Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hiệu quả của một số biện pháp sinh học trong quản lý bọ Hà (Cylas formicarius Fabr.) tại tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.33 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC – ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ

Lê Thị Thảo và nnk (2020)
(20):1 - 7

HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP SINH HỌC TRONG QUẢN LÝ
BỌ HÀ (Cylas formicarius Fabr.) TẠI TỈNH SƠN LA
Lê Thị Thảo, Bùi Thị Sửu, Phạm Thị Mai, Trần Đình Tồn, Vũ Thị Nự
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Nghiên cứu này đã đánh giá hiệu quả của một số biện pháp sinh học trong quản lý Bọ hà tại tỉnh Sơn
La. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong điều kiện phịng thí nghiệm sử dụng nấm sinh học cho hiệu quả khá cao. Độ
hữu hiệu của nấm M. anisopliae và nấm B. bassiana đạt cao nhất sau 23 ngày tiếp xúc lần lượt là 70,5% và 67,0%.
Sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động trong phòng thí nghiệm, độ hữu hiệu của nấm M. anisopliae và nấm B.
bassiana đạt cao nhất tại tuần thức 6 lần lượt là 65,9 và 61,6 % sau khi tiếp xúc. Ngoài đồng ruộng sử dụng hệ
thống lây nhiễm nấm tự động và sử dụng bẫy pheromone giới tính cho hiệu quả tốt với tỷ lệ củ do Bọ hà gây hại
lần lượt là 13,8% và 25,2 % so với đối chứng là 47,4 %. Chế phẩm sinh học Beauveria bassiana và Metarhizium
anisopliae cũng giảm tác hại do Bọ hà gây ra, tỷ lệ củ bị Bọ hà gây ra lần lượt là 14,8% và 15,4 % so với đối chứng
là 36 %. Giá trị phòng trừ của hệ thống lây nhiễm nấm tự động trong phòng trừ Bọ hà là cao nhất đạt 71%.
Từ khóa: Bọ hà, bẫy pheromone giới tính, chế phẩm sinh học, hệ thống lây nhiễm tự động

1. Đặt vấn đề
Bọ hà khoai lang (Cylas formicarius Fabr.)
là đối tượng gây hại quan trọng nhất trong canh
tác cây khoai lang trên toàn thế giới [1]. Bọ hà
cũng là đối tượng gây thiệt hại mạnh đối với sản
xuất khoai lang ở Việt Nam nói chung, tỉnh Sơn
La nói riêng.
Trong phịng trừ Bọ hà khoai lang, biện pháp
hóa học vẫn được ưu tiên sử dụng. Tuy nhiên,
bên cạnh những tác động xấu đến môi trường


và sức khỏe con người, hiệu quả phịng trừ của
thuốc hóa học đối với Bọ hà thường không cao
do sự gây hại chủ yếu trong củ nằm dưới mặt
đất [4]. Nhiều biện pháp an toàn đã được nghiên
cứu và áp dụng nhằm mục đích luân phiên hoặc
thay thế cho thuốc trừ sâu để phòng trừ Bọ hà
khoai lang. Trong đó, áp dụng bẫy pheromone
giới tính đã có hiệu quả [2]. Theo Nguyen Cong
Hao et al. (1996), sử dụng bẫy pheromone giới
tính với mật độ 10 bẫy/ha làm giảm thiệt hại
do Bọ hà gây ra là 20%. Theo nghiên cứu của
Jenn-Sheng (1992), tại Đài Loan, giá trị phòng
trừ của bẫy pheromone giới đối với Bọ hà khoai
lang là 56,9%.
Sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động
cũng được đánh giá có hiệu quả phịng trừ Bọ

hà cao. Bọ hà đực bị hấp dẫn bởi pheromone
giới tính sẽ bay đến bẫy và rời khỏi bẫy khi đã
tiếp xúc với nấm. Kết quả cho thấy ruộng khoai
lang nơi đặt hệ thống lây nhiễm nấm tự động có
tỷ lệ Bọ hà đực chết cao nhất do nhiễm nấm là
96,2% ở thời điểm 21 ngày sau khi xử lý và Bọ
hà cái là 24% (35 ngày sau xử lý) [7].
Trong nghiên cứu này chúng tơi trình bày
hiệu quả sử dụng bẫy pheromone giới tính,
bẫy lây nhiễm nấm tự động, chế phẩm sinh
học có nguồn gốc nấm Beauveria bassiana,
Metarhizium anisopliae phịng trừ Bọ hà hại
khoai lang tại phịng thí nghiệm Trường Đại học

