Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT về xử lý VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH vực bảo vệ môi TRƯỜNG ở VIỆT NAM HIỆN NAY tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.04 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ NGỌC H

THựC HIệN PHáP LUậT Về Xử Lý VI PHạM
HàNH CHíNH TRONG LĩNH VựC BảO Vệ MÔI TRƯờNG
ở VIệT NAM HIệN NAY

\

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

HÀ NỘI - 2019


Cơng trình được hồn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tào Thị Quyên

Phản biện 1: ......................................................
......................................................

Phản biện 2: ......................................................
......................................................

Phản biện 3: ......................................................
......................................................



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20....

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mơi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người và sự phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của một đất nước. Chính vì vậy, bảo vệ mơi trường
(BVMT) đã trở thành một vấn đề trọng yếu của toàn cầu và đang được nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm đặt thành quốc sách. Do đó, BVMT khơng là nhiệm vụ của
riêng cá nhân hay quốc gia nào mà trách nhiệm của toàn nhân loại. Tuy nhiên trong
những thập kỷ gần đây mơi trường thế giới đang có những thay đổi theo chiều hướng
xấu đi, như sự thay đổi của khí hậu tồn cầu, sự suy giảm tầng ôzôn đang làm cho trái
đất ngày càng nóng lên. Sự suy giảm của nhiều giống, loài động vật, thực vật, sự diệt
vong của nhiều loài động vật quý hiếm, vấn đề cháy rừng, vấn đề chất thải, ô
nhiễm…Nguyên nhân của việc môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng và xuống cấp
nhanh trong thời gian gần đây là do ý thức của con người, cộng đồng xã hội trong vấn
đề BVMT. Hành vi vi phạm của một số tổ chức, cá nhân trong hoạt động khai thác,
sử dụng liên quan đến môi trường ngày càng gia tăng, sự tàn phá môi trường ngày
càng nghiêm trọng trong khi lực lượng các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử phạt
lại mỏng. Các văn bản quy định Luật và hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều vướng
mắc, chồng chéo.
Từ những nguyên nhân trên cho thấy, thực hiện pháp luật (THPL) về xử lý vi

phạm hành chính (XLVPHC) trong lĩnh vực BVMT có tầm quan trọng như thế nào
trong giai đoạn hiện nay. Hiệu quả quản lý nhà nước về mơi trường nói chung, THPL
về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng phụ thuộc vào nhiều hoạt động thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Thanh tra, kiểm tra
thường xuyên sẽ giúp các chủ thể quản lý nắm được tình hình thi hành pháp luật về
BVMT của các đối tượng quản lý, qua đó có thể đề ra các biện pháp tác động thích
hợp đến từng đối tượng như khuyến khích, động viên các tổ chức, cá nhân nghiêm
chỉnh THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nhằm phát hiện, uốn nắn kịp thời
các đối tượng có biểu hiện sai phạm, góp phần định hướng hành vi xử sự tích cực của
họ trong cơng tác BVMT. Xử lý nghiêm minh các VPPL về môi trường mà trước hết
là xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) đối với hành vi này, sẽ góp phần ngăn
chặn kịp thời các hành vi ơ nhiễm, suy thối, sự cố mơi trường, răn đe các đối tượng
có biểu hiện thiếu tơn trọng pháp luật. Ngồi ra các hoạt động nêu trên cịn giúp các
cơ quan quản lý môi trường phát hiện ra những điểm bất hợp lý trong chính các quy
định của pháp luật để từ đó có hướng điều chỉnh, bổ sung kịp thời cho phù hợp với
yêu cầu của cuộc sống.
Dưới góc độ lý luận, đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về đề tài
BVMT, THPL về BVMT, XPVPHC về BVMT...với nhiều lĩnh vực nghiên cứu
phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào


2

nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt
Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là hoạt động của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật làm cho các quy
định pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trở thành hiện thực trong cuộc
sống, nhằm xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với các hành vi vi phạm hành chính về
BVMT, góp phần BVMT an tồn và trong lành cho cộng đồng xã hội. Tuy nhiên,

việc THPL trong XLVPHC lĩnh vực BVMT còn nhiều hạn chế, tồn tại như cịn nhiều
sai sót trong q trình áp dụng trình tự, thủ tục xử lý chưa đảm bảo theo quy định;
còn hiện tượng vi phạm về thời hạn, thời hiệu ra quyết định xử phạt; một số trường
hợp xác định hành vi vi phạm chưa chính xác, có dấu hiệu bỏ qua hành vi vi phạm
hoặc tùy tiện trong áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả;
công tác xử lý tang vật, phương tiện vi phạm cịn lỏng lẻo, cơng tác phối hợp giữa các
cơ quan liên quan trong việc trao đổi thông tin và xử lý vi phạm chưa chặt chẽ, đơi
lúc cịn mang tính hình thức; cơng tác thanh, kiểm tra chun ngành chưa được chú
trọng; công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới người dân và tập huấn,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thực hiện chưa được quan tâm đúng mức
nên hiệu quả đạt được chưa cao...đồng thời, thực tiễn THPL về XLVPHC trong lĩnh
vực BVMT còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Số vụ vi phạm pháp luật mơi trường
nghiêm trọng có xu hướng gia tăng cả về tính chất và mức độ nguy hại nhưng không
bị xử lý. Việc tuân thủ pháp luật về BVMT của nhiều các tổ chức, cá nhân rất yếu.
Thậm chí, nhiều tổ chức, cán nhân có nhiều thủ đoạn đối phó, chống đối lại cơ quan
chức năng và người thi hành cơng vụ, do đó, việc phát hiện và xử lý vi phạm gặp rất
nhiều khó khăn.
Đối với xu thế quốc tế về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, đã có
nhiều nước trên thế giới xây dựng cho quốc gia mình một hành lang pháp lý về
BVMT và các quy định về XLVPHC trong lĩnh vực này. Các quy định của nhà nước
về BVMT đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc và nếu
các chủ thể có những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT thì đều phải áp dụng chế
tài xử lý nghiêm khắc nhằm mang tính chất răn đe đối với các chủ thể khác có ý định
thực hiện hành vi vi phạm như ở Singapore, Nhật Bản, Pháp, Mỹ...và một số nước
khác. Do đó, tình hình THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều có những ưu điểm để Việt Nam học tập và xây dựng cho
quốc gia mình một hệ thống pháp luật chặt chẽ để các chủ thể có thẩm quyền xử phạt
trong lĩnh vực BVMT áp dụng và thực thi có hiệu quả đối với hoạt động XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT.
Xuất phát từ những lý do trên nên tôi chọn đề tài "Thực hiện pháp luật về xử

lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay".
Mong muốn kết quả nghiên cứu sẽ luận giải được cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý và
thực tiễn của việc THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, từ đó đề xuất các giải


3

pháp nhằm hồn thiện pháp luật về XLVPHC nói chung và THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT nói riêng, góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận án là nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngồi về tình
hình XLVPHC trong lĩnh vực BVMT và kết quả áp dụng pháp luật mang tính khả thi
cao trong thực tiễn như thế nào. Từ đó, chỉ ra những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu
về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay.
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xác định vai trò của THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền XPVPHC;
nội dung về tình hình THPL của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt trong việc áp
dụng các quy định của pháp luật trong lĩnh vực XPVPHC nói chung và trong lĩnh
vực BVMT nói riêng.
Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật, áp dụng các quy
định của pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền XPVPHC; chỉ ra những
hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến việc
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT hiện nay ở nước ta.
Đưa ra những quan điểm để phát huy hiệu quả của việc THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT trong thời gian tới, những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu

quả và tính khả thi của tình hình thực hiện pháp luật nói chung, THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT nói riêng và góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật chung
của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật và THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu việc THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật và THPL về XLVPHC trong lĩnh
vực BVMTở Việt Nam từ năm 2012 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản


4

Việt Nam về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa; về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt
Nam; về tình hình THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. Lý luận về THPL nói
chung và lý luận về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tại Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu thứ cấp, phân
tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập thơng tin từ các tài liệu có liên quan đến đề
tài nghiên cứu THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay.

