Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

250. TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.96 KB, 26 trang )

TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI
HIỆN NAY
Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt
Nam là một tất yếu khách quan, là một qui luật trong xây dựng quân đội cách
mạng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt, theo một cơ chế chặt chẽ, thông qua hệ thống tổ chức đảng từ Đảng
uỷ quân sự Trung ương đến cơ sở. Qui định số 74/QĐTW ngày 07/5/2005 của
Bộ Chính trị chỉ rõ: Tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam,
là một bộ phận quan trọng trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội
được thành lập theo Điều lệ Đảng, quy định của Bộ Chính trị và theo tổ chức
đơn vị cơ sở trong quân đội, do cấp uỷ cấp trên trực tiếp quy định.
Tổ chức cơ sở đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng trong quân đội nói
riêng là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở đơn vị cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng giữ vai
trị đặc biệt quan trọng, vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng được điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:“tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng
bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” 1. Là hạt nhân
chính trị ở cơ sở, do đó chức năng nhiệm vụ rất nặng nề: lãnh đạo, xây dựng
đơn vị cơ sở hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, đơn
vị cơ sở vững mạnh tồn diện được quyết định bởi chất lượng tổ chức cơ sở
đảng ở đó trong sạch vững mạnh hay khơng, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cao hay thấp, đội ngũ đảng viên tốt hay yếu. Do đó, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nói chung và tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ Quân đội nói riêng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đối với
nhiệm vụ cách mạng là vấn đề có tính qui luật, cơ bản, lâu dài, đồng thời
1

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.



mang tính cấp bách trong q trình phát triển của đất nước, trong sự nghiệp
đổi mới, thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là sự thống nhất giữa phẩm chất
năng lực và phương pháp tác phong công tác được biểu hiện ra ở chất lượng
lãnh đạo, được kết tinh ở lãnh đạo đơn vị thực hiện mọi nhiệm vụ được giao
và xây dựng nội bộ trong sạch vững mạnh theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn qui định cho từng cấp.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong
quân đội bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, của Ban chấp hành Trung ương
mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban bí thư; trực tiếp là Đảng ủy quân sự
Trung ương, của đảng ủy cấp trên cơ sở trực tiếp, đồng thời là kết quả xây
dựng và rèn luyện tồn diện của từng tổ chức cơ sở đảng đó.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng chính là
khả năng nắm vững và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, chỉ thị nghị quyết của
cấp trên phù hợp với tình hình, nhiệm vụ ở đơn vị cơ sở; đó là trình độ nhận
thức và năng lực hoạt động thực tiễn của tổ chức cơ sở đảng, ra nghị quyết
lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết đó; năng lực
kiểm tra, kiểm sốt việc thi hành các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết; năng lực
sơ tổng kết để bổ sung sửa đổi, phát triển hoàn thiện các chủ trương, biện
pháp đã được quyết định phù hợp với thực tiễn, bảo đảm cho chu trình lãnh
đạo đạt chất lượng cao hơn; khả năng huy động sức mạnh chính trị, tư tưởng
và tổ chức tạo nên sức mạnh tổng hợp, bền vững vượt qua mọi trở ngại, khó
khăn, xây dựng được tinh thần đoàn kết thống nhất, ý chí phấn đấu vươn lên,
quyết tâm hồn thành nhiệm vụ của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong đơn vị;
kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực trong tổ
chức đảng và đơn vị, ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của đời sống xã


hội, chống lại sự phá hoại về mọi mặt của kẻ thù, giữ vững trận địa chính trị

của Đảng ở cơ sở; bảo đảm cho tổ chức cơ sở đảng ln ln trong sạch vững
mạnh, lãnh đạo đơn vị hồn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp cơng
nhân đã khẳng định: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
là một tổ chức thống nhất về chính trị tư tưởng, có tổ chức chặt chẽ ở các cấp
từ Trung ương đến cơ sở, được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các tổ chức đảng trong quá trình phát triển là một trong những khâu quan
trọng trong hệ thống tổ chức và trong thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Với vị
trí và vai trò là nền tảng của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng có quan hệ hữu cơ
với các phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của thời đại.
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ rõ: “tổ chức cơ sở đảng tức chi bộ nên trở
thành“trung tâm hạt nhân” trong công tác đoàn và cũng như trong các tổ
chức quần chúng xã hội khác”2, và “phải biến mỗi chi bộ của mình thành
trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân”3.
V.I.Lênin kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen
đã sáng tạo ra hình thức mới của chính đảng của giai cấp công nhân phù hợp
với điều kiện lịch sử nước Nga lúc bấy giờ. Người nhấn mạnh về vai trò quan
trọng của tổ chức cơ sở đảng:“Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và
với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công
tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động,
những chi bộ ấy phải thơng qua cơng tác mn hình, mn vẻ đó mà rèn
luyện mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống” 4.
V.I.Lênin chỉ rõ: Hồng quân sở dĩ chiến đấu gian khổ mà không tan rã, một
2
3
4

C.Mác - Ph.Ăngghen tuyển tập tiếng Trung, Nxb ND, 1972 quyển 1, tr. 386.
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 7 Nxb CTQG, H 1993, tr. 348.

