Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Thế giới phi lí trong tiểu thuyết “Thiên thần sám hối” và “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

ĐỖ THANH HUYỀN

THẾ GIỚI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT
“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI”
CỦA TẠ DUY ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

ĐỖ THANH HUYỀN

THẾ GIỚI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT
“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI”
CỦA TẠ DUY ANH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Đăng Dung


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, do
PGS.TS Trƣơng Đăng Dung trực tiếp hướng dẫn. Kết quả thu được là hồn tồn
trung thực và chưa được cơng bố trong cơng trình nào khác.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Đỗ Thanh Huyền


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành được luận văn này, tơi đã nhận được rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới PGS. TS Trương Đăng Dung, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo tận tình, động viên tơi trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau đại học,
Ban Chủ nhiệm khoa Văn học, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam đã nhiệt tình
giảng dạy,tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, động viên chúng tơi trong q
trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người thân đã ln
bên tơi, động viên và khuyến khích tơi trong q trình thực hiện đề tài nghiên
cứu của mình.
Luận văn được hồn thành song khơng tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cơ và các

bạn để đề tài được hồn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn
Đỗ Thanh Huyền


MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC ......................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 14
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ PHI LÍ TRONG TRIẾT HỌC
VÀ VĂN HỌC ................................................................................................ 15
1.1. Phi lí trong triết học ......................................................................... 15
1.2. Phi lí trong văn học .......................................................................... 18
1.3. Vài nét về yếu tố phi lí trong văn học Việt Nam sau đổi mới ...... 22
Chương 2: CON NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI PHI LÍ QUA TIỂU THUYẾT
“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI” CỦA TẠ DUY ANH .33
2.1. Con ngƣời lƣu đày ........................................................................... 33
2.2. Con ngƣời hoài nghi ........................................................................ 45
2.3. Con ngƣời dấn thân ......................................................................... 57
2.4. Con ngƣời cô đơn ............................................................................. 64
Chương 3: NGHỆ THUẬT MƠ TẢ CÁI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT “ĐI
TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI” CỦA TẠ DUY ANH......... 75
3.1. Thời gian phi lí ................................................................................. 75
3.2. Khơng gian phi lí .............................................................................. 84
3.3. Nhân vật vắng mặt và nhân vật kí hiệu ......................................... 89

3.4. Ngơn ngữ, giọng điệu nhiều sắc thái .............................................. 94
KẾT LUẬN ................................................................................................... 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 116

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ở phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh đã xuất hiện như một trào lưu tư tưởng
chính trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lí của triết học thời kì hiện đại. Từ
trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh là vấn đề nhân vị, các triết gia đã phát triển thành
những phạm trù cụ thể như: phi lí, buồn nơn, hư vô, tự do, lo âu, tha nhân hay nổi
loạn, dấn thân, địa ngục... Jean-Paul Sartre cùng một số các tác giả khác ở Paris sau
giải phóng đã có những tác phẩm thành công, đáng ghi nhận. Các tác phẩm của họ
chú trọng vào các chủ đề như "nỗi sợ, sự buồn chán, sự lạc lõng trong xã hội, sự phi
lí, tự do, cam kết, và hư vô" như là nền tảng của sự hiện sinh con người. Con người
tự do lựa chọn cách sống, thái độ sống của mình, nghĩa là con người có ý thức để
trở thành hiện sinh; và do đó mà con người ln đau khổ, dằn vặt, lo âu trong cuộc
kiếm tìm và lựa chọn tự do.
Trong số các phạm trù đó, vấn đề phi lí là một trong những vấn đề cơ bản, dần
dần trở thành khái niệm chủ chốt của chủ nghĩa hiện sinh. “Vấn đề phi lí đã xuất
hiện từ F.Rabelai đến các nhà văn lãng mạn như L.Caroll, J.Wift…và một số nhà
văn hiện đại khác như là một đối tượng của sáng tác văn học. Nhiều người gọi là
biện pháp huyễn tưởng phi lí” [24, tr. 222]. Họ đã xây nên một thế giới huyễn tưởng
riêng biệt với những nhân vật hài kịch làm đối tượng châm biếm và hài hước, qua
đó rút ra bài học cho thế giới thực tại. Vào những năm đầu của thế kỉ XX, ở châu
Âu rộ lên phong trào văn học phi lí với các tên tuổi nổi tiếng trong lịch sử văn học
toàn nhân loại như: Fr.Kafka, Alb.Camus, Eug.Ionesco, S.Beckett… Cao trào đó
diễn ra vào khoảng giữa thế kỉ XX. Về cơn bản, phong trào văn học phi lí đã chấm

dứt sự tồn tại vào cuối những năm 60, nhưng dư âm của nó thì vẫn cịn kéo dài cho
đến tận ngày nay. Khơng thể phủ nhận một điều rằng, văn học phi lí là một mảng
văn học có giá trị. Và có thể nói rằng, tìm hiểu về văn học phi lí là tìm hiểu về một
đóng góp đáng ghi nhận cho lịch sử văn học nhân loại.
1.2. Tại Việt Nam, văn học phương Tây đã in dấu ấn lên nền văn học từ khá lâu và
góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển của văn học nước nhà. Có thể dễ dàng nhận
thấy rằng mọi nỗ lực đổi mới, cách tân của tiểu thuyết chủ yếu là học theo “lối viết”
2