Tại Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá để xây dựng
các khái niệm; phương pháp phân tích, tổng hợp dùng để nghiên cứu chủ thể, nội
dung, hình thức và các yếu tố bảo đảm THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở
nước ta hiện nay; phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham chiếu giữa các
chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở
một số nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam.
Tại Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, nhằm đánh giá tình hình
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đánh giá,
phân tích những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế, từ đó tác
giả làm sáng tỏ nội dung của Luận án.
Tại Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để
đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học góp phần bảo đảm THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là cơng trình đầu tiên nghiên cứu khoa học đầu tiên trình bày tồn
diện, có hệ thống, có sơ sở khoa học, lý luận về tình hình THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT ở Việt Nam, thể hiện ở những nội dung sau:
Xây dựng những khái niệm, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT; xác định rõ thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực BVMT của
một số cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật quy định; xác định rõ vị trí pháp lý
của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt trong bộ máy hành chính nhà nước; nhiệm
vụ, quyền hạn, chức năng của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt.
Phân tích, đánh giá thực trạng THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. Làm
rõ những kết quả đạt được qua công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường thông qua
các kết luận thanh tra, kết quả kiểm tra của các cuộc thanh tra, kiểm tra của cơ quan
có thẩm quyền; chỉ ra những kết quả bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp
luật của các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực BVMT. Đồng thời chỉ
rõ những nguyên nhân của những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến việc THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay.
Làm rõ yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn khách quan nhằm phát huy vai trị của một số

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền XPVPHC nói chung và XPVPHC trong lĩnh vực


5

BVMT nói riêng trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu khắc phục những hạn chế, bất cập
trong quá trình THPL, áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử
phạt nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đưa ra quan điểm khoa học để nâng cao chất lượng của việc THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, đặc biệt đối với một số cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền XPVPHC; phải đặt trong tổng thể đối mới bộ máy hành chính nhà nước và
trong mối liên hệ với các cơ chế với các quyền lực nhà nước khác; phải quán triệt
quan điểm của Đảng về công tác XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trong thời gian
qua; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT.
Đề xuất các giải pháp khoa học phát huy tình hình thực tiễn THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
tình hình mới. Cụ thể: Hoàn thiện pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT; hồn
thiện hệ thống tiêu chuẩn mơi trường Việt Nam; thực hiện quy chế phối hợp giữa các
cơ quan có thẩm quyền trong công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT; tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được giao thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực
BVMT; tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT; đầu tư cơ sở vật chất, trạng thiết bị phục vụ phát hiện và XLVPHC trong lĩnh
vực BVMT; tăng cường sự tham gia và giám sát của cơ quan dân cử, các tổ chức xã
hội và Nhân dân đối với THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho q trình
hồn thiện về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
XPVPHC trong giai đoạn hiện nay, cho việc nghiên cứu và xây dựng chiến lược phát
triển cho các ngành có thẩm quyền XPVPHC trong thời gian tới. Luận án là tài liệu

tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật về
XLVPHC và XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam.
- Luận án cung cấp luận cứ khoa học và tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà
nghiên cứu pháp lý, sinh viên pháp lý khi nghiên cứu về XLVPHC nói chung và
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêngl thực hiện phổ biến giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật về XLVPHC, tổ chức THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT có hiệu quả và khả thi trong thực tiễn.
- Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng
dạy, học tập về XLVPHC nói chung, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói
riêng trong các cơ sở đạo tạo chuyên luật và không chuyên luật.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.


6

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Luận án đã khái qt những cơng trình nghiên cứu trong nước về THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, có rất nhiều các cơng trình khoa học được thể hiện
dưới các hình thức khác nhau nghiên cứu các khía cạnh THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện,
có hệ thống về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tình hình THPL nói chung,
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam nói riêng cịn là lĩnh vực chưa
có sự quan tâm, nghiên cứu một cách đúng mức. Đây chính là điểm hạn chế, khoảng

trống còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như khoa học về THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Luận án trình bày kết quả nghiên cứu của một số cơng trình nghiên cứu về
XLVPHC nói chung và THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng, về hình
thức và nội dung xử phạt các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. mức xử phạt và
các biện pháp bổ sung, chế tài áp dụng khung hình phạt mang tính cưỡng chế,
nghiêm minh. Mơ hình các cơ quan cơng quyền có chức năng xử phạt và người có
thẩm quyền xử phạt của một số nước trên thế giới. Một số bài nghiên cứu được sưu
tập từ sách, tạp chí của một số nhà nghiên cứu có úy tín về mơi trường, BVMT và
XPVPHC trong lĩnh vực BVMT.
1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, CÁC CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT
NGHIÊN CỨU

Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT, trong đó tập trung phân tích luận giải các vấn đề cơ bản khái niệm, chủ thể,
nội dung, hình thức, vai trị, các yếu tố đảm bảo THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT; Luận án tập trung phân tích đánh giá những nội dung về thực trạng THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay; phân tích, hệ thống hóa và
xây dựng các quan điểm chỉ đạo, đề xuất các giải pháp để xử lý nguyên nhân và khắc
phục những hạn chế, yếu kém nhằm bảo đảm THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT ở Việt Nam hiện nay.
Với các kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan và dựa
trên các lý thuyết sẵn có, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau: THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trước
yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thực hiện các quy định của pháp



7

luật.Yêu cầu nhận thức pháp luật và THPL một cách đúng đắn là những yếu tố quyết
định bảo đảm THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.
Từ đó, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời: Tình
hình THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT hiện nay có vai trị như thế nào đối
với đời sống kinh tế - xã hội của nước ta? Trong điều kiện hiện nay, THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT cần có thêm vai trị gì để điều chỉnh ý thức, trách
nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm trong THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT? Trong quá trình thực hiện, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ảnh
hưởng như thế nào đến tình hình THPL nói chung? Thực tế THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống xã hội hiện nay ở
nước ta? Có thể đạt đến hiệu quả cao nhất của tình hình THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT khơng?
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRỊ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

2.1.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm trong và ngoài nước, nghiên cứu sinh đưa
ra các khái niệm quan trọng như XLVPHC, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT. THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là một trong những hoạt động về
THPL của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền XPVPHC, đặc biệt đối với lĩnh vực
XLVPHC, đây là lĩnh vực rất rộng, được điều chỉnh bằng Luật XLVPHC. XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT là việc một số tổ chức, cá nhân có thẩm quyền XPVPHC xem

xét và giải quyết đối với các hành vi vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực
BVMT do các cá nhân, cơ quan hay tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà
không thuộc phạm vi các tội hình sự đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Pháp
luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện; Pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là hệ
thống các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước và cá nhân có
thẩm quyền xem xét và giải quyết đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT
do các cá nhân, cơ quan hay tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không
thuộc phạm vi các tội hình sự theo quy định.


