức chi trả chủ yếu là chi trực tiếp.
- Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Với mức đóng góp 5% của người lao động và 15% của người sử dụng lao
động theo Điều lệ BHXH đã làm cho quỹ BHXH hình thành trên thực tế và trở thành quỹ tài chính độc lập với ngân sách
Nhà nước. Như vậy, các quan hệ tài chính trong BHXH đã được thể hiện rõ ràng các nguồn thu và các khoản chi BHXH đã
được cân đối một cách tổng thể. Sự đóng góp BHXH của các bên còn thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ
trong BHXH.
- Việc tổ chức BHXH được tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH và cơ
quan quản lý sự nghiệp BHXH. Sự quản lý quỹ BHXH tập trung thống nhất đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện
tốt nghĩa vụ của mình đối với người lao động, nâng cao trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người lao động của cơ quan
BHXH và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về BHXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
- Việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các
quyền lợi về BHXH. Nguyên tắc này đã làm thay đổi một cách cơ bản nhận thức của hàng triệu lao động và người sử dụng
lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, làm cho chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào cuộc
sống, bảo đảm sự công bằng những người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ BHXH.
- Nhìn chung, chính sách BHXH hiện hành đã góp phần tích cực vào việc làm lành mạnh hóa thị trường lao động ở nước ta,
góp phần thực hiện bình đẳng xã hội và ổn định xã hội.
- BHYT được triển khai ở nước ta đến nay được 12 năm. Mặc dù những năm đầu còn gặp rất nhiều khó khăn, song từ khi
Chính phủ ban hành Nghị định số 58/1998/NĐ-CP kèm theo Điều lệ BHYT mới, công tác quản lý và tổ chức thực hiện
chính sách BHYT từ Trung ương đến các địa phương đã đi vào nền nếp. BHYT với bản chất nhân văn, có tính cộng đồng
cao đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân. Số người tham gia BHYT liên tục tăng qua các năm, kể cả
BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. Nếu như năm 1993 (năm đầu triển khai BHYT) chỉ có 3,8 triệu người tham gia, số
thu đạt 111 tỷ đồng, thì đến năm 2003, số người tham gia đã lên tới 16,8 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước.
Bên cạnh đó, chế độ BHXH hiện hành đang đặt ra một số vấn đề cần có giải pháp phù hợp. Đó là:

- Đối tượng tham gia BHXH còn rất hẹp. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam hiện nay thì cả nước có khoảng 39 triệu lao
động, trong đó có khoảng 9 triệu lao động có quan hệ lao động nhưng mới có khoảng 6 triệu người thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc (chiếm khoảng 14% lực lượng lao động xã hội). Trong số đó, chỉ có khoảng 4,4 triệu người đóng BHXH
mà chủ yếu là lao động thuộc khu vực Nhà nước, số lao động làm việc ở các cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh
(kể cả liên doanh) tham gia BHXH còn thấp, khoảng gần 5.000 doanh nghiệp với số lượng người lao động khoảng gần
400.000 người, con số này chỉ chiếm khoảng 20% tổng số lao động ngoài quốc doanh thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc.
Như vậy, còn lại một số lượng lớn lao động chưa được tham gia BHXH, đặc biệt là trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp… ngoài quốc doanh.
- Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động từ trước đến nay còn rất lớn làm ảnh hưởng tới việc giải quyết
quyền lợi của người lao động. Tính đến năm 2001 ước tính thất thu khoảng hơn 300 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là chưa
có giải pháp tích cực chống thất thu, chế tài chưa đủ mạnh để buộc người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ.
- Mức đóng BHXH hiện nay còn thấp, nếu giữ nguyên tỷ lệ 20% thì có khả năng bị hụt quỹ trong tương lai.