V. I. Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr. 232 - 233.


nguyên nhân quan trọng là đã xây dựng chi bộ đảng trong quân đội. Trong
thời kỳ xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, tổ chức cơ sở đảng phải phát
huy đầy đủ vai trò thành lũy để trở thành yếu tố cơ bản bảo đảm thắng lợi cho
sự nghiệp của chúng ta.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng và củng cố các tổ chức
cơ sở đảng, trước hết là các chi bộ vững mạnh và việc giáo dục rèn luyện đội
ngũ đảng viên có phẩm chất, năng lực lãnh đạo quần chúng. Bác khẳng định:
“Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt ” 5 và “Muốn xây
dựng Đảng tốt thì phải có Đảng bộ tốt, chi bộ tốt, muốn có đảng bộ tốt, chi
bộ tốt phải có đảng viên tốt”6. Người căn dặn: Việc nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng có ý nghĩa mấu chốt quyết định thắng lợi đường
lối cách mạng của Đảng.
Điều 21 Chương V Điều lệ Đảng Cộng sản thông qua ngày 25/4/2006
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X viết: Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đảng là một tổ chức, được tổ chức
một cách chặt chẽ và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương đến chi bộ. Các
tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận cấu thành Đảng, nhưng cấu thành với vai
trò là nền tảng của Đảng. Khơng có tổ chức cơ sở đảng thì khơng có Đảng. Sự
tồn tại của Đảng trước hết là sự tồn tại của các tế bào của Đảng là chi bộ,
đảng bộ cơ sở. Sự vững chắc nền tảng của Đảng là do các tổ chức cơ sở đảng
thành lập, là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho sự vững chắc của toàn Đảng và các
cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo cấp
trên của Đảng với quần chúng. Sự gắn bó giữa Đảng với quần chúng nhân dân
là nguồn sức mạnh của Đảng, mà tổ chức cơ sở đảng được bắt nguồn từ trong
5

6

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 1996, tr. 210.
Hồ Chí Minh tồn tập, tập 9, Nxb ST, H, 1989, tr. 311.


các đơn vị cơ sở của xã hội, do đó có vị trí gần gũi, gắn bó với quần chúng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Trong q trình ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng phải thường xuyên
liên hệ gắn bó với quần chúng, đây là vấn đề thuộc bản chất của Đảng Cộng
sản. Quần chúng vừa là đối tượng lãnh đạo của Đảng, vừa là lực lượng, vừa là
sức mạnh của Đảng. Sức sống và cội nguồn sức mạnh của Đảng được bắt
nguồn từ trong mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng thông qua cầu nối là tổ
chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập
theo điều lệ Đảng, qui định của Bộ Chính trị và theo tổ chức cơ sở trong quân
đội, do cấp ủy cấp trên trực tiếp qui định. Do đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ
của quân đội là hoạt động đặc thù, do đó căn cứ vào số lượng đảng viên, cơ
cấu tổ chức và tính chất đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị mà thành lập tổ chức
cơ sở đảng ba cấp, hai cấp hay một cấp. Tổ chức cơ sở đảng ba cấp gồm Đảng
ủy cơ sở, Đảng ủy bộ phận và chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng hai cấp gồm Đảng
ủy cơ sở và chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng một cấp là chi bộ.
Tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là
trung tâm đồn kết và quyết định sự vững mạnh tồn diện của đơn vị. Do đó,
Nghị quyết 79 của Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định: Tập trung sức làm
chuyển biến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, phát
huy vai trị hạt nhân lãnh đạo, đồn kết trong đơn vị là nhiệm vụ thường
xuyên quan trọng hàng đầu và cấp bách hiện nay của Đảng bộ Quân đội. Xây
dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn chặt với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, với nhiệm vụ chính trị của đơn vị, nắm vững khâu then chốt là xây dựng

chi bộ Đảng. Đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và đơn vị cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối chính sách của Đảng
vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối chính sách ấy. Với tư cách là


hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị cơ sở, là cầu nối liền Đảng với quần
chúng, tổ chức cơ sở đảng có vai trị trực tiếp đưa đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của đảng ủy cấp trên, chỉ
thị mệnh lệnh của người chỉ huy vào quần chúng và tổ chức thực hiện thắng
lợi ở đơn vị cơ sở. Thông qua việc quán triệt và tổ chức thực hiện, tổ chức cơ
sở đảng có trách nhiệm báo cáo và phản ánh với Đảng những ý kiến đóng góp
của quần chúng về đường lối chính sách đã ban hành để Đảng nghiên cứu, bổ
sung cho phù hợp. Thực tiễn đã chứng minh, mọi chủ trương đường lối, chính
sách của Đảng có được quán triệt và thực hiện nghiêm túc hay không phụ
thuộc rất lớn vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
tổ chức cơ sở đảng cịn có vai trị kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ
quan quản lý và người chỉ huy ở đơn vị cơ sở. Thực hiện chức năng lãnh đạo
của mình, tổ chức cơ sở đảng khơng chỉ bảo đảm cho người chỉ huy hoàn
thành nhiệm vụ mà còn kiểm tra, giám sát chỉ đạo, định hướng người chỉ huy
hoạt động theo đúng đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, thực hiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy,
giữa bí thư với chỉ huy. Tổ chức cơ sở đảng còn thường xuyên tiến hành sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm góp phần bổ sung hồn thiện, phát triển đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện kết nạp và sàng lọc đảng
viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng. Quản lý, giáo dục rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên,
đào tạo cán bộ cho Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của toàn
Đảng và các tổ chức Đảng các cấp nhưng trực tiếp là tổ chức cơ sở đảng. Bởi
vì, tổ chức cơ sở đảng là nơi tập hợp đảng viên trong một tổ chức, nơi đảng

viên trực tiếp sinh hoạt, trực tiếp hoạt động, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng,
đảng viên chỉ có thể hồn thành được nhiệm vụ và phấn đấu rèn luyện tu d-