8

2.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ mơi trường
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là một quá trình hoạt động có mục
đích của các cơ quan, tổ chức và cá nhân làm cho các quy định pháp luật về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trở thành hiện thực trong cuộc sống, nhằm xử lý
nghiêm minh và kịp thời đối với các hành vi vi phạm hành chính về BVMT, góp
phần BVMT an tồn và trong lành cho cộng đồng xã hội. Việc đánh giá THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và cập
nhật đầy đủ phản ánh từ doanh nghiệp, địa phương, các tổ chức, cá nhân trong áp
dụng pháp luật BVMT nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và bảo đảm
pháp luật được tuân thủ và thực thi có hiệu quả trong cuộc sống.
2.1.3. Đặc điểm và vai trò thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
- Đặc điểm của THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá
trình XLVPHC về BVMT, bao gồm hệ thống các hoạt động của các chủ thể mang

quyền lực nhà nước, bắt đầu từ khi phát hiện ra VPHC và kết thúc khi cá nhân, tổ
chức VPHC về BVMT đã thực hiện xong quyết định XLVPHC; cơ sở của THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là VPHC đã xảy ra trên thực tế nhưng đã được
QPPL về BVMT dự liệu từ trước; điều chỉnh các VPHC về BVMT. Các hành vi vi
phạm về BVMT thường khó phát hiện ngay lập tức mà phải có hậu quả xảy ra mới có
thơng tin báo về cơ quan có thẩm quyền; là hoạt động mang tính chất liên vùng, liên
ngành cao, cần phải có sự liên kết, phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan chức năng
khác nhau trong nội bộ một địa phương hoặc giữa các địa phương, các vùng trong
toàn quốc; thường gắn với hoạt động mang tính yếu tố kỹ thuật, nghiệp vụ chun
mơn cao của chủ thể có thẩm quyền và gắn với việc sử dụng các công cụ, phương
tiện công nghệ hiện đại; chủ yếu dựa vào quy chuẩn kỹ thuật môi trường để phát hiện
mức độ vi phạm pháp luật của các chủ thể. Thông qua các quy định về quy chuẩn kỹ
thuật môi trường để xem xét mức độ VPHC đó có vi phạm các quy định về quy
chuẩn kỹ thuật trong một số lĩnh vực thuộc hệ thống quy định về BVMT hay không;
biện pháp THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT đa dạng, phong phú. Bên cạnh
việc áp dụng các biện pháp phạt cảnh cáo, phạt tiền... còn áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hành chính, khắc phục hậu quả để khơi phục lại tình trạng ban đầu theo quy
định của pháp luật.
- Vai trị THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội; giữ vai trò quan trọng
trong việc BVMT, bảo đảm cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững; góp phần nâng
cao ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân và vào cơng cuộc xây dựng, hồn


9

thiện hệ thống pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng và hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung;
2.2. NỘI DUNG, CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG


2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ mơi trường
Thực hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT có những nội dung
sau đây:
Thứ nhất, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực bảo vệ sự đa dạng sinh học và
bảo tồn thiên nhiên. Tổ chức, cá nhân có hành vi khai thác các nguồn sinh vật không
đúng quy định của pháp luật, sử dụng các cơng cụ, phương tiện có tính chất hủy diệt
hàng loạt, làm tổn hại tính đa dạng sinh học, gây mất cân bằng sinh thái thì tùy theo
mức độ vi phạm, hậu quả gây ra thì sẽ bị XPVPHC, xử lý nghiêm bằng các hình thức
đã được pháp luật quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế tối đa những hành vi vi phạm
có thể xảy ra, trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý hình sự theo
quy định.
Thứ hai, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực bảo vệ, phát triển rừng. Đối với
các hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ và phát triển rừng trước hết phải tuân theo
các quy định về xử phạt chung của Luật Xử lý vi phạm hành chính, sau đó tuân thủ
các quy định của chuyên ngành về lĩnh vực này. Người nào có hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng mà gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân thì ngồi việc bị xử lý theo quy định tại Điều 85 của Luật bảo vệ và phát triển
rừng còn phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực bảo vệ, phát triển rừng đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm được nhà nước giao thẩm quyền
cho một số cá nhân, tổ chức như Kiểm lâm viên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
các cấp. Việc xử phạt vi phạm hành chính các hành vi vi phạm bảo vệ và phát triển
rừng ở Việt Nam được áp dụng các theo các quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Thứ ba, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực về quản lý chất thải và quản lý chất
thải nguy hại. Hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại có thể là
khơng làm hoặc làm không đúng các quy định của nhà nước về quản lý chất thải
nguy hại, gây ô nhiễm môi trường như quản lý không đúng điều kiện, tiêu chuẩn quy

định; không xử lý chất thải độc hại theo quy định. Hành vi vi phạm quy định về quản
lý chất thải nguy hại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ơ nhiễm mơi trường
(ƠNMT) nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác như hủy hoại thảm thực
vật, động vật, gây bệnh tật, chết người, gây khó khăn trong việc xử lý ơ nhiễm, khắc
phục hậu quả, sự cố môi trường. Việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm
về môi trường ngày một khó khăn hơn nên các cơ quan có thẩm quyền xử phạt đã


10

khẩn trương nhập cuộc, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, tăng cường
tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về BVMT kết hợp với xử lý
nghiêm minh,
Thứ tư, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường nước. Các hành
vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
đối với các hành vi vi phạm đòi hỏi sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành có liên
quan và trách nhiệm của tồn thể nhân dân, xã hội trong cơng tác kiểm tra, rà sốt
tổng hợp các tổ chức, cá nhân có hoạt động xả nước thải vào hệ thống cơng trình thủy
lợi tại địa phương.Kiên quyết xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi pham pháp luật
về gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là vi phạm về xả nước thải chưa qua xử lý hoặc
xử lý chưa đạt tiêu chuẩn vào hệ thống cơng trình thủy lợi; gắn trách nhiệm của chính
quyền cấp cơ sở nếu để tình trạng vi phạm cơng trình thủy lợi, vi phạm về xả thải tái
diễn trên địa bàn hành chính được giao quản lý.
Thứ năm, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đất. Theo quy
định của pháp luật, các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi sử dụng đất trong sinh hoạt
hàng ngày hoặc trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không được vi
phạm các điều cấm của pháp luật trong lĩnh vực mơi trường đất. Ngồi ra, Luật đất
đai năm 2013 cũng nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân có hành vi huỷ hoại đất đai,
khơng sử dụng đất, sử dụng đất khơng đúng mục đích. Riêng đối với việc bảo vệ
vùng đất bị ngập nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện một số hành vi vi phạm sẽ bị

xử phạt về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước theo quy định.
Thứ sáu, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực mơi trường khơng khí. Cá nhân, tổ
chức gây ƠNMT khơng khí phải tiến hành ngay các biện pháp để khắc phục ô nhiễm
và cải thiện mơi trường. Cơ quan có thẩm quyền chung trong bảo vệ mơi trường
khơng khí là Chính phủ, Chính phủ có trách nhiệm tổ chức, thực hiện các biện pháp
BVMT cũng như quy định các chế tài xử phạt các hành vi vi phạm trong lĩnh vực
môi trường; thi hành chính chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; thống nhất quản lý về BVMT trong phạm vi cả nước. Và như vậy, Chính
phủ sẽ chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ và kiểm sốt ơ nhiễm khơng khí. Ở địa
phương, UBND các cấp là cơ quan chịu trách nhiệm THPL về XLVPHC về khơng
khí bị ơ nhiễm tại địa phương mình. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
UBND các cấp sẽ thực hiện một số cơng việc như kiểm sốt ô nhiễm không khí tại
địa phương và xử phạt đối với hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức trong hoạt động
khai thác, sử dụng liên quan đến lĩnh vực môi trường; đồng thời, cũng chỉ đạo cơ
quan chuyên mơn tham mưu trình UBND các cấp ban hành các văn bản chỉ đạo liên
quan đến XLVPHC trong lĩnh vực khơng khí bị ơ nhiễm.
2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường
Tuân thủ pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: là hình thức
THPL, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động
mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này.