- Trong các chế độ BHXH hiện hành còn chưa có chế độ bảo hiểm thất nghiệp, trong khi thị trường lao động biến động,
khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp tăng, người lao động mất việc làm chưa được hưởng hỗ trợ cần thiết…
- Về chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: cách xác định tai nạn lao động theo như quy định hiện nay là chưa
rõ ràng, đặc biệt trường hợp tai nạn lao động trên đường đi từ nhà ở đến nơi làm việc và ngược lại rất khó xác định. Đây là
vấn đề gây bất cập nhất, có khả năng phát sinh tiêu cực trong việc thực hiện chế độ trợ cấp này. Một điểm hạn chế nữa là
việc trả trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp dựa trên tiền lương tối thiểu là chưa phù hợp với nguyên tắc đóng –
hưởng BHXH.
- Loại hình BHYT tự nguyện hiện nay tuy số người tham gia tăng nhanh, song mức phí phải đóng lại quá thấp (chủ yếu tập
trung ở mức từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng/người/năm), trong khi đó giá thuốc, giá viện phí lại có xu hướng tăng lên đã
làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khám chữa bệnh.
Về ưu đãi xã hội
Kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Đảng và nhân dân đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách
ưu đãi đối với người có công và đạt được những thành tựu to lớn. Chính sách ưu đãi người có công không ngừng được bổ
sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội qua từng thời kỳ.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác thương binh, liệt sỹ và người có công có bước phát
triển mới về chất, đó là việc ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp
lệnh ưu đãi người có công với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành có tác dụng to lớn sâu
rộng về chính trị, xã hội được toàn dân hưởng ứng. “Pháp luật ưu đãi người có công đã được xây dựng hoàn thiện từ thấp

tới cao và gần đây nhất là Pháp lệnh ưu đãi người có công, là một bước tiến dài trong việc pháp điển hoá pháp luật, đáp ứng
đòi hỏi tất yếu của cuộc sống, kế thừa những mặt hợp lý, xây dựng những quy phạm pháp luật mới trở thành công cụ quản
lý của Nhà nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội”.1
Ưu đãi xã hội đối với người có công bước đầu đã bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Người có
công được chăm lo, đền đáp, đền ơn trả nghĩa, người cống hiến hy sinh nhiều được chăm lo ưu đãi nhiều hơn. Họ được ưu
tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm ngoài ra những trường hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sỹ,
bà mẹ Việt Nam anh hùng được ưu tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo, phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa
phương và các đoàn thể xã hội.
Theo thống kê qua việc tổng kết cuộc cách mạng chính trị của Bộ chính trị – Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam có: “1,1
triệu người chiến đấu hy sinh, 600.000 thương binh, 300.000 người mất tích trong chiến đấu; 2 triệu người dân bị giết hại;
2 triệu người bị tàn tật; 2 triệu người bị nhiễm chất độc hoá học; 500.000 trẻ em bị dị dạng”.2
Những năm qua, việc thực hiện chế độ trợ cấp ưu đãi người có công đã đạt được kết quả tích cực. Đã chi trả chế độ trợ cấp
một lần cho khoảng 3 triệu người hoạt động kháng chiến được Nhà nước khen tặng Huân, Huy chương tổng kết thành tích
kháng chiến. Hoàn thành trả trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu người và khoảng 1,5 triệu thương binh, thân nhân
liệt sỹ, lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng… tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.3 Theo số liệu thống kê
từ Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, từ năm 1996 – 2002 ngân sách Nhà nước đã chi trả trợ cấp một lần và hàng tháng
cho những người có công với cách mạng, chi cho công tác qui tập mộ liệt sỹ, tu bổ nghĩa trang, nuôi dưỡng thương bệnh
binh, trợ cấp cho cán bộ đi các chiến trường B,C,K với tổng số tiền lên tới: 14.361 tỷ đồng.