ưỡng tốt khi trực tiếp sinh hoạt, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng. Trên
cơ sở đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
chính trị của quân đội và từng đơn vị, tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm quản
lý, giáo dục rèn luyện đảng viên theo phương hướng, yêu cầu nội dung qui
định trong các chỉ thị nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo,
thông qua công tác tư tưởng và cơng tác tổ chức, tự phê bình và phê bình, qua
giám sát của quần chúng để tổ chức cơ sở đảng trực tiếp tác động đến đảng
viên, quản lý chặt chẽ, giáo dục rèn luyện họ trở thành đảng viên ưu tú của
Đảng trong quân đội. Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi bồi dưỡng lựa chọn trong
phong trào cách mạng của quần chúng những người ưu tú có đủ điều kiện tiêu
chuẩn để kết nạp họ vào Đảng và đào tạo họ trở thành cán bộ của Đảng, đồng
thời sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên, làm
trong sạch nội bộ, tăng thêm sức mạnh cho Đảng, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tồn Đảng.
Thực tiễn q trình lãnh đạo cách mạng đã khẳng định Đảng ta từ khi
ra đời cho đến nay thường xuyên quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở đảng
của mình vững mạnh về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ qua từng giai
đoạn cách mạng. Dưới sự lãnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống tổ chức đảng các cấp trong quân đội
đã phát triển đúng hướng, trực tiếp lãnh đạo các đơn vị trong quân đội từng
bước trưởng thành, vượt qua bao khó khăn thử thách hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII khẳng định:
“Trước những biến động phức tạp của tình hình, Quân đội ln đồn kết,
nhất trí, kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và
nhân dân, khắc phục mọi khó khăn thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến
đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất…góp phần giữ vững ổn



định chính trị và mơi trường hịa bình để xây dựng và phát triển đất nước”7.
Đối với tổ chức đảng các cấp đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng có nhiều chuyển
biến tích cực, từng bước được củng cố tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đội ngũ đảng viên cơ bản phát huy tốt vai trị tiền phong gương mẫu. Chính vì thế, mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đều bắt nguồn
từ sự lãnh đạo của Đảng. Trong q trình đó Đảng ta ln khẳng định vị trí,
vai trị đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng.
Hiện nay, trên thế giới, khu vực có nhiều diễn biến mau lẹ, phức tạp.
Đại hội lần thứ X của Đảng nhận định:“Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới,
lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi
với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẩn lớn của thời đại vẫn rất gay
gắt”8. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hồ
bình” đối với nước ta, sự phát triển của khoa học cơng nghệ gắn liền với vũ
khí trang bị hiện đại, công nghệ cao, cho nên phải chuẩn bị tinh thần cho bộ
đội sẵn sàng đối phó với vấn đề này. Hơn nữa, sự phát triển của đất nước
trong q trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố
đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần quan tâm, đó là vấn đề hội nhập, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kéo theo nạn tiêu cực
tham nhũng, chảy máu chất xám, tụt hậu về kinh tế...Sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi phải giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội thật sự cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng quân đội về
chính trị làm cơ sở. Sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ: “Bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh tổ; bảo vệ Đảng, Nhà
7
8


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần th VIII, tr. 4.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 73 - 74.


nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; giữ vững ổn định chính
trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
chống phá, thù địch, không để bị động bất ngờ”9. Chức năng của quân đội ta
không hề thay đổi, nhưng nội hàm có sự phát triển rất lớn đó là: tham giai tích
cực vào cuộc chống chiến lược “diễn biến hồ bình”, do đó xây dựng qn
đội phải tinh nhuệ về chính trị, giỏi đấu tranh về chính trị, có khả năng răn đe
về chính trị. Là đội qn cơng tác do đó qn đội tham giai xây dựng chính trị
cơ sở ở địa phương vững mạnh, giúp dân phát triển kinh tế, văn hoá xã hội,
cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, xây dựng các khu kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng trong quân đội vẫn tồn tại một số hạn chế đó là: nhận thức
tình hình và nhiệm vụ của một số cấp ủy, đội ngũ cán bộ chưa được phát huy
đầy đủ. Phương pháp tác phong cơng tác cịn biểu hiện quan liêu, thiếu sâu sát
cụ thể. Sự phối hợp của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, cơng tác
thanh tra, kiểm tra cịn chồng chéo, phát hiện sai phạm chậm, chỉ đạo xử lý
thiếu kiên quyết, chưa nghiêm, chưa triệt để. Do các hình thức của tổ chức cơ
sở đảng phát triển phong phú hơn về loại hình nhưng việc xác định chức năng
nhiệm vụ cịn chưa hồn chỉnh; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt cịn lúng
túng chậm được đổi mới; cịn để xảy ra tình trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu
kỷ luật, kỷ cương ở một số nơi; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một
số tổ chức cơ sở đảng thiếu tồn diện và yếu, khơng hồn thành nhiệm vụ của
mình; mối quan hệ đoàn kết thống nhất trong nội bộ cấp ủy, tổ chức cơ sở
đảng ở một vài nơi chưa cao. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn Quân lần thứ VIII
chỉ rõ: Trước sự phát triển của tình hình và những vấn đề phức tạp nảy sinh ,
công tác tư tưởng có mặt cịn biểu hiện chủ quan, giản đơn, thiếu chiều sâu .