11

Tuân thủ pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế của chủ thể để không
vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật. Tuân thủ pháp luật THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT có nhiều yếu tố tích cực đối với xã hội, do đó, đối
với những quy định pháp luật tương đồng với các quy định của văn bản QPPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT thì sẽ được cộng đồng dễ dàng chấp nhận, tuân thủ

nghiêm túc và tự giác chấp hành.
Chấp hành pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: là hình thức
THPL, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Một cá nhân, tổ chức muốn thực hiện hoạt động về khai thác mơi
trường phải có đủ các điều kiện mà cơ quan có thẩm quyền cấp phép cho hoạt động
khai thác này, không được phát sinh hành vi vi phạm mà pháp luật cấm. Nếu phát
sinh vi phạm thì phải chịu hình thức xử phạt của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong lĩnh vực BVMT.
Sử dụng pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: là một trong
những các hình thức THPL, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do
pháp lý của mình trong giới hạn cho phép của pháp luật. Nhà nước tạo khả năng cho
các chủ thể có thể được hưởng những quyền nào đó và chủ thể thực hiện các quyền
này hay khơng là tùy thuộc vào mong muốn, ý chí của chủ thể. Những quy phạm
pháp luật quy định về các quyền và tự do pháp lý của các tổ chức, cá nhân được thực
hiện ở hình thức này. Tuy nhiên, Nhà nước cũng yêu cầu các chủ thể pháp luật phải
thực hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, chỉ được tiến hành những hành vi
nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật. Chủ thể khi thực hiện hành
vi khai thác về môi trường, đã chấp hành đầy đủ các điều kiện về BVMT và thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định đó nhưng vẫn bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt về một
hành vi xả thải vào môi trường. Nếu cho rằng cơ quan có thẩm quyền xử phạt về
hành vi đó là chưa chính xác thì chủ thể có thể nghiên cứu các quy định của pháp luật
có liên quan và sử dụng các quy định pháp luật đó để khiếu nại là quyết định xử phạt
của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, cho rằng xử phạt bản thân mình là chưa đúng.
Lúc này cơ quan có thẩm quyền cũng cần xem xét lại các quy định đã áp dụng để xử
phạt đối với chủ thể này và có phản hồi bằng văn bản theo quy định.
Áp dụng pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT: Là hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thơng qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật,
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là hình

thức THPL mang tính tổng hợp, trong đó có cả ba hình thức tuân thủ pháp luật, thi
hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật đòi hỏi phải được
áp dụng theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung mà pháp luật đã quy định nhằm bảo
đảm tính hợp lý, hợp tình và chính xác. Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp


12

luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể
thực hiện được thì áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật chỉ dành cho
các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật được
xem là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước, nó vừa là một hình thức
thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định của pháp
luật. Đương nhiên các cơ quan nhà nước trong quá trình áp dụng pháp luật thì cũng
phải tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật
được tiến hành thuận lợi, chính xác, đúng mục đích mong muốn.
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG, PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG MỘT SỐ NƯỚC VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường
- Yếu tố pháp lý: Đối với văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) quy định về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT thì phải phù hợp với hệ thống pháp luật nói chung
và phải bảo đảm tính tồn diện và đồng bộ thể hiện ở cấu trúc hình thức của văn bản
về BVMT nói riêng, nghĩa là hệ thống pháp luật về XLVPHC phải có khả năng đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời
sống xã hội, các văn bản quy định về XLVPHC phải có cấu trúc lơgíc, chặt chẽ; mỗi

chế định pháp luật về BVMT phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết; mỗi
ngành luật riêng đều được quy định các chế định pháp luật theo cơ cấu của ngành
luật; cịn hệ thống pháp luật có đủ các ngành luật đáp ứng được nhu cầu phát triển
của các quan hệ xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
- Yếu tố về kinh tế - xã hội: Nói đến yếu tố kinh tế - xã hội là nói đến tổng thể
các điều kiện, hồn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật về các chính sách xã
hội và tình hình triển khai thực hiện, áp dụng hệ thống pháp luật đó vào trong thực
tiễn. Nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững là điều kiện thuận lợi cho hoạt động
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu
biết pháp luật, ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội về môi trường, BVMT và
XLVPHC đối với BVMT. Yếu tố kinh tế là nền tảng chính của sự nhận thức về
quyền lợi, lợi nhuận của các chủ thể tham gia khai thác, sử dụng các dịch vụ từ mơi
trường, từ đó dẫn đến sự hiểu biết pháp luật và THPL nên có tác động mạnh mẽ tới
hoạt động THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của các chủ thể pháp luật.
- Yếu tố tâm lý: Nhiều cơng trình khoa học đã chứng minh, người Việt Nam có
truyền thống “duy tình hơn duy lý”. Tuy nhiên, chính tâm lý duy tình đã ảnh hưởng
khơng tốt đến ý thức THPL nói chung và THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT
nói riêng của người dân Việt Nam. Chính tâm lý “trọng tình” đã chi phối đến hành vi
của người dân khi THPL về BVMT. Do vậy, để pháp luật về BVMT có thể phát huy


13

được hiệu quả trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý lựa chọn cách thức hữu hiệu để
pháp luật gắn với đời sống sinh hoạt, tâm lý của người dân, nhất là đối với những
cộng đồng dân cư ở vùng quê, vùng sâu, vùng xa. Ngoài những yếu tố nêu trên, hiệu
quả THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT còn bị chi phối bởi các yếu tố khác
như: tập quán sinh hoạt và lối sống, yếu tố quốc tế, bộ máy tổ chức.
- Yếu tố về tổ chức, nhân sự: Năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về
BVMT từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVMT ngày càng