Pháp lệnh sau 8 năm thực hiện, mặc dù có một ý nghĩa và vai trò to lớn trong đời sống xã hội nhưng cũng đã bộc lộ một số
mặt hạn chế. Pháp lệnh chưa ghi nhận đầy đủ đối tượng hưởng chế độ ưu đãi xã hội. So với điều kiện, tiêu chuẩn, xác nhận
đối tượng người có công và so sánh ngay với điều kiện, tiêu chuẩn, xác nhận đối tượng cụ thể, chúng ta thấy có những đối
tượng là người có công thực thụ lại không thuộc diện hưởng chế độ ưu đãi qui định ở Pháp lệnh này. Một số quy định ở
Pháp lệnh về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công thể hiện chung chung, thiếu tính cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, đôi
khi còn trừu tượng; chế độ ưu đãi về trợ cấp qui định ở Pháp lệnh có nhiều yếu tố chưa phù hợp. Các khoản trợ cấp, phụ
cấp và các khoản chi khác cho người có công được tính tương ứng với tiền lương. Vấn đề cơ bản là chế độ trợ cấp ưu đãi
chưa bóc tách khỏi chế độ tiền lương, chế độ BHXH. Có loại trợ cấp qui định bất hợp lý.
Sự hạn chế những vấn đề bất hợp lý lớn nhất ở Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng là ở những chế định ưu đãi
về kinh tế xã hội (ưu đãi ngoài trợ cấp). Ngoài chế độ trợ cấp thường xuyên, người có công được ưu đãi nhiều mặt của đời
sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực hiện như BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu
đãi nhà, đất. Còn khá nhiều chế độ ưu đãi khác qui định ở Pháp lệnh không đi vào đời sống. Chính vì thế, ý nghĩa, hiệu quả

của ưu đãi xã hội bị giảm bớt, mục tiêu nâng cao mức sống người có công sẽ còn phải phấn đấu lâu dài. Pháp lệnh cần qui
định cụ thể ưu đãi cho ai, ưu đãi như thế nào, trách nhiệm thực thi chế độ ưu đãi ..v..v.. về kinh tế xã hội để áp dụng vào
cuộc sống.
Tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi, kéo theo nhu cầu điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội, đặc biệt Nghị quyết
đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng, cương lĩnh phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nêu lên mục tiêu “Ưu đãi xã hội
phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội” thì vấn đề sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng là một tất yếu khách quan.
Cứu trợ xã hội
Trong những năm qua đi cùng với quá trình đổi mới đất nước, xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa… chúng ta đã thu được những thành quả lớn về kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, nước ta là nước nghèo, chịu hậu
quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai (bão lụt, hạn hán…) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản,
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và điều kiện phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường:
phân hoá giàu nghèo, chạy theo lối sống thực dụng suy giảm đạo đức, lối sống, thất nghiệp… đang là những nguyên nhân
làm tăng đối tượng xã hội: Người già cô đơn, người lang thang, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tệ
nạn xã hội… Đây là nhóm đối tượng cần có sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần của Nhà nước và xã hội. Theo số liệu của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt động này (chỉ tính riêng năm 2000) là 648,8 tỷ
đồng và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng hai năm 2000 – 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800
nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con
đường làm ăn lương thiện.
Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư
cho phát triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch.. do vậy đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ
phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội
một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm
sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng như: Pháp lệnh
người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi được Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ
xã hội… Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất,
thiếu đói… đều có chính sách trợ giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người
tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa
vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục,

chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm… và đặc biệt thường xuyên nhận được sự chăm sóc của cộng đồng
xã hội. Hệ thống chính sách đã thể hiện sự bình đẳng, công bằng xã hội.
Tuy nhiên, các qui định về cứu trợ xã hội cũng còn có những hạn chế nhất định như: Số đối tượng được hưởng chính sách
cứu trợ còn quá ít, cá biệt vẫn còn có tỉnh chưa thực hiện trợ cấp cứu trợ xã hội xã, phường hoặc chưa nâng mức trợ cấp
theo qui định tại Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Công tác xây dựng và bảo vệ kế hoạch ngân sách địa phương cho công tác
cứu trợ xã hội còn yếu, nhiều Sở Lao động – Thương binh và Xã hội không quan tâm đến mục chi ngân sách này. Trình độ
chuyên môn, kỹ năng quản lý của cán bộ còn hạn chế, nhất là đối với số cán bộ cơ sở (cấp huyện, xã). Công tác quản lý,
điều tra thống kê đối tượng đã được quan tâm chỉ đạo, nhưng do thiếu cán bộ, phương tiện và kinh phí nên làm chưa
thường xuyên và đầy đủ. Hệ thống văn bản hướng dẫn đôi khi còn chậm, nội dung còn có điểm chồng chéo. Công tác thanh
tra, kiểm tra đã được tiến hành nhưng chưa triệt để…
Một số ý kiến đóng góp
An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng
vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp
với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Để chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích cực
vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Pháp
luật về an sinh xã hội ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
Thứ nhất, về nguyên tắc luật an sinh xã hội phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau đây: Mọi thành viên trong xã hội
đều có quyền được hưởng an sinh xã hội; Nhà nước thống nhất quản ý vấn đề an sinh xã hội; kết hợp hài hoà giữa chính
sách kinh tế với chính sách xã hội; bình đẳng, dân chủ, công khai và công bằng xã hội; nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng
góp” kết hợp với “lấy số đông bù số ít”; đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động an sinh xã hội.