9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 108 - 109.


thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn còn là khâu yếucủa khơng ít cấp
uỷ và tổ chức đảng, năng lực quán triệt, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị
quyết còn hạn chế, chưa chủ động nhạy bén giải quyết những vấn đề phức tạp
trong đơn vị. Mặt khác, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
khu vực và tác động của mặt trái cơ chế thị trờng cho nên: “một bộ phận cán
bộ, đảng viên thuộc nhiều thế hệ khác nhau, ở nhiều cương vị khác nhau đã
bộc lộ sự suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống, giảm sút niềm tin và ý chí
chiến đấu, dao động mục tiêu và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, giảm
niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi nhẹ sự lãnh
đạo của đảng, chạy theo lợi nhuận kinh tế, trốn tránh nhiệm vụ đảng, ngại
sinh hoạt chính trị”10...Hơn nữa, tình hình thực tiễn tổ chức cơ sở đảng, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng hiện nay cịn có những
vấn đề bất cập. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đánh giá “khơng ít tổ chức
đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, khơng làm trịn vai trị hạt nhân chính trị và
nền tảng của Đảng, khơng đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh
từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu”11.
Do đó, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn khẳng định tính tất yếu
khách quan vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng để nó thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm đoàn
kết của đơn vị cơ sở là trách nhiệm chính trị của các cấp lãnh đạo, chỉ đạo,
của bản thân cơ sở và của mọi đảng viên là một đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ
hết trong tình hình hiện nay .
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
trong quân đội hiện nay phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, song cần tập
trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng xây qn đội
vững mạnh về chính trị hồn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống, Nxb QĐND ,
H 2000, tr. 68.
11
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 263.
10


Phải nắm vững phương hướng và tiêu chuẩn xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh.
Với vị trí vai trò là nền tảng của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng ln có
vai trị là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là nơi trực tiếp bảo đảm cho đường lối
chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện có kết quả ở đơn vị cơ sở, và là
cấp trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng. Sự lãnh đạo của
các đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thành bại
của các phong trào cách mạnh ở cơ sở. Do đó, phải tập trung xây dựng và
nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng làm cho
tổ chức này thực sự trong sạch vững mạnh, làm tròn nhiệm vụ tổ chức và qui
tụ đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiện vụ được
giao. Từng bước tổ chức sắp xếp củng cố các tổ chức đảng cho phù hợp với
mơ hình sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp hành chính, tổ chức biên chế
của các lực lượng vũ trang nói chung và đơn vị quân đội nói riêng. Xác định
vị thế pháp lý,thể chế chế hố về mặt nhà nước, về vị trí, chức năng, nhiệm vụ
của các loại hình cơ sở chú ý những loại hình mới. Quán triệt và thực hiện tốt
nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở, phải có qui chế dân chủ
và thực hiện tốt qui ché đó trong q trình tơr chức lãnh đạo của Đảng ở đơn
vị cơ sở. Bám sát vào các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
theo hướng dẫn 422: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo cơng tác
chính trị tư tưởng; lãnh đạo xây dựng các tổ chức; lãnh đạo xây dựng các tổ
chức đảng để tổ chức nâng cao hiệu quả năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của tỏ chức cơ sở đảng. Đại hội X của Đảng xác định: “Phải dồn sức xây
dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
làm cho tổ chức này thực sự trong sạch vững mạnh”12
Tập trung xây dựng củng cố các cấp uỷ cơ sở trong sạch vững mạnh.
12

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 298.


Cấp ủy đảng các cấp ở cơ sở là cơ quan lãnh đạo của đảng ở cơ sở do
Đại hội Đảng các cấp cơ sở bầu ra, là hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm
đồn kết và tiêu biểu cho ý chí và trí tuệ của tồn đảng bộ. Vì vậy, để xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu ngày càng được nâng cao nhất thiết phải thường xuyên củng cố
kiện tồn cấp ủy có số lượng hợp lý, chất lượng cao, đồng thời phải nâng cao
năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ sở là biện pháp quan trọng hàng đầu, là
khâu then chốt đối với toàn bộ hoạt động xây dựng đảng ở cơ sở. Trước hết,
thường xuyên củng cố, kiệm toàn các cấp uỷ đủ số lượng, bảo đảm chất
lượng, có cơ cấu hợp lý, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, trong đó quan
trọng nhất là bảo đảm tiêu chuẩn cấp ủy viên. Hướng lựa chọn cấp ủy viên
phải căn cứ vào tiêu chuẩn được quy định tại điều 12 Điều lệ Đảng đó là:
“Cấp ủy viên phải có đủ tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
đảng, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực
tham gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ đợc giao; đoàn kết cán
bộ, đảng viên, đợc quần chúng tín nhiệm”13.Tuy nhiên, cần phải chú ý là
khơng vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn cấp ủy viên, hạ thấp các yêu cầu về
phẩm chất chính trị, về nguyên tắc đảng. Muốn vậy công tác cán bộ phải đi
trước một bước, kịp thời bổ nhiệm, bố trí các đồng chí có uy tín, năng lực vào
các vị trí chủ trì, giải quyết tốt mối quan hệ trong nội bộ cấp uỷ, bảo đảm nội

dung, phạm vi, quyền hạn, thực hiện tập thể lãnh đạo, phân công các nhân
phụ trách
Phải thường xuyên nâng cao phẩm chất năng lực của cấp ủy viên, bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy, nhất là về giác ngộ chính trị và bản lĩnh chính trị, ý
chí chiến đấu, đạo đức cách mạng, nguyên tắc và phương pháp tác phong
13

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam , Nxb CTQG, H 2006, tr. 21-22.