Tây Bắc và bản Tây Hưng, xã Muổi Nọi, Huyện
Thuận Châu.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Phịng thí nghiệm Bảo vệ thực
vật, Trường Đại học Tây bắc và bản Tây Hưng,
xã Muổi Nọi, huyên Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
- Thời gian: Tháng 6/2017 – 10/2018
2.2. Vật liệu nghiên cứu
Mồi pheromone giới tính chứa hợp chất (Z)3-dodecenyl-(E)-2-butenoate, sản phẩm của
Trường Đại học Cần Thơ.

1


Chế phẩm sinh học Beauveria bassiana
(Beauveria bassiana), Metarhizium anisopliae
(metarhizium anisopliae) sản phẩm của Viện
Bảo Vệ Thực Vật.
Nguồn Bọ hà khoai lang: Củ khoai bị nhiễm
Bọ hà được thu từ các ruộng khoai lang đã thu
hoạch tại xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La đem về phịng thí nghiệm nhân ni. Sử
dụng Bọ hà trưởng thành sau vũ hóa 10 – 15
ngày tuổi làm thí nghiệm.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm 1: Khảo sát hiệu lực gây chết
của chế phẩm sinh học nấm B. bassiana và
nấm M. anisopliae đối với trưởng thành Bọ
hà trong phịng thí nghiệm

- Thí nghiệm được bố trí hồn tồn ngẫu nhiên
với 3 cơng thức: cơng thức 1: chế phẩm nấm M.
anisopliae; công thức 2: chế phẩm nấm B. bassiana
và công thức 3: đối chứng: gạo (Do gạo là chất
mang của nấm), 3 lần lặp lại. Mỗi lần lặp lại của
1 công thức là 30 trưởng thành Bọ hà khoai lang.
- Cách tiến hành: thả 40 Bọ hà trưởng thành
vào 1 hộp có chứa 20g chế phẩm nấm (công thức
đối chứng là 20g gạo), sau 1 phút gắp riêng từng
cá thể cho vào 30 cốc nhựa nhỏ (01 Bọ hà/cốc).
Trong cốc nhỏ bao gồm một lớp giấy thấm nước
để giữ ẩm, một miếng khoai lang nhỏ để làm thức
ăn và 1 Bọ hà đã tiếp xúc với nấm. Sử dụng Bọ hà
trưởng thành sau vũ hóa 10 – 15 ngày tuổi làm thí
nghiệm. Các thí nghiệm khác thực hiện tương tự.
+ Chỉ tiêu theo dõi: số Bọ hà còn sống và số
Bọ hà chết vào các ngày 3, 7, 11, 15, 19, 23, 27
sau khi nhiễm nấm.
Độ hữu hiệu của nấm ký sinh được tính theo
cơng thức Abbott

Độ hữu hiệu (%) =

C-T

X 100
C
Trong đó: C: số trưởng thành Bọ hà cịn sống
ở cơng thức đối chứng
T: Số trưởng thành Bọ hà cịn sống ở cơng

thức có xử lý nấm
Thí nghiệm 2: Khảo sát hiệu lực gây chết
của hệ thống lây nhiễm nấm tự động đối với
trưởng thành Bọ hà trong phịng thí nghiệm