Thứ hai, về mặt văn bản pháp luật: Tiếp tục đẩy mạnh tiến độ xây dựng, rà soát văn bản. Bám sát chủ trương của Đảng,
định hướng phát triển kinh tế, xã hội, hình thành khung chính sách, xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện cho
đồng bộ; cần phải có một quy định chặt chẽ, nghiêm minh để xử lý những người có hành vi vi phạm đến chính sách an sinh
xã hội; cần phải có qui định trong việc giải quyết tranh chấp về an sinh xã hội; trong tương lai chúng ta nên xây dựng một
chính sách tổng thể cho vấn đề an sinh xã hội và thể hiện chính sách đó trong một đạo luật về an sinh xã hội, hơn là đưa ra
các chính sách đơn lẻ cho từng mảng nhỏ của an sinh xã hội và giải quyết từng mảng nhỏ đó trong từng đạo luật hạn chế.4
Thứ ba, về cơ chế thực hiện: Cơ chế thực hiện pháp luật nói chung và an sinh xã hội nói riêng đòi hỏi hệ thống pháp luật
xây dựng trên cơ sở phù hợp với thực tiễn. Khi pháp luật an sinh xã hội còn nhiều vấn đề cần giải quyết thì cần phải tập
trung nghiên cứu hoàn thiện những vấn đề sau đây:
Về BHXH:

* Xây dựng và hoàn thiện hệ thống BHXH làm cho nó trở thành trụ cột của mạng lưới an sinh xã hội.
* Cần mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động, dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào,
thuộc thành phần kinh tế nào, miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH như luật định.
* Cần phải qui định loại hình BHXH tự nguyện một cách cụ thể để thu hút mọi người tham gia BHXH. Đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện có thể là nông dân, xã viên hợp tác xã, lao động tự do… Mức đóng BHXH của các đối tượng này tuỳ
thuộc vào thu nhập của họ. Mỗi người lao động có thể tự lựa chọn các chế độ BHXH tự nguyện tương tự với các chế độ
của loại hình BHXH bắt buộc, ví dụ như chế độ hưu trí, tử tuất… Tuy nhiên, trong luật cần phải đặc biệt chú ý thế nào là
“tự nguyện” để khi họ tự nguyện tham gia rồi thì phải tham gia liên tục.
* Tiếp tục phát triển BHYT tự nguyện cho nông dân, lao động nông thôn và BHYT cho người nghèo. Nhà nước cần phải
đầu tư và mở rộng hệ thống y tế cộng đồng và địa phương để cung cấp các dịch vụ y tế cho người dân.
* Cần phải quy định thêm về chế độ bảo hiểm thất nghiệp vào các chế độ BHXH. Bảo hiểm thất nghiệp được quy định rõ
trong Công ước 102 của ILO. Đây là một dạng trợ cấp có liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính sách việc làm, chế độ thôi
việc. Xung quanh vấn đề này còn có những ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận của
chính sách việc làm gắn liền với quá trình lao động nên phải tổ chức riêng. Có ý kiến lại cho rằng đây chỉ là một bộ phận
của BHXH thông qua qui định trong Công ước 102. Sự không thống nhất này xuất phát từ quan niệm về thất nghiệp, người
thất nghiệp chưa được giải quyết thoả đáng. Theo chúng tôi, việc quy định chế độ bảo hiểm thất nghiệp chỉ nên qui định ở
dạng khung chính sách trong Luật BHXH, để từ đó có những quy định cụ thể bằng những văn bản dưới luật sao cho phù
hợp với đặc thù của chế độ này
* Cần có các biện pháp để bảo tồn và đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH phải được quản lý thống nhất dân chủ và công
khai. Để tăng nguồn thu – chi, Quỹ BHXH ngoài việc mở rộng đối tượng tham gia còn phải thu đúng, thu đủ và xử lý
nghiêm những trường hợp không đóng BHXH hoặc nộp phí BHXH kéo dài.