của phương Tây nói chung, văn học hiện sinh nói riêng. Và gần đây người ta
thường nói một cách ngắn gọn là viết theo lối “hậu hiện đại”.
Trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã xuất hiện khá nhiều tên tuổi
tài năng với một lối viết phá cách, mang đậm dấu ấn của “hậu hiện đại” phương Tây
như: Phạm Thị Hồi, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh, Dương
Hướng, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… Trong số đó, nhà văn Tạ Duy Anh là một cây
bút khá nổi với nhiều tập truyện dài và tiểu thuyết, hàng chục truyện ngắn, truyện
thiếu nhi, hàng trăm bài tản văn trên các báo. Có thể nói, ơng là một trong số ít
những nhà văn Việt Nam có những tác phẩm mang đậm tính phi lí, chịu ảnh hưởng
nhiều của văn học phương Tây. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất qua hai tập
tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu tên tuổi của ơng là Đi tìm nhân vật và Thiên thần
sám hối. Với một lối viết mới lạ, phá cách, ơng đã góp phần vào việc cách tân và
hiện đại hóa văn xi Việt Nam hiện đại. Nghiên cứu đề tài Thế giới phi lí trong
tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” và “Thiên thần sám hối” của Tạ Duy Anh, người viết
mong muốn được tìm hiểu, đào sâu một vấn đề từng là thành tựu của văn học thế
giới. Qua đó sẽ thấy được những ảnh hưởng của văn học phương Tây đến Việt Nam
như thế nào, nó biến đổi ra sao, có thành cơng và hạn chế gì. Từ việc nghiên cứu
một số tác phẩm của một tác giả đại diện, chúng ta sẽ có những cái nhìn đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về toàn cảnh của một giai đoạn văn học.
1.3. Bên cạnh đó, nghiên cứu đề tài Thế giới phi lí trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân

vật” và “Thiên thần sám hối”của Tạ Duy Anh là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Qua
đề tài này, tác giả luận văn sẽ có cái nhìn khách quan và khoa học về những đóng
góp của Tạ Duy Anh nói riêng và các nhà văn nói chung trong tiến trình phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Những triết lí, quan niệm mà tác giả gửi gắm
trong tác phẩm cũng là những bài học quý giá, thiết thực về cuộc sống của con
người nói chung. Ta bắt gặp đâu đó một số nhân vật, sự kiện trong tác phẩm như
hiện hữu ngay ở ngoài đời thực. Những vấn đề ơng đề cập đến trong tác phẩm ln
có giá trị ở mọi thời đại.

3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn học phi lí là một thành tựu của thế giới và đã được khá nhiều nhà nghiên
cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu vấn đề phi lí
trong các tác phẩm văn học Việt Nam thì chưa có nhiều cơng trình. Đặc biệt, các bải
phê bình, nghiên cứu về Tạ Duy Anh rất ít, chủ yếu là trên các báo mạng. Qua khảo
sát bước đầu, chúng tôi thấy các ý kiến mới dừng lại trên tinh thần nghiên cứu tổng
quan hoặc bàn luận tản mạn trong một vài tác phẩm đơn lẻ. Vì vậy, người viết đã
chọn lọc và tiếp thu những ý kiến được xem là xác đáng, cụ thể nhất và có tính gợi
mở để tác giả luận văn triển khai đề tài nghiên cứu.
2.1. Những nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, văn học phi lí nói chung
Chủ nghĩa hiện sinh khởi nguồn từ phương Tây và người được coi là thủy tổ
của nó là S. Kierkegaard (Đan Mạch, 1813-1855). Xuất phát điểm của Kierkegaard
là cá nhân cụ thể, quan tâm nhiều đến niềm tin và đam mê. Ảnh hưởng của
Kierkegaard khá lớn đối với các triết gia hàng đầu của triết học hiện sinh, đến nỗi
người ta cho rằng Hữu thể và Hư vơ của J. Sartre ngồi việc có sử dụng chút ít vật
liệu từ Hữu thể và Thời gian của Heidegger thì triết luận này của Sartre cịn được
“gợi hứng” khá nhiều từ những quan điểm của S. Kierkegaard. Có ý kiến cho rằng
quan niệm văn chương của Kafka có chịu ảnh hưởng của Kierkegaard khi khẳng

định bản chất của sự sinh tồn chính là nỗi bất an. Một số tác phẩm có giá trị của ơng
như: The Concept of Irony with Continual Reference to Socrates; Either – Or, The
Sickness Unto Death; The Book on Adler …
F. Nietzche (Đức, 1884-1900) cũng được các nhà nghiên cứu coi là một
trong những vị tiền bối của triết học hiện sinh. Ông và Kierkergaard có ý kiến gần
nhau đó là đều coi con người là một thế giới huyền bí, sâu thẳm. Lo âu là biểu hiện
của cái phi lí của cuộc sống. Tuy nhiên, Kierkegaard với quan điểm luôn giữ vững
niềm tin nơi Thiên chúa. Còn Nietzche bắt nguồn từ những tư tưởng đi ngược với
truyền thống Hy Lạp do Socrater, Platon và Aristotle để lại.
Đầu thế kỉ XX, triết học hiện sinh nổi lên một trường phái đó là “hiện tượng
học” của E.Husserl. Có thể nói, tư tưởng của Kierkergaard về con người kết hợp với
hiện tượng học của E.Husserl như một phương pháp luận. Suốt nửa đầu thế kỉ XX,
4


M. Heidegger, Jaspers, G. Marcel phát triển nó lên thành những lí thuyết phức tạp,
hồn chỉnh hơn. Đặc biệt là cơng trình Hữu thể và thời gian ra đời năm 1927 có thể
coi là tác phẩm quan trọng nhất của Heidegger. Ơng quan tâm đến tính thời gian vì
thời gian làm nên ý nghĩa của tồn tại, cho thấy sự hiện hữu của con người. Có thể
thấy rằng: Heidegger cịn có đóng góp lớn cho triết học ngơn ngữ thế giới khi khám
phá ra những bản chất mới của ngôn ngữ. Trong cơng trình Trên đường đến với
ngơn ngữ, ơng gọi “ngôn ngữ là ngôi nhà hữu thể”.
Đến giữa thế kỉ XX, J.P. Sartre xuất hiện với tác phẩm Buồn nôn năm 1938
và rất nhiều tác phẩm khác về hiện sinh đã gây chấn động trong xã hội. Từ đây, triết
học hiện sinh đã trở thành một trào lưu tư tưởng chính thống, trở thành lối sống của
một số thế hệ thanh niên. Quan điểm triết học (hiện sinh vô thần) của Sartre được
hình thành trong quá trình đấu tranh chống “chủ nghĩa duy tâm đại học” như là một
thứ triết học tách rời đời sống. Tuy nhiên, sự tác động quyết định đến tư tưởng triết
học của ông là hiện tượng học của E. Husserl và bản thể học của M. Heidegger.
Năm 1943 ra đời tác phẩm triết học cơ bản nhất của Sartre, Hữu thể và vô thể. Sau