lớn, phức tạp. Xây dựng cơ chế tham vấn, phối hợp trong công tác bổ nhiệm, đề bạt,
đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cơ quan chuyên môn về tài nguyên và môi trường ở địa
phương. Chỉ đạo việc kiện toàn tổ chức và tăng cường năng lực cho các cơ quan
chuyên môn về BVMT tại địa phương; chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
tuyển chọn cán bộ có chun mơn phù hợp với u cầu của công tác quản lý môi
trường. Tăng cường năng lực điều phối, thống nhất quản lý nhà nước về môi trường
trên phạm vi cả nước của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Chỉ đạo
việc hình thành bộ phận quản lý về bảo tồn đa dạng sinh học trong cơ cấu của Chi
cục BVMT ở địa phương để triển khai thực hiện Luật Đa dạng sinh học. Có cơ chế
để cấp xã, phường bố trí cán bộ phụ trách công tác môi trường trên địa bàn.
- Một số yếu tố khác: Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các đoàn thể
nhân dân đối với BVMT của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Cán bộ, đảng viên
cần gương mẫu chấp hành và thực hiện tốt việc BVMT và XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT để quần chúng nhân dân noi theo. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động để quần chúng nhân
dân hiểu và nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT; tăng cường sự giám sát của các tổ
chức dân cử, tổ chức xã hội và nhân dân đối với THPL về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân
tham gia THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT; chỉ đạo các tổ chức chính trị xã hội tăng cường thực hiện quyền phản biện, giám sát, tham gia quản lý nhà nước về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. Tăng cường các hoạt động giám sát chuyên đề của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với công tác BVMT; tập trung vào các vấn
đề nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm. Về kinh phí bảo đảm cho việc tổ
chức triển khai THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. Đảng và Chính phủ đã
thống nhất và quan tâm tăng tỷ lệ chi ngân sách cho hoạt động sự nghiệp mơi trường
nói chung và hoạt động THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng nhằm
bảo đảm yêu cầu trong giai đoạn mới, đặc biệt là có cơ chế phù hợp và tăng chi ngân
sách cho các hoạt động quản lý nhà nước về BVMT, trong đó có cơng tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát; bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn thực hiện Chương trình quốc gia
khắc phục ơ nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2016 - 2020.



14

2.3.2. Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ mơi trường ở một số nước trên thế giới
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về THPL về XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT cho thấy, đây là vấn đề rất được quan tâm, được ưu tiên hàng
đầu ngang cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cùng với các quy định
và hình thức áp dụng pháp luật vào XLVPHC nghiêm minh, hạn chế tối đa được
những hậu quả gây ra cho môi trường. Từ kinh nghiệm của mỗi nước trong THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, có thể kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo trong
điều kiện góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh của Việt Nam hiện nay
về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.
Chương 3
TÌNH HÌNH VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ TÌNH HÌNH VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

3.1.1. Khái quát về môi trường ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù nền kinh tế nước ta đã chịu những ảnh hưởng khơng nhỏ của suy thối
kinh tế thế giới, tuy nhiên, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục gây nhiều
sức ép lên môi trường. Bên cạnh một số ngành sản xuất cơng nghiệp, hoạt động xây
dựng bị ngưng trệ, thậm chí ngừng hoạt động nhưng những ngành công nghiệp nặng
vẫn tiếp tục là nguồn gây ÔNMT. Đặc biệt, trong 2 năm trở lại đây, các hoạt động xây
dựng các tuyến đường giao thông, đô thị, sản xuất công nghiệp bắt đầu tăng trở lại đã
đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý và BVMT. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực
trong việc quản lý, ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nhưng chất lượng môi trường
nhiều nơi vẫn đang tiếp tục bị suy giảm. Ô nhiễm bụi vẫn tiếp tục duy trì ở ngưỡng cao

tại nhiều đơ thị. Ơ nhiễm nước khơng chỉ cịn tập trung ở các khu vực hạ lưu, các đô
thị, khu vực sản xuất mà đã xuất hiện ở một số khu vực thượng nguồn, vùng nơng
thơn. Nguy cơ ơ nhiễm và suy thối mơi trường đất hay vấn đề chuyển đổi mục đích sử
dụng đất cũng đã và đang gióng lên hồi chng báo động đối với đời sống người dân
cũng như hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, diễn biến biến đổi khí hậu
và các vấn đề mơi trường xuyên biên giới ngày càng lớn, phức tạp và khó lường.
3.1.2. Tình hình vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ sự đa dạng sinh học và bảo tồn
thiên nhiên: Bảo vệ sự đa dạng sinh học có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của toàn nhân loại. Với ý
nghĩa hết sức quan trọng như vậy, tuy nhiên, bản thân giá trị của đa dạng sinh học lại


15

khơng được quan tâm, nhận thức đầy đủ. Nhiều lồi động vật hoang dã, quý hiếm đã
tuyệt chủng, một số loài cũng đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng do nạn buôn
bắn, săn bắn và xuất khẩu trái phép. Tổ chức, cá nhân có hành vi khai thác các nguồn
sinh vật không đúng quy định của pháp luật, sử dụng các cơng cụ, phương tiện có
tính chất hủy diệt hàng loạt, làm tổn hại tính đa dạng sinh học, gây mất cân bằng sinh
thái thì tùy theo mức độ vi phạm, hậu quả gây ra thì sẽ bị XPVPHC, trong trường hợp
gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý hình sự theo quy định. Việc quy định mức xử
phạt cao nhất đối với hành vi vi phạm này là điều hết sức cần thiết vì hiện nay, các
lồi động thực vật quy định trong Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên
bảo vệ số lượng ngày càng ít đi, đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng vì có giá trị
về khoa học và kinh tế cao.
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ, phát triển rừng: Tình hình vi
phạm pháp luật về BVMT về bảo vệ và phát triển rừng nói riêng diễn ra phức tạp,
ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình phát triển kinh tế - xã hội, gây ra nhiều bức xúc
trong xã hội. Tỷ lệ các hành vi vi phạm được thống kê cho thấy các nhóm hành vi vi

phạm chiếm tỷ lệ tương đối đồng đều, dao động từ 8,3% đến 25,0%. Trong đó, nhóm
hành hi mua bán, vận chuyển, cất giữ, chế biến, kinh doanh lâm sản trái pháp luật
chiếm tỷ lệ lớn nhất, nhóm hành vi vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ động vật
hoang dã chiếm tỷ lệ nhỏ nhất. Thực trạng trên cũng cho thấy, hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng tương đối đa dạng, phong phú xảy ra đối với nhiều
loại tài nguyên, gỗ, lâm sản ngoài gỗ. Chủ thể vi phạm pháp luật chủ yếu là do các tổ
chức thực hiện như Công ty Lâm nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh
doanh gỗ, lam sản được cấp giấy phép khai thác tận thu khi có dự án liên quan đến
chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, doanh nghiệp tư nhân được giao đất, giao
rừng, các công ty, doanh nghiệp triển khai các dự án xây dựng, giao thơng, du lịch,
khai thác khống sản giáp ranh hoặc trên diện rích đất trồng.
- Vi phạm hành chính về quản lý chất thải và quản lý chất thải nguy hại: Sự
tăng trưởng kinh tế với tốc độ ngày càng cao, quy mô ngày càng lớn cũng đồng nghĩa
với việc một khối lượng lớn tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác triệt để để đưa
vào sản xuất. Với chính sách thu hút đầu tư nhằm đạt tốc độ phát triển kinh tế cao,
nhiều nhà máy, khu cơng nghiệp mọc lên kéo theo đó là những hậu quả nghiêm trọng
về mơi trường. Các doanh nghiệp vì tiết kiệm chi phí đã khơng quan tâm đến vấn đề
kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường nên thường xun xả thải trái phép, chơn lấp chất thải
nguy hại trong lịng đất, gây những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, tình hình vi phạm
pháp luật về bảo vệ mơi trường và vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
ngày càng phổ biến.
- Vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường nước: Vi phạm phổ biến nhất hiện
nay của các doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên nước là không tuân thủ quy
định của Luật Tài nguyên nước về xin cấp phép khai thác, xả nước thải vào nguồn
nước. Đây chính là một trong lý do dẫn đến nguồn nước ngày càng bị suy thoái, cạn
kiệt. Qua kiểm tra các doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên địa bàn