* Củng cố lại những cơ sở khám chữa bệnh BHYT, đề cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ thầy thuốc và cán bộ quản lý
BHYT nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh nhằm phục vụ cuộc sống ngày một tốt hơn, tiến tới BHYT toàn dân.
Về ưu đãi xã hội:
* Đảm bảo và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi xã hội.
* Pháp điển hoá đầy đủ, đồng bộ pháp luật ưu đãi, tạo ra một văn bản pháp luật mới có tính kế thừa, thống nhất, hiệu lực
pháp lý cao.
* Các chế độ ưu đãi phải gắn với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, với truyền thống đạo lý, đời sống văn hoá của
dân tộc Việt Nam như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Ưu đãi xã hội phải phù hợp
với sự tăng trưởng, tiến bộ và công bằng xã hội”.

* Chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội cần bóc tách ra khỏi chế độ tiền lương của cán bộ công chức. Trợ cấp ưu đãi qui định ở
Pháp lệnh phải phù hợp với qui định tại Hiến pháp và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và được cụ thể hoá tại Hội nghị
lần thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.
* Cần phải xây dựng các quy phạm xác nhận đối tượng, chế độ ưu đãi về trợ cấp, chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp, chế độ khen
thưởng, xử lý vi phạm và những hình thức, phương pháp quản lý Nhà nước trong lĩnh vực người có công.
Về cứu trợ xã hội:
* Cần phải mở rộng hình thức giúp đỡ đối tượng hưởng trợ cấp cứu trợ thường xuyên như có chính sách khuyến khích
động viên các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện xã hội hoá công tác cứu trợ xã hội.
* Mức cứu trợ hàng tháng cho các đối tượng còn thấp trong khi trượt giá năm sau cao hơn năm trước, do vậy cần phải có
cách tính để ổn định cuộc sống cho họ.
* Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
* Cần phải rà soát, giảm bớt những thủ tục hành chính đối với đối tượng khi được nhận trợ cấp xã hội.
* Cần phải đẩy mạnh công tác quản lý nắm chắc đối tượng tại cơ sở: lập sổ quản lý đối tượng tại xã, phường, định kỳ 6
tháng, 1 năm, rà soát danh sách và tổng hợp báo cáo.
Để đáp ứng yêu cầu của đất nước, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội phải trên cơ sở kế thừa và phát huy
những thành tựu lập pháp đã đạt được cũng như điều chỉnh các quan hệ mới theo điều kiện thực tế là rất cần thiết. An sinh
xã hội là nhu cầu thiết yếu của con người. Xã hội càng phát triển, đời sống của người dân nói chung và đối tượng “yếu thế”
nói riêng càng được tăng lên. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên, tình
trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng có nguy cơ gia tăng. Hệ thống an sinh xã hội còn hẹp (nhất là đối với khu vực
phi chính thức), nguồn lực đầu tư cho trợ giúp xã hội còn quá ít trong đó đối tượng, phạm vi cần được sự bảo trợ của xã hội
lại quá lớn. Vì vậy, hệ thống an sinh xã hội cũng có sự thay đổi theo xu hướng phát triển chung thì mới có thể phù hợp. Để
có được một hệ thống an sinh xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với các rủi ro xã hội không chỉ là mục tiêu phấn đấu của
mỗi quốc gia mà còn là sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.
Phát triển hệ thống an sinh xã hội khi Việt Nam gia nhập WTO
Cập nhật ngày: 17/05/2007

×