đó là những tác phẩm khác nhau như Tưởng tượng (1940), Chủ nghĩa hiện sinh là
chủ nghĩa nhân đạo (1946), Situations (10 tập, 1947-1976), Phê bình lí tính biện
chứng (1960), v.v... Phổ biến hơn cả là văn xi triết lí của ông như Buồn nôn
(1938), Những con đường của tự do (bộ ba, 1945-1949), các vở kịch Ruồi (1943),
Chết không mồ (1946), Gái điếm mà lễ độ (1946), Những bàn tay bẩn (1948), Quỷ
sứ và thượng đế (1951)... Về phương pháp phê bình hiện sinh, Sartre cho rằng để
phát hiện ra trong tác phẩm cái được mặc khải bằng cuộc phiêu lưu đặc biệt của một
con người bị thúc đẩy bởi lo âu của mình mà trở thành nhà văn, ông cố gắng sát
nhập chủ nghĩa Marx và phân tâm học thành một thứ nhân loại học có thể giải thích
con người trong tính tồn vẹn của nó.
Có thể thấy rằng, chủ nghĩa hiện sinh đã được khá nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm trên thế giới. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xin đi
sâu vào một số cơng trình về chủ nghĩa hiện sinh của một số tác giả tại Việt Nam.
Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về vấn đề triết học hiện sinh ở
Việt Nam đó chính là Trần Thái Đỉnh. Ơng đã có những nghiên cứu tỉ mỉ, dễ hiểu
5


và khá đầy đủ trong cuốn Triết học hiện sinh. Ở cuốn sách này, tác giả đã tỏ rõ quan
điểm của mình là: "Triết học hiện sinh có thể nguy hiểm và xấu nữa. Nhưng nguy
hiểm ở chỗ nào và xấu ở chỗ nào? Bao lâu chúng ta chưa nói một cách đúng đắn và
đích xác, thanh thiếu niên vẫn chưa nghe lời chúng ta, và mối nguy hiểm vẫn cứ cịn
mãi. (...) thuyết hiện sinh có chứa đựng rất nhiều mầm mống tốt trộn lẫn với mầm
mống xấu: chính vì những vẻ tốt đẹp kia đã quyến rũ thanh thiếu niên, nhưng vì họ
chưa đủ tinh tường để phân biệt, cho nên họ nuốt luôn cả những chất độc pha trộn
nơi đó" [39, tr.15- 16]. Bởi vậy, Trần Thái Đỉnh chủ trương "phân biệt rõ ràng"
trong mọi sự khen chê, để triết hiện sinh được hiểu đúng, đánh giá đúng. Ông đã
làm rõ nguồn gốc của triết học hiện sinh và dừng lại ở sáu phạm trù hiện sinh chính
yếu là: buồn nơn, phóng thể, ưu tư, tự quyết, vươn lên, độc đáo.
- Ở phạm trù Buồn nôn, Trần Thái Đỉnh đã cho rằng “con người ta còn sống

như những sinh vật. Và sống như sinh vật là một buồn nôn cho triết gia hiện sinh đã
ý thức sâu xa về nhân vị con người” [39, tr. 36]. Ông cũng trích ra một đoạn trong
tác phẩm Buồn nơn của J.P.Sartre để làm rõ hơn phạm trù này: “Thôi tôi cứ làm như
này. An-ny là xong. Tôi cứ sống thừa ra. Ăn, ngủ. Ăn, ngủ. Sống từ từ êm êm như
những cây kia, như những vũng nước này, hoặc như cái ghế bọc vải đỏ của toa xe
lửa nọ” [39, tr. 21]
- Cuộc đời mỗi người đều mang vẻ tầm thường, buồn nơn, cuộc đời đó là
một phóng thể. Có nghĩa là con người hóa thành cái khác hành động, chỉ vì người ta
bảo mình làm hay nghĩ mình phải làm như thế. Trần Thái Đỉnh nghiên cứu và chia
ra hai loại là phóng thể duy tâm và phóng thể duy vật. Phóng thể duy tâm là con
người chỉ tưởng tượng và mơ ước, thụ động theo những mẫu người “lí tưởng”.
Phóng thể duy vật là con người hành động vô ý thức như một cái máy, chủ yếu sống
yên phận trong gia đình, trong nhóm, đồn thể.
- Vì cuộc đời là một phóng thể nên cần thiết con người phải tỉnh ngộ , ý thức
về giá trị cao quý và nhân vị của mình. Do đó sinh ra ưu tư. “Ưu tư là trạng thái xao
xuyến, băn khoăn về tương lai chưa rõ” [39, tr. 42]. Đó là vẻ đặc sắc của một cuộc
hiện sinh đã tự ý thức rằng phải làm mọi cách để thoát ra, dứt ra khỏi cảnh sống
thừa, sống như những sinh vật đang tồn tại, những con người phóng thể.
6


- Với tinh thần không bao giờ cam chịu nằm lỳ một chỗ như sinh vật, con
người phải có ý thức vươn lên. Đề tài này phát sinh dưới ngòi bút của Kierkegaar
bởi “con người phải vươn lên khỏi gia đoạn hiếu mĩ để đạt tới giai đoạn đạo đức, rồi
lại phải vươn lên khỏi trình độ đạo đức để tiến lên giai đoạn tôn giáo”. Thánh
Augustin, một trong những cụ tổ triết hiện sinh viết “không tiến là lùi rồi”[39, tr.
47]. Vươn lên là lẽ sống của hiện sinh trung thực. Vươn lên là vượt lên chính mình,
chiến thắng chính mình.
- Trong q trình vươn lên, con người sẽ trải qua rất nhiều thử thách và đòi
hỏi ta phải sáng suốt để quyết định, tự quyết mọi việc về cuộc đời mình. Tự quyết là