công tác, kinh nghiệm thực tiễn. Mọi hoạt động của cấp ủy viên, bí thư chi bộ,
bí thư đảng ủy phải trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của tập thể cấp ủy gắn liền
với thực tiễn quân đội, thực tiễn đơn vị cơ sở. Gắn việc bồi dưỡng cấp uỷ, bí
thư với việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì trong đơn vị.
Chú trọng các khâu, các bước trong chu trình lãnh đạo của cấp ủy. Phải
đề ra được chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, triển khai tổ chức thực
hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời có hiệu quả. Các cấp ủy cơ sở phải xây
dựng qui chế làm việc, qui chế hoạt động và lãnh đạo chặt chẽ, có sự phân
cơng rõ ràng để nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cấp ủy viên, bí thư
cũng như mỗi tập thể cấp ủy.
Chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tổ chức sinh hoạt và chế độ công tác.
Phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo đi
đôi với phân công cá nhân phụ trách, phát huy trách nhiệm của cá nhân, đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình. Phải thực hiện nghiêm các chế độ công tác của
cấp ủy: chế độ sinh hoạt chuẩn bị ra nghị quyết lãnh đạo, chế độ thông tin,
chế độ tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện nghị quyết.
Cấp ủy cấp trên cơ sở cần phải phân công chỉ đạo giúp đỡ những tổ
chức cơ sở đảng yếu kém, những tổ chức cơ sở đảng mất đồn kết, cần tìm
hiểu rõ nguyên nhân, đồng thời phải có biện pháp giải quyết phù hợp, dứt
điểm thông qua công tác kiểm tra, tự phê bình và phê bình.
Xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, thừơng xuyên cải tiến và nâng

cao chất lượng sinh hoạt Đảng
Chi bộ là tổ chức tế bào cấu thành tổ chức cơ sở đảng, cấu thành Đảng,
chi bộ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối của Đảng ở cơ sở. Vì vậy, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh không thể không xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh.


Thường xun kiệm tồn chi bộ, chi uỷ, bí thư, không để khoảng trống
trong lãnh đạo, làm tốt công tác lựa chọn, bồi dưỡng cấp uỷ viên, bí thư chi
bộ, đồng thời làm tốt việc phân công công tác cho đảng viên một cách hợp lý
và thường xuyên theo dõi, giúp đỡ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ.
Tăng cường bồi dưỡng kiến thức, năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên mà trước hết là các cấp ủy viên, bí thư. Bởi vì, đội ngũ đảng viên của
Đảng ở cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của lãnh đạo, chỉ huy cấp
trên, trực tiếp liên hệ vận động, thuyết phục lãnh đạo quần chúng thực hiện
thắng lợi đường lối và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ ở đơn vị. Vấn đề này
càng quan trọng đối với các đảng viên giữ cương vị là cấp ủy viên, bí thư. Do
đó, các tổ chức cơ sở đảng cần quan tâm bồi dưỡng toàn diện cả về phẩm chất
chính trị, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, kinh nghiệm công tác cho họ.
Hiện nay cần tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, đặc biệt là nâng
cao giác ngộ bản lĩnh chính trị, nâng cao lịng u nước xã hội chủ nghĩa,
trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, nâng cao năng lực
nghiên cứu quán triệt và chỉ đạo tổ chức thực hiện đường lối quan điểm chủ
trương, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên ở cơ
sở. Bồi dưỡng năng lực tư duy lãnh đạo, năng lực tham mưu đề xuất chủ
trương biện pháp lãnh đạo, xây dựng phong cách lãnh đạo tập thể dân chủ,
phương pháp tác phong làm việc khoa học,kế hoạch, cụ thể, sâu sát thực tế,
bồi dưỡng nâng cao năng lực toàn diện theo nhiệm vụ đáp ứng chức trách
được giao, nhất là năng lực xây dựng Đảng, năng lực hoạt động thực tiễn,

năng lực tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị.
Coi trọng việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo đúng tinh thần
Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra: Xác định chủ trương, biện pháp đúng; thống
nhất tư tưởng, hành động, đoàn kết, kỷ luật cao; tiếp thu kinh nghiệm mới,


kiến thức mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII chỉ rõ:
“nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, trọng tâm là sinh hoạt ra nghị quyết
lãnh đạo, sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Tiếp tục thực hiện chủ trương
xây dựng chi bộ đại đội đủ quân có chi ủy gắn với nâng cao năng lực lãnh
đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng”14.
Đảng ta coi “củng cố chi bộ, thường xuyên giữ vững chế độ và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” là “khâu trung tâm của công tác củng cố tổ
chức cơ sở đảng”15. Nghị quyết 79 của Đảng ủy quân sự Trung ơng khẳng
định: “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn chặt với việc xây dựng đơn vị
cơ sở vững mạnh và phải đi sâu và nắm vững nhiệm vụ chính trị của đơn vị
mà lãnh đạo. Nắm vững khâu then chốt là xây dựng chi bộ đảng” 16. Do đó, để
nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức cơ sở
đảng hiện nay cần cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt, xây dựng chi bộ
trong sạch vững mạnh. Muốn vậy phải nâng cao nhận thức trách nhiệm của
cấp uỷ, bí thư, đảng viên; làm tốt công tác chuẩn bị cho sinh hoạt; mở rộng
dân chủ, tăng cường kỷ luật trong Đảng; chấp hành đúng nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt Đảng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của cấp
trên.
Trước hết phải quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả phương
hướng xây dựng chi bộ theo tinh thần Nghị quyết 79 của Đảng ủy Quân sự
Trung ương, thực hiện nghiêm túc cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
theo NQTW 6 (lần 2) khóa VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần
thứ VIII. Chi bộ phải thường xuyên quán triệt, thảo luận đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nhiệm vụ, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và tình
Tóm tắt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII, tr.14.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, H,
1977, tr. 131.
16
Nghị quyết hội nghị TW lần thứ 3 về đổi mới & chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ quân đội,
Tổng cục chính trị, H, 1992, tr. 92.
14
15