2

- Thí nghiệm được bố trí hồn tồn ngẫu
nhiên với 3 cơng thức: chế phẩm nấm M.
anisopliae, chế phẩm nấm B. bassiana và đối
chứng (gạo), 3 lần lặp lại. Mỗi lần lặp lại của
1 công thức gồm 1 Bọ hà tiếp xúc với hệ thống
lây nhiễm nấm tự động và 30 Bọ hà trưởng
thành khỏe mạnh.
- Hệ thống lây nhiễm nấm tự động được làm
từ hộp nhựa (20x14cm) được cắt tạo 4 khoảng
trống (4x4cm) ở 4 mặt bên. Tạo 1 khoảng trống
(2x4cm) ở phía dưới mặt bên giúp Bọ hà thốt
ra ngồi dễ dàng. Trên nắp có đục lỗ để treo mồi
pheromone. Đổ 100g chế phẩm nấm hoặc gạo
(đối chứng) vào đáy bẫy.
- Cách tiến hành: để hệ thống lây nhiễm nấm
tự động gần rổ khoai lang nuôi Bọ hà, đợi Bọ hà
đực trưởng thành bay vào tiếp xúc với pheromone
và rơi xuống đáy hộp, sau khi Bọ hà thốt ra ngồi
hệ thống thì dùng kẹp gắp 1 Bọ hà đực cho vào
hộp nhựa (14 x 20 cm) chuẩn bị sẵn gồm 30 Bọ
hà khỏe mạnh không bị nhiễm nấm và 1 củ khoai
lang sạch. Bên dưới đáy hộp nhựa có chứa đất đã
được khử trùng và 1 miếng xốp ẩm để duy trì độ

ẩm tự nhiên. Sử dung Bọ hà trưởng thành sau vũ
hóa 10 – 15 ngày tuổi làm thí nghiệm.
- Chỉ tiêu theo dõi: số Bọ hà còn sống và
số Bọ hà chết sau 3 ngày, 5 ngày, 1 tuần, 2
tuần…7 tuần.
Độ hữu hiệu của chế phẩm nấm ký sinh được
tính theo cơng thức Abbott

Độ hữu hiệu (%) =

C-T

X 100
C
Trong đó: C: số trưởng thành Bọ hà cịn sống
ở cơng thức đối chứng;
T: số trưởng thành Bọ hà còn sống ở cơng
thức có xử lý nấm.
- Thí nghiệm 3: Sử dụng bẫy pheromone
giới tính và hệ thống lây nhiễm nấm tự động
phịng trừ Bọ hà ngồi đồng ruộng
Thí nghiệm bố trí gồm 3 công thức, mỗi
công thức 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 5 bẫy
đặt trên diện tích 500 m2 khoai lang.
Công thức 1: Sử dụng bẫy pheromone giới tính
(5 bẫy/lần nhắc), 3 lần nhắc lại làm tại 3 vườn.


- Mật độ đặt bẫy: 1 bẫy/ 100m2, độ cao bẫy
50cm so với mặt đất. Bẫy được làm từ hộp

nhựa (20x14cm) được cắt tạo 4 khoảng trống
(4x4cm) ở 4 mặt bên. Trên nắp có đục lỗ để
treo mồi pheromone. Đổ nước xà phòng (nước
rửa chén và nước pha theo tỷ lệ 1:100) vào đáy
bẫy để giết Bọ hà khi chúng vào bẫy. Thay
nước xà phòng trong bẫy định kì 1 tuần/lần.
Thay mời Pheromone giới tính trong bẫy định
kì 1 tháng/lần.
Cơng thức 2: Sử dụng hệ thống lây nhiễm
nấm tự động (5 bẫy/lần nhắc), 3 lần nhắc lại làm
tại 3 vườn.
- Mật độ: 1 bẫy/ 100m2, độ cao bẫy 50cm
so với mặt đất. Bẫy được làm từ hộp nhựa
(20x14cm) được cắt tạo 4 khoảng trống

(4x4cm) ở 4 mặt bên. Tạo 1 khoảng trống
(2x4cm) ở phía dưới mặt bên giúp Bọ hà
thốt ra ngồi dễ dàng. Trên nắp có đục lỗ để
treo mồi pheromone. Đổ 100g chế phẩm nấm
M. anisopliae vào đáy bẫy. Nón được treo
trên đỉnh bẫy nhằm hạn chế ảnh hưởng của
mưa và nắng đến hiệu quả của pheromone và
nấm. Thay mời Pheromone giới tính và nấm
trong bẫy định kì 1 tháng/lần. Đặt bẫy sau
trồng 15 ngày và thu bẫy sau 2 tháng đặt trên
đồng ruộng.
Công thức 3: Đối chứng (áp dụng biện pháp
canh tác của nông dân: vệ sinh đồng ruộng, dọn
sạch tàn dư trước khi trồng, khơng phịng trừ
bằng biện pháp khác)

+ Chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ (%) củ bị hại



Hình 1: Hệ thống lây nhiễm tự động
- Thí nghiệm 4: Sử dụng chế phẩm sinh
học phịng trừ Bọ hà ngồi đồng ruộng
Thí nghiệm bố trí gồm 3 cơng thức, diện tích
mỗi ơ thí nghiệm: 100 m2.
Cơng thức 1: sử dụng chế phẩm sinh học
Beauveria bassiana, 3 lần nhắc lại. Sử dụng 2
lần/vụ, rải vào đất trước khi trồng 1 ngày và sau
trồng 45 ngày, 2kg/1000 m2/lần.
Công thức 2: sử dụng chế phẩm sinh học
Metarhizium anisopliae, 3 lần nhắc lại. Sử dụng
2 lần/vụ, rải vào đất trước khi trồng 1 ngày và
sau trồng 45 ngày, 2kg/1000 m2/lần.
Công thức 3: đối chứng (theo tập quán người
dân – sử dụng biện pháp canh tác như vệ sinh
đồng ruộng, dọn sạch tàn dư trước khi trồng,

khơng phịng trừ bằng biện pháp khác)
+ Chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ (%) củ bị hại
- Phương pháp lấy mẫu và đánh giá tỷ lệ
củ bị hại ở thí nghiệm 3 và thí nghiệm 4: lấy
tổng số củ của 10 cây ở giai đoạn thu hoạch (sau
trồng 95 ngày) theo đường chéo trong mỗi ơ thí
nghiệm.
* Tính giá trị của biện pháp phịng trừ [8 ]


Giá trị phòng trừ (%) = 100 - (

T x 100
C

)

Trong đó: T: Tỷ lệ củ bị hại ở cơng thức thí
nghiệm
C: Tỷ lệ củ bị hại ở cơng thức đối chứng

3


- Xử lý số liệu: Số liệu ghi nhận được xử lý
bằng phần mềm Excel và phần mềm R.
3. Kết quả và thảo luận
3.1 Khảo sát hiệu lực gây chết của chế phẩm
sinh học B. bassiana và M. anisopliae đối với
trưởng thành Bọ hà trong phịng thí nghiệm
Ở điều kiện nhiệt độ 29 C trong phịng thí
nghiệm, cả 2 nấm M. anisopliae và nấm B. bassiana
đều có khả năng gây chết Bọ hà khoai lang. Sau 3
ngày khi tiếp xúc với nấm hiệu quả của nấm M.
anisopliae là 2,2% và nấm B. bassiana là 1,1%
0

khơng có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5%.
Sau 15 ngày tiếp xúc với nấm hiệu lực
của nấm B. bassiana cao hơn so với nấm M.

anisopliae lần lượt là 35,9% và 17,9 % có sự
khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5%.
Độ hữu hiệu của nấm tăng dần về sau đạt cao
nhất vào 23 ngày sau khi tiếp xúc với nấm M.
anisopliae đạt 70,5% và nấm B. bassiana đạt
67,0 %. Ở điều kiện nhiệt độ 290C và ẩm độ
69,5% khá phù hợp cho nấm phát triển và làm
Bọ hà chết nhiều (bảng 3.1).