tự chọn mình, đi liền với ý niệm dấn thân. Có thể nói rằng tơi tự quyết là tôi “dám”
là tôi, tôi dám hành động theo sự lựa chọn của tơi. Chính trong hành động tự quyết,
triết hiện sinh chứng tỏ hiện sinh là giá trị sống, không phải giá trị tư tưởng. “Liều”
là một danh từ hiện sinh. Trong cái “liều” này thì tơi mới tỏ ra là chủ thể, không
phải là người hành động thiếu suy nghĩ.
- Tất cả hành động của chúng ta phải tự ta thực hiện, không thể ỷ lại vào bất
kì ai bởi mỗi người là một độc đáo. Theo Trần Thái Đỉnh, đây là điểm quan trọng
nhất, đặc sắc nhất trong số các phạm trù của triết học hiện sinh. “Khi nào tơi đảm
nhiệm lấy cơ đơn đó là lúc tơi dám làm người có nhân vị độc đáo. Khi đó, tơi sẽ
dám phát huy tất cả những khả năng riêng biệt của tôi theo những đường lối chỉ tơi
có” [39, tr. 49].
Đánh giá về cơng trình này, Thụy Khuê đã nhận định: “Cuốn Triết học hiện
sinh của Trần Thái Đỉnh là một trong những cuốn sách mở cửa cho chúng ta vào
nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, vào sự tìm hiểu con người”.
Với những ý kiến phê phán khá gay gắt, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong tác phẩm
Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa đã tỏ rõ những quan điểm đáng lưu ý trong
cơng trình này. Đúng như tên gọi của cuốn sách, ông đã chỉ ra những mặt tiêu cực
của chủ nghĩa hiện sinh khi nó du nhập vào đơ thị miền Nam. Ông đã nhận định: “Ở
các thành thị miền Nam Việt Nam, những năm bị quân Mĩ xâm lược, văn học hiện
sinh chủ nghĩa đã được nhập cảng. Tuy nhiên, nội dung của nó là trụy lạc và chém
giết, là thuyết phi luân và đi lính ngụy; nội dung là rời bỏ tính siêu hình và tự biện,
7


tính trừu tượng và hư vơ của văn học hiện sinh chủ nghĩa phương Tây”[50, tr. 19].
Ông chỉ ra rằng: “Tự do của nó khơng phải là thứ “bị tự do” phi lí và siêu nghiệm
như Xactơrơ hay Ionexco mà là tự do làm “gái bụi đời” và cầm súng Mĩ”[50, tr.19].
Nhà nghiên cứu tỏ rõ quan điểm phê phán của mình qua một loạt những dẫn chứng,
phân tích tỉ mỉ những mặt trái của chủ nghĩa hiện sinh khi “nhập cảng‟ vào miền
Nam Việt Nam.

Cùng quan điểm với tác giả Đỗ Đức Hiểu, tác giả Hoàng Trinh cũng đề cập
đến vấn đề này trong cuốn Phương Tây, văn học và con người. Tác giả cho rằng
những lối ăn chơi sa đọa nhất, từ Mĩ và các nước khác đưa sang đã làm “hư hỏng”
nhiều người và các thứ văn học nghệ thuật được văn hóa suy đồi phương Tây sau
đại chiến tiếp tục, cũng đã ngấm ngầm phát huy những ảnh hưởng tai hại của chúng
đối với đời sống tinh thần của một số người ở các đô thị. Nói về vấn đề phi lí, tác
giả nhận định: “Trong khi tìm hiểu thuyết phi lí, chúng ta đã thấy được phần nào
những nguyên nhân chính trị, xã hội và triết học của chủ nghĩa hoài nghi và tinh
thần hủy báng con người trong văn học hiện đại”[122, tr. 150]. Có thể thấy rằng, tác
giả Hồng Trinh và Đỗ Đức Hiểu đã có những lời lẽ khá gay gắt, thể hiện cái nhìn
phiến diện về chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam. Bài nghiên cứu còn khá sơ lược và
được tiếp cận từ góc nhìn “phê phán triết học tư sản hiện đại”. Điều đó đã ảnh
hưởng phần nào đến kết quả nghiên cứu. Tựu chung lại, những hạn chế đó xuất phát
từ giới hạn lịch sử và thời đại.
Ngồi ra, chúng ta còn phải kể đến các nhà nghiên cứu như: Lê Tôn Nghiêm
với các cuốn sách: Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương; Đâu là
căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lí từ Kant đến Heidegger; Những vấn đề
triết học hiện đại; Lê Thành Trị với chuyên khảo Hiện tượng luận về hiện sinh,
Triết học tổng quát; Nghiêm Xuân Hồng với Nguyên tử, hiện sinh và hư vô, Bùi
Giáng với Tư tưởng hiện đại ... Rồi các nhà nghiên cứu Tam Ích, Vũ Đình Lưu, Thế
Phong, Nguyễn Trọng văn, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Trần Xuân Kiêm,
Trần Công Tiến, Nguyễn Quốc Trụ... cũng đóng góp nhiều cơng trình, bài viết về
triết học hiện sinh, khiến cho triết học hiện sinh trở thành trào lưu tư tưởng được
quan tâm nhất trong giai đoạn này.
8


Đi sâu vào phạm trù phi lí, một trong số những nhà nghiên cứu hàng đầu về
vấn đề này ở Việt Nam đó chính là tác giả Nguyễn Văn Dân. Với chuyên luận Văn
học phi lí, tác giả đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn tồn cảnh về văn học phi lí với