16


các tỉnh đều có lỗi giống nhau là khơng có giấy phép khai thác, xả nước thải theo quy
định hoặc nếu có thì việc khai thác cũng vi phạm hoặc vượt quy định cho phép. Việc
chấp hành pháp luật về tài nguyên nước cho thấy còn chưa cao. Ngay cả công ty
chuyên cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ, thương mại cũng
chưa có ý thức tuân thủ pháp luật. Các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh
vực tài nguyên nước chủ yếu do lợi ích kinh tế trước mắt mà cố tình vi phạm các quy
định của pháp luật, bất chấp sẽ có những hậu quả xảy ra, thậm chí sẽ có hậu quả
nghiêm trọng gây ảnh hưởng lâu dài trong tương lai. Đối với mỗi hành vi VPHC,
ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, tổ chức, cá
nhân VPHC có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như:
buộc thực hiện đầy đủ biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường, suy thối,
cạn kiệt nguồn nước; buộc xử lý, khắc phục sự cố sụt, lún đất hoặc sự cố bất thường
khác; buộc thực hiện các giải pháp phục hồi đất đai, môi trường...
- Vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường đất: Các hành vi vi phạm pháp luật
về kiểm soát suy thoái tài nguyên đất thường do các chủ thể làm biến dạng địa hình,
gây ơ nhiễm đất; làm mất hoặc làm giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã
được xác định; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách
nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái các quy định về quản lí và bảo vệ tài
ngun đất.
- Vi phạm hành chính về mơi trường khơng khí: Nếu trong nước thải, bụi, khí
thải có cả các thông số môi trường nguy hại, vi khuẩn, hoặc giá trị pH ngồi ngưỡng
quy chuẩn kỹ thuật thì chọn thơng số tương ứng với hành vi vi phạm có mức phạt
tiền cao nhất của mẫu nước thải, hoặc bụi, khí thải để xử phạt. Các thông số môi
trường vượt quy chuẩn kỹ thuật còn lại của cùng mẫu chất thải đó sẽ bị phạt tăng
thêm từ 10% - 50% mức phạt tiền cao nhất của hành vi vi phạm đối với mỗi thông số,
tăng so với quy định cũ từ 1% - 4%…Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành
chính quy định trên là mức phạt tiền quy định đối với hành vi vi phạm hành chính
của cá nhân, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức bằng 2
lần mức phạt tiền với cùng hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Ngoài các mức
phạt trên, các cá nhân và tổ chức vi phạm còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục

hậu quả tương ứng.
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

3.2.1. Kết quả thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường và nguyên nhân
3.2.1.1. Kết quả thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ mơi trường
Từ những kết quả về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT cho thấy tình hình
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT đã có những kết quả khả thi. Áp dụng các
quy định của VBQPPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền xử phạt đã triển khai các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về


17

XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, nhập cuộc, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp
vụ, tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về môi trường kết
hợp với xử lý nghiêm minh, đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đã hình thành
được hệ thống chuyên trách kiểm tra chuyên ngành về lĩnh vực BVMT từ trung ương
đến địa phương, có đội ngũ cán bộ, cơng chức được đào tạo cơ bản, có tâm huyết,
nhiệt tình với sự nghiệp BVMT nói chung và hăng hái trong công cuộc XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT được các ngành, các cấp và tầng lớp nhân dân ghi nhận. Nhiều
vụ việc mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền XPVPHC phát hiện và xử lý
trong thời gian qua đa phần từ tin báo, tố giác tội phạm của các tổ chức, đoàn thể, cá
nhân và của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, qua thực tế cơng tác, đã
phát hiện những sơ hở thiếu sót trong hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, quản lý
điều hành và tham mưu cho Lãnh đạo các cấp báo cáo Quốc hội, Chính phủ, các bộ,
ngành từng bước xây dựng và hồn thiện pháp luật, cơ chế chính sách, quản lý điều
hành phục vụ ngày càng hiệu quả cho công tác xử phạt vi phạm pháp luật về BVMT,

trong đó có nhiều VBQPPL tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền XPVPHC.
3.2.1.2. Nguyên nhân của kết quả thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Một là, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương
trong cả nước. Sự chỉ đạo thường xuyên của các cấp chính quyền trong thực hiện
nghiêm các quy định của pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, đặc biệt là
tinh thần trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt trong vấn đề thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về BVMT.
Hai là, hệ thống pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT ngày càng được
bổ sung hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn với những yêu cầu, đòi hỏi điều chỉnh
các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực BVMT. Qua đó, quy định rõ ràng hơn nội dung,
trách nhiệm của các chủ thể THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền xử phạt. Từ đó,
nâng cao ý thức THPL và chấp hành pháp luật của toàn xã hội trong việc BVMT.
Đồng thời, hệ thống tổ chức, cơ quan địa phương sẽ thay đổi suy nghĩ cũng như hành
động của mình trong THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT, xử phạt nghiêm
minh đối với những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.
Ba là, cơng tác kiện tồn, hồn thiện chức năng, nhiệm vụ và bổ sung đội ngũ
cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT. Theo đó, về cơ cấu tổ chức, hiện
nay Tổng cục Mơi trường có 18 đơn vị trực thuộc, bao gồm 05 đơn vị tổng hợp và 07
cục chức năng, 06 đơn vị sự nghiệp; các Cục; các Trung tâm. Về tổ chức bộ máy của
các địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Nội vụ đã ban hành
Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28/8/2014 hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi trường


18

thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phịng Tài ngun và

Mơi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là cấp huyện) cho phù hợp với tình hình mới.
Bốn là, cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật về THPL về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT được thực hiện một cách thường xuyên, bài bản, khoa học và có
bước đột phá mới, thơng qua các Hội nghị tập huấn nghiệp vụ, đài báo, họp bản, làng,
các chương trình phối hợp giữa các cơ quan với nhau.
Năm là, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, nhận thức về vai
trò, tầm quan trọng của BVMT đối với các lĩnh vực của cuộc sống và ý thức, tránh
nhiệm trong việc THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của nhân dân, cá nhân,
tổ chức có thẩm quyền xử phạt ngày càng được nâng lên.
3.2.2. Hạn chế thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ mơi trường và ngun nhân
3.2.2.1. Hạn chế thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ mơi trường
Thứ nhất, nhiều chủ thể không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ, kịp
thời nghĩa vụ mà pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT quy định.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp không thực hiện và thực hiện không đầy đủ
chương trình quan trắc, giám sát mơi trường; khơng bố trí khu vực lưu trữ tạm thời
chất thải nguy hại, thu gom, phân biệt, phân loại chất thải nguy hại theo quy định;
không thực hiện báo cáo định kỳ quản lý chất thải nguy hại; chưa có biện pháp thu
gom, phân biệt, phân loại chất thải rắn đảm bảo yêu cầu kỹ thuật về BVMT; không
lập lại báo cáo đánh giá tác động mơi trường trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thẩm định, phê duyệt; khơng xây dựng cơng trình xử lý nước tải theo quy định; Các
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản chưa lập bản đồ hiện trạng khai thác
khống sản; chưa có thiết kế khai thác mỏ; không thực hiện việc quan trắc, đúng tần
suất chưa ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; không có thiết kế cơ sở mỏ; chưa nộp
tiền cấp quyền khai thác mỏ; Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước
khai thác tài nguyên nước mặt vượt lưu lượng tối đa trong giấy phép; không lắp đặt
thiết bị giám sát lưu lượng khai thác nước mặt; xả nước thải vào nguồn nước khơng
có giấy phép; xả nước thải vào nguồn nước vượt lưu lượng tối đa và khơng đúng vị

trí trong giấy phép; khơng thực hiện các biện pháp bảo vệ nguồn nước dưới đất khu
vực giếng khoan; khơng lập báo cáo định kỳ tình hình xả nước thải vào nguồn nước
hoặc lập báo cáo tình hình xả nước thải vào nguồn nước nhưng nội dung không đầy
đủ theo quy định; công tác thanh tra, kiểm tra quản lý nhà nước về tài ngun mơi
trường cịn ít về số lượng và hiệu quả XLVPHC chưa cao.
Thứ hai, nhiều chủ thể chưa tuân thủ pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT, tình trạng tiến hành những hành vi mà pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT cấm còn khá phổ biến.