Bảng 3.1. Độ hữu hiệu của nấm M. anisopliae và nấm B. bassiana đối với trưởng thành Bọ
hà khoai lang trong điều kiện phịng, năm 2018
T=29 0C, RH=69,5%
Cơng thức

Độ hữu hiệu (%) của nấm M. anisopliae và nấm B. bassiana vào các
ngày sau khi tiếp xúc
3 ngày

7 ngày

11 ngày

15 ngày

19 ngày

23 ngày

27 ngày


Nấm M. anisopliae

2,2 a

6,7 a

13,3 a

17,9 a

43,1 a

67,0 a

66,3 a

Nấm B. bassiana

1,1 a

16,7 b

25,6 b

35,9 b

54,6 a

70,5 a


69,7 a

Số liệu được chuyển đổi sang Arcsin trước khi phân tích thống kê. Các chữ cái trong cùng một
cột khác biệt nhau thì số liệu khác nhau ở độ tin cậy 95%
3.2 Khảo sát hiệu lực gây chết khi sử dụng
hệ thống lây nhiễm nấm tự động đối với trưởng
thành Bọ hà tại phịng thí nghiệm
Ở điều kiện nhiệt độ 30 0C trong phịng thí
nghiệm, khả năng lây nhiễm nấm và gây chết
trưởng thành Bọ hà khoai lang khi sử dụng hệ
thống lây nhiễm nấm tự động cho hiệu quả.
Công thức sử dụng nấm B. bassiana và nấm M.
anisopliae đều cho hiệu quả. Cơng thức sử dụng
nấm M. anisopliae có độ hữu hiệu cao hơn so với
công thức sử dụng nấm B. bassiana nhưng khơng

4

có sự khác biệt thống kê ở mức ý nghĩa 5%.
Sau 1 tuần khi tiếp xúc với hệ thống lây
nhiễm nấm tự động độ hữu hiệu của nấm tăng
dần ở cả 2 công thức. Độ hữu hiệu của nấm M.
anisopliae và nấm B. bassiana đạt cao nhất tại
tuần thứ 6 lần lượt là 65,9 và 61,6 % sau khi tiếp
xúc. Do Bọ hà nhiễm nấm đã giao phối và lây
lan nấm với bọ hà khỏe trong hộp. Sau đó hiệu
lực của nấm giảm mạnh do số lượng bọ hà chết
ở tại các công thức nấm giảm và số lượng bọ hà
ở công thức đối chứng tăng (bảng 3.2).



Bảng 3.2. Hiệu lực của nấm M. anisopliae và nấm B. bassiana trong hệ thống lây nhiễm nấm
tự động đối với quần thể trưởng thành Bọ hà khoai lang ở điều kiện phịng, năm 2018
T=30 0C, RH=71,5%
Cơng thức

Độ hữu hiệu (%) của nấm Ma và nấm Bb vào các ngày sau khi tiếp xúc
3 ngày 5 ngày

1 tuần

2 tuần

3 tuần

4 tuần

5 tuần

6 tuần

7 tuần

Nấm M.
anisopliae

0

4,3a


7,5 a

12,9 a

20,4 a

30,8 a

41,8 a

65,9 a

61,7 a

Nấm B.
bassiana

0

5,4a

10,8 a

16,1 a

21,5 a

28,7 a

38,6 a


61,6 a

55,0 a

Số liệu được chuyển đổi sang Arcsin trước khi phân tích thống kê. Các chữ cái trong cùng một
cột khác biệt nhau thì số liệu khác nhau ở độ tin cậy 95%
3.3. Hiệu quả và giá trị phòng trừ của biện
pháp sử dụng pheromone giới tính và biện
pháp sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động
phòng trừ Bọ hà khoai lang

Hiệu quả và giá trị phòng trừ của bẫy
pheromone giới tính và hệ thống lây nhiễm nấm
tự động trong phịng trừ Bọ hà được thể hiện ở
bảng 3.3.

Bảng 3.3. Hiệu quả và giá trị phòng trừ của biện pháp pheromone giới tính và biện pháp sử
dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động phòng trừ Bọ hà khoai lang (năm 2017)
Công thức

Tỷ lệ củ bị hại do Bọ hà (%)

Giá trị phòng trừ (%)