tư cách là một hiện tượng thống nhất. Tác giả đã chỉ rõ văn học phi lí là một phản
ứng của thời đại lịch sử. Ông cho rằng: Trong cái xã hội phi nhân hóa do tác động
của cuộc khủng hoảng tinh thần ấy, các nhà trí thức đã nhận thấy một điều phi lí là
trong khi sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng đang ngày càng làm
cho con người dễ dàng giao tiếp với nhau bao nhiêu, thì các nối quan hệ đạo lí –
nhân văn lại càng bị gián đoạn bấy nhiêu. Cuốn chuyên luận đã phân tích rất kĩ sự
thống nhất của hai mặt đối lập là Kafka và Camus – hai tác giả tiêu biểu với những
tác phẩm mang đậm cái phi lí. Chúng tơi nhận thấy rằng, tác giả đã có những đánh
giá sâu sắc về đóng góp của văn học phi lí cho lịch sử văn học nhân loại ở các mặt:
nhận thức, tư tưởng đạo lí – nhân văn, thủ pháp nghệ thuật. Đây có thể nói là một
cơng trình vơ cùng cơng phu, địi hỏi rất nhiều nỗ lực của tác giả cũng như một số
nhà nghiên cứu khác cùng tham gia.
Trong cơng trình Nghiên cứu văn học, lí luận và ứng dụng, Nguyễn Văn Dân
tiếp tục đề cập đến vấn đề văn học phi lí với các tiêu đề: Kafka với cuộc chiến
chống phi lí, Văn học phi lí – một đóng góp đáng đáng ghi nhận cho lịch sử văn học
nhân loại, Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại.
Có thể thấy rằng, Fr.Kafka là người có đóng góp vơ cùng to lớn trong mảng
văn học phi lí của thế giới. Cùng với ông là Alb. Camus, Beckett… Thế giới nghệ
thuật của Fr. Kafka đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan điểm sáng tác, nghiên cứu
khoa học cũng như quan điểm sống của nhiều nhà văn Việt Nam. Trong bài viết Thế
giới nghệ thuật Franz Kafka, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung đã dành nhiều sự
quan tâm tới những băn khoăn của Kafka về số phận con người trước thiết chế
quyền lực phi lí: “Các tác phẩm của Franz Kafka là sự lí giải những ấn tượng nghiệt
ngã về thế giới phi lí, về sự tha hóa của con người trong vịng vây của những thiết
chế quyền lực vơ hình” [26, tr. 255].
Trong cuốn Lí luận văn học, nhóm tác giả đã phân tích lịch sử của chủ nghĩa
hiện sinh, đại diện là Camus với tác phẩm Người xa lạ. Camus cho rằng cuộc sống
9



và con người đều phi lí: “Sự phi lí gắn bó con người và thế giới lại một cách chặt
chẽ đến nỗi chỉ có lịng căm thù mới có thể liên hiệp được những con người lại với
nhau”. Từ đó, theo ông, “nghệ thuật vừa là sự khước từ vừa là sự chấp nhận”.
“Khước từ” bởi vì cuộc đời là phi lí, nhưng để chống lại nó thì cần có sự phi lí của
chính mình, nghĩa là một sự “chấp nhận” từ bên trong [103, tr. 311].
Ngoài ra, vấn đề phi lí cịn được đề cập đến trong các cơng trình, bài viết
như: Giáo trình Văn học phương Tây (Nhiều tác giả);Trần Thi Ngọc Chi (2007),
Nhân vật trong kịch phi lí, Luận văn Thạc sĩ văn học, Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí
Minh; Về văn học phương Tây hiện đại (Phạm Văn Sĩ); Ảo hóa với phi lí (Nguyễn
Dương Cơn, Nxb Hội nhà văn); Tiểu luận về triết học phi lí (Camus, Tạp chí văn
học nước ngồi, số 2/2002)…
2.2. Những nghiên cứu đề cập đến Tạ Duy Anh và tác phẩm của ông
Trong khi nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, Nguyễn Thị Bình đã
xem Tạ Duy Anh là một trong những nhà văn có đóng góp tích cực cho cao trào đổi
mới văn xi. Cuốn sách Phi lí, hậu hiện đại và trò chơi là tập hợp ba luận văn thạc
sĩ được đánh giá cao khi nghiên cứu về trường hợp Tạ Duy Anh do nhà nghiên cứu
Nguyễn Thị Bình viết lời tựa: “Các tác giả trẻ Cao Tố Nga, Đồn Thanh Liêm và
Phạm Thị Bình đã chọn những cách tiếp cận khác nhau về tiểu thuyết của Tạ Duy
Anh, nhằm ghi nhận một ngòi bút tâm huyết, giàu khát vọng cách tân, quan trọng
hơn, qua đó nắm bắt những vấn đề có ý nghĩa lý luận và văn học sử đặt ra từ sự
chuyển động phong phú, phức tạp của văn học đương đại nước ta” [85, tr.6].
Trong bài viết Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, tác giả
Bích Thu cũng ghi nhận những thành công của các tác giả đang trên đường thể
nghiệm sáng tạo trong cách nhìn và lối viết như Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh
Thái, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hồi… Tác giả đã có những đánh giá sắc bén về thực
trạng tiểu thuyết từng thời kì và dành nhiều lời khen tặng cho đội ngũ nhà văn thời
kì đổi mới: “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đứng trước nhu cầu đổi mới
tư duy tiểu thuyết. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc trong sáng tạo và tâm huyết
với thể loại của các tiểu thuyết gia đương đại”.


10


Trong bài viết Vài đặc điểm của văn xuôi hiện đại Việt Nam, tác giả Đỗ
Ngọc Thạch đã có những nghiên cứu về tác phẩm của Tạ Duy Anh và đã đánh giá
về cuốn Đi tìm nhân vật rất sâu sắc: “…Tạ Duy Anh đã sử dụng khá linh hoạt các
thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa hiện sinh trong tác phẩm (như thủ pháp dịng ý
thức và có chương xuất hiện lời thoại kiểu kịch phi lí…). Có thể nói, văn xi Việt
Nam từ sau cao trào đổi mới (1986), Đi tìm nhân vật chịu ảnh hưởng của văn học
hiện sinh, văn học phi lí rất sâu đậm. Cái thế giới mà tác giả đã dẫn dụ người đọc
vào là một thế giới cực kì phi lí, trong đó là những con người cá nhân với nỗi cô
đơn, lạc loài, bị bỏ rơi, là nỗi ám ảnh về sự vong bản và tha hóa một cách nghiệt
ngã” [111 ]. Nhận định trên đã chỉ ra một cách cụ thể những biểu hiện của tư tưởng
hiện sinh trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm Đi tìm nhân vật, đặc biệt là các thủ
pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh.
Đặt câu hỏi Có hay khơng những dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
sau 1986, nhà nghiên cứu Phùng Gia Thế khẳng định: “Văn chương Tạ Duy Anh là
nỗi khắc khoải đi tìm một giá trị thực sự nhân bản trên cái cuộc sống đổ nát, điêu
tàn, là sự loay hoay lí giải những nỗi đày đọa con người từ tiền kiếp”[110]. Tác giả
đã chỉ ra những dấu ấn đậm nét của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
sau 1986, đặc biệt là trường hợp của Tạ Duy Anh.
Bên cạnh đó, tác giả Đồn Ánh Dương trong bài viết Lối viết tiểu thuyết Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập: trường hợp Tạ Duy Anh cho rằng: “Đi tìm nhân vật
là tiểu thuyết chịu ảnh hưởng của văn học phi lí phương Tây sâu đậm nhất. Rất ít
khi, vấn đề con người cá nhân và sự thức nhận về cá nhân lại được tiểu thuyết thể
hiện một cách trọn vẹn đến vậy, nỗi ám ảnh về sự vong bản và tha hóa lại sâu sắc
đến mức nghiệt ngã đến thế” [34, 86]. Đây có thể coi là một nhận định rất sắc sảo
khi nói đến “ảnh hưởng của văn học phi lí phương Tây” vào tác phẩm của Tạ Duy
Anh mà Đi tìm nhân vật là một tiểu thuyết chịu ảnh hưởng sâu đậm nhất.
Tác giả Đinh Văn Điệp trong luận văn Thạc sĩ Nhân vật mang tâm thức hiện