hình cụ thể của chi bộ, đơn vị để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát
đúng, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Phấn đấu tăng tỷ
lệ chi bộ có chi ủy. Bồi dưỡng hướng dẫn, giúp đỡ cho tổ đảng, chi ủy, chi bộ
hoạt động thường xuyên theo đúng qui định của điều lệ Đảng, các nguyên tắc
của đảng và các nghị quyết, chỉ thị, qui định của các tổ chức đảng cấp trên.
Chi bộ phải chấp hành nghiêm các chế độ sinh hoạt đảng, đồng thời
phải thờng xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo
phương hướng bảo đảm thơng tin đầy đủ chính xác, phát huy dân chủ trong
bàn bạc, thảo luận quyết định, giữ vững kỷ luật và tính chất sinh hoạt đúng;
cải tiến phương pháp tiến hành hội nghị chi bộ sao cho bảo đảm ngắn gọn có
hiệu quả, thiết thực bằng nhiều hình thức sinh hoạt. Qua sinh hoạt chi bộ phải
đề ra được chủ trương biện pháp lãnh đạo sát đúng, các tổ chức trong đơn vị
được củng cố kiện toàn hoạt động đúng chức năng, đội ngũ cán bộ, đảng viên
có chuyển biến về nhận thức trách nhiệm của mình.
Để đạt được u cầu trên, bí thư phải làm tốt cơng tác chuẩn bị, trong
mỗi buổi sinh hoạt chi bộ phải xác định rõ mục đích yêu cầu, nội dung sinh
hoạt cụ thể. Các bước chuẩn bị sinh hoạt, tiến hành sinh hoạt và triển khai tổ
chức thực hiện sau sinh hoạt. Phải luôn bồi dưỡng nâng cao nhận thức trách
nhiệm của đảng viên, nhất là bí thư, chi ủy viên, định kỳ sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm việc duy trì và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thường xuyên chăm lo giáo dục bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng

lực lãnh đạo, năng lực vận động quần chúng cho mọi đảng viên. Kết hợp chặt
chẽ giữa xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ và xây
dựng chi bộ. Làm tốt công tác phát triển đảng viên mới bảo đảm đúng phương
châm, phương hướng, thủ tục, nguyên tắc, đồng thời kiên quyết đa ra khỏi
đảng những người không đủ tư cách làm trong sạch đội ngũ đảng viên ở chi
bộ. Trong sinh hoạt cũng như trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, chi bộ phải


ln đề cao ý thức tự giác, vai trị tiền phong gương mẫu của đảng viên, nêu
cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện và quan điểm sai trái. Khắc phục biểu hiện gia trưởng, độc đoán
chuyên quyền, quân phiệt, coi thường vai trò lãnh đạo của chi ủy, chi bộ, coi
thường nghị quyết của đảng đều phải tiến hành tự phê bình và phê bình
nghiêm túc xử lý kỷ luật nghiêm minh.
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện.
Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chú trọng những địa bàn
xung yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ mới thành lập và yếu kém. Nâng
cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng tăng cường giáo dục, quản lý, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, chấp hành
nguyên tắc và chế độ sinh hoạt đảng. Cấp uỷ và cán bộ chủ trì cấp trên trực
tiếp phải chịu trách nhiệm nếu đề tổ chức đảng thuộc quyền yếu kém hoặc để
cơ quan, đơn vị mình xẩy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, do đó xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh không thể tách rời vấn đề xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện. Sự vững mạnh tồn diện của đơn vị chính là thước đo năng
lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, là tiêu chí
quan trọng đánh giá sự trong sạch vững mạnh của tổ chức cơ sở đảng. Đây là

mối quan hệ biện chứng trong quá trình xây dựng tổ chức đảng và xây dựng
đơn vị. Do đó, gắn xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với
xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện là vấn đề có tính quy luật trong xây
dựng đơn vị trong sạch vững mạnh. Muốn vậy cần có sự thống nhất về mục
tiêu, yêu cầu chung nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu


và hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của đơn vị, tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội từ cơ sở.
Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện về tổng quát bao hàm cả sự trong sạch
vững mạnh của tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy cần tạo sự gắn bó giữa tổ chức cơ
sở đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chúng quần chúng, hội đồng quân nhân
trong đơn vị. Đồng thời, cần kết hợp xây dựng, kiệm toàn, nâng cao chất
lượng cấp uỷ với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, kết hợp xây dựng đội ngũ
đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong q trình đó cần thực hiện
nghiêm túc, chặt chẽ nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo,
phân công cá nhân phụ trách. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững
mạnh là quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đây là giải pháp quan
trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã triển khai thực hiện công tác
này bước đầu đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, do còn lúng túng trong
nhận thức về nội dung và cách làm cụ thể nên kết quả đạt được còn hạn chế.
Số đảng bộ đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh cao nhưng tỷ lệ đơn vị vững
mạnh tồn diện cịn thấp. Khơng ít trường hợp trong nhận thức tư tưởng thì
tốt, nhưng trong hoạt động tổ chức thực hiện thì lại tách rời giữa xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện.
Hiện nay, để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu của quân đội
và đơn vị cơ sở, xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện lấy xây dựng chính trị
làm cơ sở thì vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn

với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao
cả về mục tiêu, nội dung, biện pháp và trong tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở tiếp tục thực hiện 5 yêu cầu xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện theo chỉ thị 116 của Bộ tổng tham mưu và 5 tiêu chuẩn tổ chức đảng


trong sạch vững mạnh theo hướng dẫn số 312 của Tổng cục chính trị, hiện
nay cần tập trung thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện phải được nhận thức đúng và tiến hành trong mọi
hoạt động, mọi mặt công tác và mọi đối tượng trong đơn vị, bảo đảm tính
thường xun liên tục trong q trình xây dựng, hoạt động của tổ chức đảng
và xây dựng đơn vị. Đồng thời phải quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng, chỉ thị,
hướng dẫn của các cơ quan bộ. Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và thực tiễn
của đơn vị tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc, toàn diện, hoàn thành
tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. Hơn nữa, xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện cần phải
có một cơ chế và hệ thống quy chế đồng bộ, có tính pháp lý cao nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể đảng bộ và đơn vị, cả cơ sở và cấp trên,
kết hợp chặt chẽ cơng tác chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách. Phấn đấu
có nhiều tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh và đơn vị vững mạnh tồn
diện liên tục và vững chắc, khơng còn tổ chức đảng và đơn vị yếu kém.
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng
đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện được thực hiện đồng bộ tồn diện về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách, trong giai đoạn hiện nay cần nâng cao
nhận thức trách nhiệm cho mọi người, trước hết là cho cấp ủy đảng, đội ngũ
cán bộ, đảng viên về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn
với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng

đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Gắn xây dựng tổ chức cơ
sở đảng với xây dựng và phát huy sức mạnh của các tổ chức trong đơn vị, giải


quyết tốt các mối quan hệ, trước hết là giữa lãnh đạo với chỉ huy ở cơ sở. Gắn
xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ, gắn xây dựng kiện
toàn cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, đổi
mới phong cách, tác phong lãnh đạo, chỉ huy.
Phát huy đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên với nỗ lực
chủ quan của bản thân cơ sở trong việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đồng thời,
gắn xây dựng hoàn thiện cơ chế với tổ chức thực hiện nghiệm túc cơ chế, quy
chế một cách đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc, giữ vững các nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt trong Đảng
Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân chính trị, lãnh đạo các mặt cơng tác,
mọi hoạt động của đơn vị. Do đó, thường xuyên đổi mới phong cách lãnh đạo
và lề lối làm việc thực sự khoa học, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, đồng thời phải bảo
đảm sự thống nhất trong Đảng trên tình đồng chí, đồng đội, yêu thương giúp
đỡ lẫn nhau. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc khoa học là sự phản ánh
của năng lực lãnh đạo, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng hiệu quả cơng tác và kết quả hồn thành nhiệm
vụ. Cho nên, muốn xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh có
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao thì u cầu đặt ra khơng thể thiếu được là nhất thiết phải đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc một cách
thực sự khoa học. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải ln nắm vững đặc điểm về
tính trực tiếp của cơ sở để hoạt động và xây dựng phong cách lãnh đạo, lề lối

làm việc khoa học. Mọi quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo của tổ


chức cơ sở đảng phải xuất phát từ cơ sở, đó là qn triệt nắm vững đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh
của cấp trên và thực tiễn của đơn vị. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc
khoa học đòi hỏi phải quán triệt thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ tập thể lãnh đạo đi đôi với phân cơng cá nhân phụ trách. Trong q trình
tổ chức lãnh đạo phải giữ vững nguyên tắc, chế độ, thực hiện đúng chức năng,
quyền hạn đồng thời các cấp ủy đảng ở cơ sở phải có tác phong sâu sát thực
tế, cụ thể tỉ mỉ, gần gũi quần chúng, thường xuyên giúp đỡ cấp dưới một cách
thiết thực trên tình thương yêu đồng chí, đồng đội. Chấm dứt, ngăn ngừa tác
phong làm việc quan liêu, hình thức.
Để tổ chức cơ sở đảng trong quân đội xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo
chính trị ở cơ sở, một vấn đề quan trọng không thể thiếu được đặt ra hiện nay
là: phải tập trung khắc phục những yếu kém, hạn chế về năng lực lãnh đạo
toàn diện, năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết, vấn đề quản lý kỷ luật, quản
lý đảng viên, ngăn chặn thối hóa, biến chất trong cán bộ, đảng viên…
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng trong quá trình tổ chức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ thường
xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu
cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành nhằm bảo đảm cho đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng được thực hiện thắng lợi. Kiểm tra, giám sát là
chức năng quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là một khâu trong
quy trình lãnh đạo của Đảng.
Từ thực tiễn cơng tác xây dựng Đảng có bước phát triển mới đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay, do đó, đổi mới và tăng cường cơng
tác kiểm tra là yêu cầu tất yếu khách quan. Công tác kiểm tra, giám sát phải
góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới



manh nha. Bên cạnh thực hiện tốt công tác kiểm tra phải tăng cường chủ động
công tác giám sát. Đại hội X của Đảng: “bổ sung chức năng giám sát, tăng
thẩm quyền và trách nhiệm xem xét kỷ luật của cấp uỷ và ỷ ban kiểm tra các
cấp. Uỷ ban kiểm tra các cấp có quyền yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng và
đảng viên giải trình về các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra,
giám sát được giao.”17 Muốn thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đạt hiệu
quả cao cần tập trung thực hiện tốt nội dung biện pháp sau đây:
Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên,
trước hết là người đứng đầu cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra Đảng, làm rõ vị trí, vai
trị của công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra.
Công tác kiểm tra, giám sát phải lấy nhiệm vụ chính trị và công tác xây
dựng Đảng để làm mục tiêu, phương hướng tiến hành, do đó thường xuyên
nắm vững phương hướng nhiệm vụ chính trị của quân đội, từng đơn và yêu
cầu xây dựng Đảng để tiến hành các hoạt động kểm tra, giám sát, khi xác định
những nội dung kiểm tra, giám sát phai nhất thiết nhằm vào thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng ở đơn vị cơ sở. Xem xét đánh giá hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát phải căn cứ vào kết quả hồn thành nhiệm vụ chính trị.
Từ vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo
của Đảng, đối tượng kiểm tra, giám sát là con người và tổ chức, do đó phải có
tính khoa học, phải nắm chắc tình hình đơn vị để chủ động kiểm tra, giám sát,
trong quá trình kiểm tra, giám sát phải sử dụng hình thức, biện pháp hợp lý,
điều tra phải cụ thể, rõ ràng. Thường xuyên kiệm toàn cơ quan kiểm tra và
tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp đáp ứng nhiệm vụ mới.

17


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 302-303.