19

Đối với các đối tượng có dấu hiệu vi phạm và cố tình vi phạm, trốn tránh trách
nhiệm BVMT các cơ quan có thẩm quyền tiếp cận và xử lý; nghiên cứu kỹ hồ sơ liên
quan đến đối tượng. Bên cạnh đó, nhiều chủ thể vi phạm pháp luật về BVMT có thủ
đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt; khơng chấp hành các quy định xử phạt của cơ
quan có thẩm quyền, thậm chí có thái độ thách thức.
Thứ ba, việc sử dụng pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT cịn ít, hiệu quả
chưa cao.
Hoạt động giám sát, quản lý của chính quyền, ngành chức năng về BVMT cơ
sở có lúc, có nơi cịn lỏng lẻo, chưa quyết liệt. Phần lớn các trường hợp vi phạm được
phát hiện, xử lý khi chính quyền, ngành chức năng kiểm tra chuyên đề, định kỳ tại
doanh nghiệp, cơ sở; số ít các vi phạm như chôn lấp, đổ lén chất thải công nghiệp ra
kênh rạch…được phát hiện từ việc mục sở thị của cán bộ, hoặc từ tố giác, phối hợp
của người dân. Không chỉ ở địa phương, mà ngay bên trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất, dù công tác quản lý nhà nước về môi trường được thắt chặt hơn, nhưng
vi phạm vẫn diễn ra phổ biến, thậm chí có nhiều doanh nghiệp, cơ sở tái phạm nhiều
lần. Việc quản lý, giám sát, theo dõi để phát hiện, xử lý các vi phạm của chính quyền
cơ sở cũng chưa thực sự tốt; hoạt động tuyên tuyền, kêu gọi các đoàn thể xã hội,
người dân tham gia giám sát, phát hiện các trường hợp vi phạm chưa hiệu

quả…Chưa kể đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực BVMT
vẫn chưa phát huy được trách nhiệm mà nhà nước ủy quyền, giao phó.
Thứ tư, việc áp dụng pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT chưa kịp thời,
thiếu kiên quyết, nhiều vụ vi phạm chưa được xử lý
Mức độ áp dụng pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT vẫn còn thấp.
Mức độ vi phạm pháp luật về BVMT còn cao, công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực môi trường chưa đáp ứng yêu cầu, tỷ lệ phát hiện hành vi vi phạm
còn thấp; số vụ phát hiện cịn ít. Trong XLVPHC về BVMT, số vụ vi phạm nghiêm
trọng nhiều nhưng số vụ bị kiến nghị xử lý cịn rất ít. Cơng tác quản lý nhà nước,
phối hợp chưa hiệu quả, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở nhiều nơi còn
chưa đáp ứng được yêu cầu. Số lượng các vụ việc vi phạm vẫn đang có xu hướng
tăng. Trong khi đó, quy trình xử lý các hành vi vi phạm còn nhiều bất cập, dẫn đến
nhiều vụ việc đã không được xử lý một cách thỏa đáng và đảm bảo tính răn đe. Các
hành vi vi phạm về lĩnh vực BVMT muốn xác định được hành vi vi phạm phải thông
qua những biện pháp khoa học kỹ thuật, máy móc, phương tiện hiện đại nên rất khó
xác định mức độ vi phạm. Mức độ rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng để xác
định cấu thành tội phạm trong lĩnh vực BVMT rất khó định lượng vì hậu quả do hành
vi nghiêm trọng diễn ra rất phức tạp trên thực tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, nhiều vụ vi phạm
chưa được xử lý. Hệ thống pháp luật tưởng chừng quá đầy đủ và nghiêm khắc trong
lĩnh vực môi trường nhưng mỗi khi áp dụng vào thực tiễn lại tỏ ra yếu ớt, kém hiệu


20

lực. Từ trước đến nay việc XPVPHC trong lĩnh vực BVMT là phạt pháp nhân gây ô
nhiễm chứ không phải phạt cá nhân người đại diện theo pháp luật (hoặc chủ doanh
nghiệp) của đơn vị vi phạm.
3.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường

* Ngun nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống thực hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT
chưa thật sự hoàn thiện. Điều này biểu hiện ở sự chưa đồng bộ, thống nhất của hệ
thống pháp luật, tính quy phạm của hệ thống pháp luật chưa cao, còn nhiều quy định
của pháp luật chỉ mới dừng lại ở dạng những nguyên tắc chung, nhiều quy định
không phù hợp với thực tế nên rất khó thực hiện.
Thứ hai, cơng tác tun truyền, phổ biến về nội dung, tinh thần của văn bản
quy định pháp luật tới cán bộ, nhân dân và các đối tượng có liên quan để mọi người
nhận thức chính xác, đẩy đủ, biết được những gì nên làm, những gì nên làm, những gì
có thể làm, những gì khơng được làm...được tiến hành với hiệu quả chưa cao. Nhiều
tổ chức và cá nhân vẫn chưa có sự hiểu biết pháp luật cần thiết để từ đó chủ động
quyết định hành vi sản xuất, kinh doanh của mình. Nhiều chủ thể bị thu thiệt khi sản
xuất, kinh doanh, nhất là làm ăn với các đối tác nước ngồi vì khơng hiểu biết pháp
luật đầy đủ.
Thứ ba, công tác chỉ đạo và quản lý nhà nước về XLVPHC trong lĩnh vực
BVMT cũng chưa thật tốt. Việc phân công cơ quan hay những người có chức vụ,
quyền hạn chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện văn bản hay quy định pháp luật nhiều
khi không rõ ràng. Việc tuyển dụng hoặc đào tạo và bố trí cơng chức, viên chức chưa
thật phù hợp, nhiều cơng chức, viên chức về mặt năng lực, trình độ và cả đạo đức
chưa tương xứng với công việc được giao. Một số cơ quan áp dụng pháp luật chưa
được tổ chức một cách khoa học, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chưa thật tốt, do đó vẫn cịn hiện tượng hoạt động
chồng chéo, mâu thuẫn, không phối hợp hoặc cản trở lẫn nhau trong công việc của
các cơ quan này. Một số công chức, viên chức chưa đáp ứng được nhu cầu của công
việc, ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm chưa cao, vẫn cịn hiện tượng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, trì trệ, giấy tờ hình thức hoặc thờ ơ, lãnh đạm đối
với số phận, tính mạng con người, với tài sản của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế
và của nhân dân. Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ, biện pháp quản lý nhà
nước về mơi trường cịn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu lực, hiệu quả của công
tác quản lý nhà nước chưa cao, đặc biệt trong phịng ngừa, kiểm sốt các nguồn gây