sinh trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh và Nguyễn Bình Phương đã nhận định: “Nhà văn
muốn cụ thể hóa sự ngự trị của cái phi lí thơng qua tâm lí hồi nghi và diễn tả một
trạng thái sinh tồn nào đó của nhân vật, để nói nhận ra một sự thật rằng: “luôn phải
11


sống trong những tình huống khơng xuất phát từ những lựa chọn của mình”[38, tr.
64]. Ở luận văn này, tác giả đã đi sâu làm rõ đặc điểm nhân vật mang tâm thức hiện
sinh và nghệ thuật xây dựng nhân vật mang tâm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Tạ
Duy Anh và Nguyễn Bình Phương.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu xoay quanh các tác phẩm của
Tạ Duy Anh như: Vũ Thị Thanh Hải (2009), Yếu tố nghịch dị trong tiểu thuyết của
Tạ Duy Anh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội; Vũ Lê Lan
Hương (2006), Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh, Luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Giang (2003); Tạ
Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết, Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ
văn – ĐHSP Hà Nội; Đào Thị Dần (2008), Nhân vật dị biệt trong sáng tác của Tạ
Duy Anh và Nguyễn Bình Phương, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội...
Bên cạnh đó, vấn đề này cịn được bàn đến trong một số bài báo như: Tạ Duy
Anh – gương mặt nổi bật trên văn đàn (Nguyễn Trường, Tạp chí Văn học và Tuổi
trẻ); Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác (Việt Hoài, bài đăng trên Vietbao.vn)…
Như vậy, có thể thấy rằng, Tạ Duy Anh đã nhận được sự quan tâm khá nhiều từ
giới nghiên cứu và dư luận nói chung. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu, bài
viết nêu trên chỉ đề cập đến một phần nào đó của văn học phi lí hoặc một khía cạnh
trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tạ Duy Anh. Trong tình hình hạn chế về
thời gian và tư liệu nên việc tổng thuật không được đầy đủ như mong muốn. Tuy
nhiên, người viết cũng đã cố gắng khái quát, phác họa những nét chính của vấn đề.
Bên cạnh những ý kiến có tính chất gợi ý từ thực tế sáng tác của Tạ Duy Anh, cịn
có sự hỗ trợ của các cơng trình nghiên cứu về triết học và văn học phi lí trên thế giới

được dịch và giới thiệu ở Việt Nam cũng như những cơng trình nghiên cứu về thực
tế sáng tác của văn chương đương đại nước nhà. Đó là điểm tựa vững chắc, tiếp
thêm niềm tin cho tác giả luận văn thực hiện đề tài này.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi tư liệu

12


Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi đi vào khảo sát thế giới phi lí trong hai
tiểu thuyết của Tạ Duy Anh:
-

Đi tìm nhân vật, Nxb Đồng Nai, 2008.

-

Thiên thần sám hối, Nxb Hội nhà văn, 2006.

Ngoài ra, chúng tôi cũng liên hệ đến một số tác phẩm khác của Tạ Duy Anh và
một số tác giả trong và ngồi nước có tác phẩm liên quan đến đề tài của luận văn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
-

Tìm hiểu về khái niệm phi lí, vấn đề phi lí trong triết học và trong văn học,
làm rõ lịch sử của vấn đề này.

-

Nghiên cứu con người trong thế giới phi lí được thể hiện trong hai tiểu thuyết

của Tạ Duy Anh.

-

Tìm hiểu nghệ thuật mơ tả cái phi lí trong hai tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
trên một số phương diện.

4. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Thế giới phi lí trong tiểu thuyết “Thiên thần sám hối” và “Đi tìm
nhân vật” của Tạ Duy Anh, chúng tôi muốn chỉ ra những dấu ấn của chủ nghĩa hiện
sinh, của vấn đề phi lí đến sáng tác của tác giả này.
Thừa hưởng và phát huy những thành tựu trước đó, chúng tơi chỉ ra sự đa dạng
về đặc điểm của con người trong thế giới phi lí và làm rõ những đặc trưng về nghệ
thuật mơ tả cái phi lí qua ngịi bút của Tạ Duy Anh.
Ngồi ra, luận văn cũng góp phần khẳng định cá tính sáng tạo và đóng góp của
Tạ Duy Anh trong công cuộc đổi mới văn học. Và ở một góc độ nhất định, chúng
tơi cũng làm sáng rõ hơn những vấn đề đổi mới của thể loại tiểu thuyết nói riêng và
văn học đương đại nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu, chúng tôi dự định sử dụng hệ thống phương pháp gồm
một số phương pháp sau:
5.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống trong chủ đề về chủ nghĩa hiện
sinh, vấn đề phi lí.
13


- Phương pháp tiếp cận liên ngành (triết học, văn học, xã hội học…)
- Phương pháp tiếp cận theo hướng thi pháp học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

* Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Thu thập, đọc tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu (các cơng trình khoa học,
luận án, luận văn, tạp chí, bài báo… liên quan đến chủ nghĩa hiện sinh, văn học phi
lí, đến Tạ Duy Anh và các tác giả văn xuôi đương đại).
- Phân tích, so sánh, hệ thống hóa lí thuyết để xác định cơ sở lí luận và quan điểm
về vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Nghiên cứu lịch sử triết học hiện sinh, vấn đề
phi lí trong triết học và văn học để có cái nhìn bao qt vấn đề.
* Phương pháp xử lí thơng tin: Dựa trên những tài liệu, thông tin thu thập được,
chúng tôi sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết, có độ tin cậy cao liên quan đến đề
tài nghiên cứu, phân tích kĩ vấn đề phi lí ở hai tiểu thuyết theo cách nhìn mới.
* Ngồi ra, người viết còn sử dụng các thao tác khác như: khảo sát – so sánh, thống
kê, phân tích, bình giảng...
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm ba vấn đề chính:
Chương 1: Khái lược về vấn đề phi lí trong triết học và văn học
Chương 2: Con người trong thế giới phi lí qua tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” và
“Thiên thần sám hối” của Tạ Duy Anh
Chương 3: Nghệ thuật mơ tả cái phi lí trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” và
“Thiên thần sám hối” của Tạ Duy Anh

14


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ PHI LÍ TRONG TRIẾT HỌC
VÀ VĂN HỌC
Cái phi lí là gì và nguồn gốc của nó như thế nào? Trong phần này, chúng tơi sẽ
đi vào trình bày khái qt về vấn đề phi lí trong triết học và văn học. Qua đó, người

viết sẽ liên hệ, làm rõ q trình xuất hiện của “cái phi lí” trong văn học Việt Nam
cũng như sự xuất hiện của cây bút Tạ Duy Anh.
1.1. Phi lí trong triết học
1.1.1. Thời kì cổ đại
Có thể nói, triết học là khoa học của mọi khoa học. Chính vì lẽ đó, chúng tơi
muốn làm rõ lịch sử của vấn đề phi lí qua các thời đại, khởi nguồn là phi lí trong
triết học. Trong chuyên luận Văn học phi lí của Nguyễn Văn Dân có viết: “Khái
niệm phi lí đã xuất hiện từ thời cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Zenon
và Aristote đã áp dụng phương pháp ngụy biện cho suy lí logic (tức là phương pháp
lập luận dựa vào giả thiết phi lí). Trong lịch sử, Zenon đã đưa ra bài tốn rất nghịch
lí: Asin – dũng sĩ trong thần thoại Hi Lạp có tài chạy nhanh nhất nhưng vẫn không
đuổi kịp được một con rùa. Phương pháp này chứng minh cho thấy những kết quả
sai lầm của một giả thiết để bác bỏ giả thiết đó. Hình học Euclide (thế kỉ III trước
CN) cũng thường xuyên sử dụng phương pháp ngụy biện để chứng minh các định
luật hình học” [39, tr. 14]. Nhìn chung, thời kì này, khái niệm về cái phi lí đã xuất
hiện nhưng chưa được đưa ra một cách rõ ràng, cụ thể.
1.1.2. Thời kì trung đại
Đến thời trung đại, nhà bác học La Mã Tertullianus (155-1626) đã dùng
phương pháp suy luận phi lí để chứng minh cho chân lí của một sự đánh giá bằng
cách chỉ ra tính chất sai lầm của mặt trái sự đánh giá đó. Ơng đã có một câu nói rất
nổi tiếng: “Tơi tin vì nó phi lí”. Vào thế kỉ XVI, nhà triết học người Anh Fr.Bacon
dùng phương pháp suy luận phi lí để chứng minh cho chân lí bằng cách chỉ ra tính
chất sai lầm ở phía phản chân lí.
Nhà triết học người Anh khác là Th.Hobbes (1588-1679) lần đầu tiên trong lí
thuyết về “các âm thanh vơ nghĩa” cũng đã giải thích sự phi lí thơng qua sự rối loạn
15


trật tự logic ngơn ngữ học. Ơng cho rằng những từ trái nghĩa đứng cạnh nhau thì chỉ
làm thành một âm thanh đơn thuần chứ không phải là một khái niệm có nghĩa, ví dụ

như cách nói “một vật thể vơ thể”. Trên phương diện logic học thì người ta quan
niệm những gì tồn tại trái với quy tắc logic đều bị coi là “phi lí”. Có một định nghĩa
thứ hai mang tính chất khái qt hơn và nó vượt ra ngồi địa hạt của logic học khi
nó cho rằng “tất cả những gì chống lại năng lực nhận thức, chống lại lí trí, khơng
thể lí giải được bằng tư duy, thì đều được coi là phi lí. Như vậy, cái phi lí là cái
phản lí tính” [39, tr. 15]. Định nghĩa này dã được nền triết học phương Tây hiện đại
phát triển thành chủ nghĩa phi lí tính từ cuối thế kỉ XVIII và kéo dài suốt hơn một
thế kỉ.
1.1.3. Từ cuối thế kỉ XVIII đến thế kỉ XX
Vào cuối thế kỉ XVIII, chủ nghĩa phi lí tính hiện đại đã xuất hiện làm cơ sở
triết học cho văn học phi lí và kéo dài cho đến tận thế kỉ XX. Georgy Lukacs cho
rằng chủ nghĩa này nảy sinh từ cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính trị và tư
tưởng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc điểm của chủ nghĩa phi lí tính là sự
mất lòng tin vào khả năng tư duy, đi đến chỗ dùng ý chí thay cho lí trí (chủ nghĩa
duy ý chí), dùng trực giác thay cho tư duy (chủ nghĩa trực giác như: chủ nghĩa của
Bergson, Croce… Một số người cho rằng cái phi lí tính là nguồn gốc của hoạt động
lí tính, của tư duy, nhưng nó khơng được tư duy biết đến. Những người khác cho
rằng chủ nghĩa phi lí tính xuất hiện khi lí trí tỏ ra bất lực trong việc thâm nhập vào
bản chất sâu kín cuối cùng của sự việc.
Nhiều nhà văn, nhà tiểu luận văn học hoặc nhà thơ ở thế kỉ XX cũng đã tuyên bố
sự phá sản của lí trí. Họ đã có xu hướng muốn lật đổ lâu đài của lí trí thuần túy để
chỉ đề cập đến cuộc sống sinh động của xã hội, của con người. Có lẽ đây là một
phản ứng chống lại những quan niệm cực đoan khơ cứng của chủ nghĩa duy lí.
Phi lí là một khía cạnh của chủ nghĩa hiện sinh, nói cách khác, một bước phát
triển đặc biệt của khái niệm triết học về cái phi lí là giai đoạn chủ nghĩa hiện sinh
(với các nhà hiện sinh nổi tiếng như Kierkegaard, Heidegger và Jasper). Cả ba
người đều chống lại lí tính, chống lại Descartes, bởi họ cho rằng chủ nghĩa duy lí
Descartes chỉ nhằm vào con người trừu tượng chứ không xác định được con người
16