Đối chứng

47,4a

Bẫy pheromone


25,2b

51b

Hệ thống lây nhiễm nấm tự động

13,8c

71a

Các chữ cái trong cùng một cột khác biệt nhau thì số liệu khác nhau ở độ tin cậy 95%
Kết quả so sánh ở độ tin cậy 95% nhận
thấy giữa công thức đối chứng, công thức sử
dụng bẫy pheromone giới tính và cơng thức
sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động có
sự khác nhau. Tỷ lệ củ bị hại do Bọ hà ở công
thức sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự động
và bẫy pheromone giới tính lần lượt là 13,8%
và 25,2 % thấp hơn rất nhiều so với công thức
đối chứng là 47,4 %. Biện pháp sử dụng hệ
thống lây nhiễm nấm tự động và biện pháp
sử dụng bẫy pheromone giới tính cho hiệu
quả tốt trong việc hạn chế gây hại của Bọ hà.
Trong đó sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự
động cho hiệu quả tốt hơn so với sử dụng bẫy
pheromone giới tính.
Giá trị phịng trừ của hệ thống lây nhiễm

nấm tự động trong phòng trừ Bọ hà là cao nhất

đạt 71%, sau đó đến bẫy pheromone giới tính
đạt giá trị phịng trừ 51% vào năm 2017.
3.4. Hiệu quả của biện pháp sử dụng chế
phẩm sinh học phòng trừ Bọ hà khoai lang
Tại Đài Loan, Kao et al. (1998) cho thấy
nấm B. bassiana được phân lập từ đất canh tác
bị nhiễm Bọ hà được sử dụng và phịng trừ Bọ
hà khoai lang. Thử nghiệm ngồi đồng ruộng
với việc rải nấm B. bassiana (109 bào tử/g) ở
thời điểm trồng sẽ mang lại hiệu quả phòng trừ
Bọ hà khoai lang.
Hiệu quả của biện pháp sử dụng chế phẩm
sinh học phòng trừ Bọ hà khoai lang được thể
hiện ở bảng 3.4

5


Bảng 3.4. Hiệu quả của biện pháp sử dụng chế phẩm sinh học phịng trừ Bọ hà khoai lang
(năm 2018)
Cơng thức

Tỷ lệ củ bị hại do Bọ hà (%)

Đối chứng

36a

M. anisopliae


15,4b

B. bassiana

14,8b

Các chữ cái trong cùng một cột khác biệt nhau thì số liệu khác nhau ở độ tin cậy 95%
Kết quả so sánh ở độ tin cậy 95% nhận thấy
giữa công thức đối chứng và công thức sử dụng
chế phẩm sinh học có sự khác nhau. Tỷ lệ củ
bị hại do Bọ hà ở công thức sử dụng chế phẩm
sinh học B. bassiana là 14,8% và M. anisopliae
là 15,4% thấp hơn so với công thức đối chứng
là 36%. Tuy nhiên hiệu quả của 2 loại nấm M.
anisopliae và B. bassiana lại khơng có sự khác
nhau. Sử dụng chế phẩm sinh học đã giảm thiểu
được số lượng củ bị hại từ đó hạn chế thiệt hại
về năng suất cũng như chất lượng khoai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Chalfant, R.B. (1990). Ecology and
management of sweet potato insects. Ann.
Rev. Entomol. 35: 157-180.

[2]

Heath R. R., Coffelt J.A., Proshold F. I.,
Jansson R. K., and Sonnet P. E. (1991). Sex

pheromone of Cylas formicarius: History
and implications of chemistry in weevil
management. in Jansson R. K. and Raman
K. V. (eds.). Sweet Potato Pest Management.
Oxford & IBH Publishing, New Delhi.
pp. 79-67

[3]

Hwang, J.S. and C.C. Hung. (1992).
Integrated control of sweet potato weevil,
Cylas formicarius, with sex pheromone
and insecticide. In: Proceedings of a
Symposium on Non –agrochemical
Control Techniques of Insect and Disease
Pests. Plant Protection Society of the
Republic of China 99.81-94

[4]

Jansson, R. K. (1991). Biological control
of Cylas spp., pp. 169–201, in R. K.
Jansson and K.V. Raman (eds.). Sweet
Potato Pest Management. Oxford & IBH
Publishing, New Delhi.

[5]

Kao, S.S., Y.S. Tsai, P.S. Yang,
B.C. Wang, and J. Hua, (1998).