ƠNMT. Quy hoạch BVMT chậm được ban hành làm căn cứ thẩm định, quyết định
chủ trương đầu tư; chất lượng của các báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với
các dự án đầu tư, đặc biệt là một số dự án đầu tư lớn chưa cao, chưa phát huy tốt hiệu
quả của cơng cụ phịng ngừa ơ nhiễm. Trong khi đó, cịn thiếu các cơ chế, tiêu chí về


21

mơi trường để sàng lọc hiệu quả các loại hình sản xuất, công nghệ sản xuất, các dự án
đầu tư vào khu vực nhạy cảm về môi trường. Thiếu cơ chế thúc đẩy khu vực kinh tế
xanh, đầu tư vào các loại hình sản xuất thân thiện với mơi trường. Đang xuất hiện
ngày càng nhiều dự án đầu tư có quy mơ lớn được cấp phép song thiếu tính tốn về
quy hoạch, chưa được đánh giá đầy đủ các tác động tới mơi trường; việc kiểm sốt,
phịng ngừa, ứng phó với các sự cố môi trường trong các dự án đầu tư chưa được
quan tâm thích đáng.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành BVMT hiện nay chưa đáp
ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng, mất cân đối về cơ cấu. Ở Trung ương,
một số lĩnh vực cịn thiếu đội ngũ cơng chức, viên chức có trình độ cao, chun mơn
sâu; ở địa phương, đội ngũ công chức, viên chức làm công tác BVMT, đặc biệt các
lĩnh vực đánh giá tác động môi trường, an toàn sinh học, bảo tồn đa dạng sinh học,
kinh tế môi trường...đang thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, ở cấp huyện trung
bình có 02 cán bộ là q ít, đặc biệt chưa có cán bộ chun trách về môi trường cấp
xã. Lực lượng cán bộ chuyên môn môi trường tại các doanh nghiệp tuy đã được bổ
sung, phát triển nhưng nhìn chung cịn yếu và thiếu, do vậy công tác giám sát nội bộ
và thực thi pháp luật BVMT ở các doanh nghiệp còn chưa thực sự hiệu quả. Cơ cấu
đội ngũ cán bộ chưa hợp lý, phần lớn số cơng chức, viên chức hiện có đều được đào
tạo về các chuyên ngành kỹ thuật, thiếu kỹ năng quản lý. Việc bố trí cơng tác chưa
phù hợp, thường xuyên có sự luân chuyển cán bộ, nhất là ở cấp huyện, xã. Đội ngũ
công chức, viên chức chưa được chun nghiệp, chuẩn hóa, hiện đại hố.
Thứ năm, các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ cho việc triển

khai thực hiện một số quy định pháp luật chưa đầy đủ. Đầu tư cho BVMT còn rất
hạn chế, chỉ đáp ứng một phần nhu cầu; còn thiếu các cơ chế huy động nguồn lực
trong xã hội đầu tư cho BVMT; nguồn thu từ môi trường chưa được sử dụng đầu
tư trở lại cho BVMT.
* Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức, ý thức trách nhiệm về BVMT của chủ đầu tư, một số ngành,
cấp chính quyền, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư còn hạn chế; tình trạng chú trọng
lợi ích kinh tế trước mắt, coi nhẹ cơng tác bảo vệ mơi trường cịn khá phổ biến, nhất
là trong quá trình thẩm định, xét duyệt, thực hiện các dự án đầu tư.
Hai là, sự phối hợp trong việc triển khai công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện
và XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của các đơn vị chưa được diễn ra thường xuyên,
nhiều lúc cịn xảy ra tình trạng chồng chéo...
Ba là, chưa phát huy được vai trị của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực bảo vệ môi
trường và giám sát chặt chẽ công tác quản lý, việc chấp hành pháp luật về BVMT của
các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.


22

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

Thứ nhất, bảo đảm quán triệt các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam liên
quan đến lĩnh vực BVMT.

Thứ hai, bảo đảm thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong quá trình
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.
Thứ ba, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT phải bảo đảm yêu cầu mọi
vi phạm phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm túc và công bằng.
Bốn là, THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT phải bảo đảm yêu cầu cải
cách hành chính, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp,
vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước về môi trường.
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG HIỆN NAY

Thứ nhất, hồn thiện pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong
công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT.
Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được giao thẩm
quyền XPVPHC trong lĩnh vực BVMT.
Thứ năm, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về XLVPHC trong lĩnh
vực BVMT.
Thứ sáu, đầu tư cơ sở vật chất, trạng thiết bị phục vụ phát hiện và XLVPHC
trong lĩnh vực BVMT
Thứ bảy, tăng cường sự tham gia và giám sát của cơ quan dân cử, các tổ chức
xã hội và Nhân dân đối với THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT


23

KẾT LUẬN
Việt Nam được ghi nhận là quốc gia có những tiến bộ đáng kể trong nỗ lực
BVMT nói chung và THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng. Tuy nhiên,
việc môi trường bị tàn phá nghiêm trọng, đa dạng sinh học đang mất cân bằng và tình

trạng ƠNMT ngày càng phức tạp đã dẫn đến một thực trạng là ÔNMT ở Việt Nam
hiện nay đang ở mức báo động. Pháp luật đã quy định những hình thức, mức xử phạt,
các biện pháp bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả rất nghiêm khắc nhưng những
hành vi vi phạm đó vẫn khơng chấm dứt mà vẫn diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn.
Nguyên nhân đấy do đâu? Câu hỏi này đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn chưa
giải quyết được tình trạng vi phạm pháp luật về BVMT dứt điểm. Thực hiện Luận án
với đề tài "Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
mơi trường ở Việt Nam hiện nay" là cần thiết trong giai đoạn hiện nay vì nó sẽ trả lời
câu hỏi đã nêu trên.
Thực hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là hệ thống quy phạm
pháp luật lấy XLVPHC làm trung tâm, ghi nhận và thiết lập các đảm bảo nhằm tiến tới
giữ cho môi trường được cân bằng, hạn chế tối đa sự thiệt hại về môi trường do hành vi
của con người gây ra, thể hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về XLVPHC trong
lĩnh vực BVMT nhằm xây dựng một xã hội hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Pháp luật về THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT
có các đặc trưng sau: i) Ghi nhận và thiết lập các biện pháp bảo đảm cho hoạt động
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT được thực hiện một cách có hiệu quả; ii)
THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với
xã hội, với cộng đồng dân cư trong công tác bảo đảm chặt chẽ để các quy định của pháp
luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trong cuộc sống; iii) THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về hoạt động BVMT cũng như xử lý nghiêm minh những hành vi
cố tình gây thiệt hại cho mơi trường nói chung và ý thức THPL của cộng đồng dân cư, tổ
chức, cá nhân nói riêng về cơng tác BVMT.
Thực hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT hiện nay là tổng thể
các hoạt động có mục đích của các chủ thể, đặc biệt là trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước nhằm hiện thực hóa pháp luật về các quy định XPVPHC của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam thành các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể qua các
hoạt động cụ thể vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh. THPL có 4 hình thức: Tuân thủ pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực

BVMT; Chấp hành pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT; Sử dụng
pháp luật THPL về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT và Áp dụng pháp luật THPL về
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. Các hình thức này gắn với yêu cầu của Nhà nước


×