Kỷ luật của Đảng là những chế độ, nguyên tắc, qui định của Đảng buộc
đảng viên và tổ chức đảng phải nghiêm chỉnh tự giác chấp hành để bảo đảm
sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng và tổ chức cảu Đảng làm cho năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được tăng cường, giữ
vững vai trị tiên phong chiến đấu của giai cấp cơng nhân, lãnh đạo cách mạng
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bản chất của kỷ luật Đảng là sự thống nhất giữa hai
mặt nghiêm minh và tự giác trong đó tự giác là đặc trưng cơ bản. Do đó, để
tanưg cường nghiêm kỷ luật của Đảng ở cơ sở, trước hết tăng cường cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; nắm vững và thực hiện
đúng phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật của Đảng; xây dựng và
hồn thiện các qui chế về tổ chức, khơng ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt
nội bộ Đảng; nắm chắc và hồn thiện đúng qui trình xử lý của vụ vi phạm kỷ
luật; tăng cường công tác kiểm tra khen thưởng và xử phạt kịp thời các vụ
việc.
Phát huy trách nhiệm lãnh đạo cấp trên và tính chủ động của cấp dưới
trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh
Đây là một nội dung, biện pháp rất quan trọng biểu hiện trong mối quan
hệ giữa khách quan và chủ quan trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng. Do đó, cấp trên cơ sở phải có tác phong sâu sát
lắng nghe cơ sở, giúp đỡ cơ sở một cách thiết thực có hiệu quả. Thường
xun quan tâm kiện tồn, bồi dưỡng, hướng dẫn cơ quan chính trị và cán bộ
chính trị ở cơ sở hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, chức trách. Có phẩm
chất đạo đức, lối sống trong sáng, có ý thức trách nhiệm và nhiệt tình với
cơng việc.
Mọi chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dới phải kịp thời, đồng bộ và có
tính khả thi cao, phải được cụ thể hóa bằng văn bản để thực hiện thống nhất,
có hiệu quả, khắc phục tình trạng chung chung, khép kín trong từng cơ quan,



bộ phận. Cấp trên phải nắm vững mạnh, yếu của cơ sở, xác định được khâu
nào ở cấp cơ sở tự giải quyết, khắc phục. Khâu nào cấp trên giải quyết, có
như vậy mới tạo cho cấp cơ sở phát huy trách nhiệm, mới tin tưởng vào năng
lực của mình, không thụ động, ỷ lại vào cấp trên. Việc chỉ đạo của cấp trên cơ
sở phải thống nhất, kế hoạch phải cụ thể, thực hiện phải kiên quyết, triệt để,
dứt điểm từng vấn đề và có sự phân cơng, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực
hiện. Đồng thời, cần coi trọng việc sơ, tổng kết thực tiễn những việc đã làm,
nghiên cứu rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục chỉ đạo cho sát và đạt
hiệu quả cao hơn trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Đối với bản thân đơn vị cơ sở phải phát huy được sức mạnh của toàn
đảng bộ, chi bộ và đơn vị trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng. Cán bộ chủ trì đơn vị, nhất là cấp ủy phải nắm
vững những yêu cầu, nội dung, biện pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nắm vững sự chỉ
đạo của cấp trên, nắm vững tình hình mọi mặt của đảng bộ, chi bộ, đơn vị để
xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp với thực tiễn ở đơn vị. Phải
tiến hành tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng trong đơn vị. Cấp ủy, ngời chỉ huy phải tiến hành tốt
công tác tư tưởng, công tác tổ chức, phải có chính sách nhằm phát huy vai trị
tự giác, tích cực, vai trị tiên phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong
mọi hoạt động và nâng cao ý thức trách nhiệm của họ trong xây dựng Đảng
và trong cơng tác vận động quần chúng.
Cấp ủy, bí thư cơ sở phải phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình
trước cấp trên và tổ chức đảng cấp mình, thực sự xứng đáng là hạt nhân lãnh
đạo chính trị, trung tâm đồn kết, đại biểu cho trí tuệ, ý chí của tập thể nhằm
xây dựng đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh.



Đội ngũ cán bộ chủ trì phải nêu cao tính tiên phong gương mẫu trong
cơng tác, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, phục tùng sự lãnh đạo của tập thể, chấp hành nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, khắc phục triệt để hiện tượng quan liêu, gia trưởng quân
phiệt, hành động thiếu tơn trọng đối với cấp dưới. Có quy định cụ thể và lãnh
đạo đơn vị thực hiện tốt công tác dân vận và tham gia xây dựng địa bàn đóng
qn vững mạnh cả về chính trị, qn sự, kinh tế...từ đó tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả sự giúp đỡ của cấp trên, sự tạo điều kiện của chính quyền địa
phương và sự nỗ lực của cơ sở để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng trong quân đội giai đoạn hiện nay.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Nghị quyết Đảng bộ quân đội lần thứ VIII các nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa X, tồn Đảng nói chung và Đảng
bộ Qn đội nói riêng nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị, tầm quan trọng của
việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tiếp
tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 51/ NQ - TW của Bộ
Chính trị “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện
chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam”.
Từ thực tiễn đất nước, quân đội và đơn vị ln ln vận động, nhiệm
vụ có bước phát triển, vì vậy những giải pháp trên cần phải được nghiên cứu
vận dụng cho phù hợp với từng tổ chức cơ sở đảng và phải tiếp tục bổ sung
những giải pháp mới. Có như vậy thì các tổ chức cơ sở đảng mới phát huy và
nâng cao đợc năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, lãnh đạo đơn vị hoàn thành
tốt nhiệm vụ mà tổ chức đảng cấp trên, qn đội giao cho góp phần tích cực
vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây



×