User’s guide of commonly occurred
entomopathogenicfungi in Taiwan. Food
Industry Research and Development
Institute, Hsinchu, Taiwan, ROC, 120p.

[6]

Nguyen Cong Hao, Nguyen Cuu Thi
Huong Giang, Nguyen Cuu Khoa, and
Nguyen Thanh Son, (1996). Synthesis
and application of insect attractants in

4. Kết luận
Trong điều kiện phịng thí nghiệm độ
hữu hiệu của nấm M. anisopliae và nấm B.
bassiana đạt cao nhất lần lượt là 70,5% và
67,0% sau 23 ngày tiếp xúc. Sử dụng hệ thống
lây nhiễm nấm tự động độ hữu hiệu của nấm
M. anisopliae và nấm B. bassiana đạt cao nhất
tại tuần thức 6 lần lượt là 65,9 và 61,6 % sau
khi tiếp xúc.
Tỷ lệ củ bị hại ngoài đồng ruộng ở cơng thức
thí nghiệm sử dụng hệ thống lây nhiễm nấm tự
động và sử dụng bẫy pheromone giới tính lần
lượt là 13,8 % và 25,2 % đều giảm so với đối
chứng lần lượt là 33,6% và 22,2% (Tỷ lệ củ bị
hại ở công thức đối chứng là 47,4%). Tỷ lệ củ
bị hại ở công thức sử dụng chế phẩm sinh học
M. anisopliae và B. bassiana lần lượt là 15,4%
và 14,8% đều giảm so với đối chứng lần lượt là

20,6% và 21,2% (Tỷ lệ củ bị hại ở công thức đối
chứng là 36%).
Khuyến khích người dân nên sử dụng hệ
thống lây nhiễm nấm tự động, chế phẩm sinh
học và bẫy pheromone giới tính phịng trừ Bọ
hà trong canh tác khoai lang để hạn chế sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật.

6


[7]

Vietnam. Resources, Conservation and
Recycling, 18: 59-68.

Applied Entomology and Zoology, 34:
501-505.

Yasuda, K., (1999). Auto-infection
system for the sweet potato weevil, Cylas
formicarius Fabricius (Coleoptera:
Curculionidae) with entomopathogenic
fungi, Beauveria bassiana, using a
modified sex pheromone trap in the field.

[8] />WHO%2FCDS%2FWHOPES%2FG
CDPP%2F2005&oqWHO/CDS/
WHOPES/GCDPP/2005.13. Guidelines
for laboratory and field testing of

mosquito larvicides

EFFECTIVENESS OF SOME BIOLOGICAL MEASURES IN SWEET
POTATO WEEVIL (Cylas formicarius Fabr.) MANAGEMENT
IN SON LA PROVINCE
Le Thi Thao, Bui Thi Suu, Pham Thi Mai, Tran Dinh Toan, Vu Thi Nu
Tay Bac University
Abtract: The research was aimed at evaluating the efficiency of some biological method in
sweet potato weevil (Cylas formicarius Fabr.) management in Son La province. The study showed
that inlaboratory conditions, the use of bio-pesticides Beauveria bassiana and Metarhizium
anisopliae brought relatively positive results. The effectiveness of M. anisopliae and B. bassiana
reached highest at 70,5% and 67,0% respectively after 23 days of inoculation. In laboratory
conditions with auto-infection system, the effectiveness of M. anisopliae reached a peak of 65,9%
and B. bassiana of 61,6 % at 6 weeks after inoculation.
In field, the use of auto-infection system and sex pheromone trap had good results at 13,8%
and 25,22% respectively compared to 47,4% of the control. Bio-pesticides Beauveria bassiana and
Metarhizium anisopliae also reduced the harm caused by the sweet potato weevil, with the sweet
potato ratio damaged of 14,8% and 15,4 % in comparison with the control of 36%. The control
value of auto-infection system to sweet potato weevil was highest at 71% .
Keywords: Sweet potato weevil, sex pheromone traps, bio- pesticides, auto- infection system
_____________________________________________
Ngày nhận bài: 25/02/2019 . Ngày nhận đăng: 22/11/2020
Liên lạc:

7



×