cụ thể, con người cá nhân. Heidegger phê phán cái tư duy trong câu “Tôi nghi ngờ
là tôi tư duy, tôi tư duy là tôi tồn tại” là không thể nắm bắt được sự hiện sinh. Chủ
nghĩa hiện sinh là “khuynh hướng triết học hình thành trước đại chiến I ở Nga với
Sextop (Chestov, 1866 – 1938), Be đyaep (Berdiaeff, 1866 – 1948), sau đại chiến I
ở Đức với M.Heidegger (1889 – 1976), K. Jasper (1883 – 1969), M. Buber (1878 –
1965), trong thời kì đại chiến II ở Pháp với J – P Sartre (1905 – 1980), M.Merleau –
Ponty (1908-1961), A.Camus (1913-1960), sau đó phổ biến ở các nước khác tại
chấu Âu và Hoa Kì”.
Chủ nghĩa hiện sinh đã tạo ra giữa lí tính và thực tại một hố sâu ngăn cách
khó có thể vượt qua - sự phi lí. Và trong cái vực sâu này có sự ngự trị của cái phi lí.
Kierkegaard nói đến “cái nghịch lí” của nhận thức và của tồn tại. Ở Heidegger thì
ngự trị khái niệm về „sự bất an”, còn các nhà hiện sinh chủ nghĩa người Pháp thì có
cảm giác đậm nét về cái phi lí. Về sau, trong quan niệm của hai nhà đại diện chủ
chốt của chủ nghĩa hiện sinh Pháp thế kỉ XX là J.-P. Sartre (1950-1980) với các tác
phẩm triết học chính: Bản thể và hư vơ, Phê phán lí tính biện chứng và A.Camus
với tập tiểu luận triết học: Huyền thoại Sisyphe thì cái phi lí trở thành khái niệm chủ
chốt của chủ nghĩa hiện sinh.
Trong các tác phẩm triết học và văn học của mình, Sartre khơng chỉ quan
niệm cái phi lí xuất hiện do có sự bất đồng giữa lí tính với thực tại nhân bản, mà
ơng cịn tun bố chính cái thực tại nhân bản là một thực tại phi lí, một thực tại của
vật tự nó. Đến Camus thì tư tưởng về cái phi lí đã trở thành nỗi ám ảnh trong suốt
cuộc đời của ơng, nó làm thành đề tài trọng tâm của các tiểu luận triết học và thấm
đậm trong mọi tác phẩm văn học của ông. Trong cuốn Phê phán văn học hiện sinh
chủ nghĩa, tác giả Đỗ Đức Hiểu đã chỉ rõ: “triết học hiện sinh về cơ bản là triết học
phi lí hay triết học của cái phi lí…” [50, tr. 18]
Như vậy, cái phi lí trong triết học là một khái niệm triết học có lịch sử phát
triển lâu dài và có những chuyển biến qua từng thời kì. Từ thời Hy Lạp cổ đại với
Aristote, Zenon, qua thế kỉ XVI với Bacon (Anh), đến thế kỉ XX đã tạo mảnh đất
màu mỡ cho sự phát triển và hoàn thiện ý thức, quan niệm về cái phi lí. Và khi cái

phi lí đã đạt đến đỉnh điểm của mình cùng với nhà triết học kiêm nhà văn Camus thì
17


sau ơng hầu như khơng cịn nhà triết học nào bàn đến nó nữa, mà chỉ được thể hiện
trong sáng tác của các nhà văn. Có nhiều nhà văn khơng phải là nhà triết học nhưng
cũng thể hiện cái phi lí trong tác phẩm của mình và làm thành nguồn cảm hứng triết
học cho các nhà triết học khác. Tuy nhiên, khái niệm phi lí trong triết học và trong
văn học không phải là khái niệm một chiều mà luôn tương tác, bổ sung cho nhau.
Các nhà văn thường xem xét cái phi lí ở hai khía cạnh: cái khơng hợp lí, trái logic
trong đời sống và nhận thức bi đát về thân phận con người.
1.2. Phi lí trong văn học
Cái phi lí trong văn học khơng phải là một sự sao chép máy móc cái phi lí trong
triết học. Triết học cho rằng cái phi lí là con đẻ của tính bất khả tri của lí tính trong
khi các nhà văn vẫn cố gắng nhận thức cái phi lí, lí trí vẫn nhận thức được và có kết
quả là cái phi lí phản lí tính. “Khái niệm cái phi lí trong văn học được dùng để chỉ
loại hình văn học phi lí có nhiệm vụ nhận thức và mơ tả cái hiện thực vơ nghĩa, phi
logic, phi lí tính, trái với năng lực nhận thức của con người” [39, tr. 23]. Khác với
chủ nghĩa phi lí tính trong triết học là khẳng định sự bất khả tri của lí trí trước sự bất
hợp lí của thực tại và chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức, thì văn học phi lí là một thứ
triết học hành động của các nhà trí thức phương Tây. Các nhà văn phi lí khơng chỉ
mơ tả cái phi lí, mà quan trọng hơn là họ cịn hành động chống lại cái phi lí đó. Và
hành động chống lại cái phi lí chính là một phản ứng của thời đại lịch sử.
Nhà nghiên cứu người Rumani Nicolae Balota, một chuyên gia về văn học
phi lí đã cho rằng nguồn gốc của văn học phi lí hiện đại là tất cả những sáng tác từ
văn học dân gian đến văn học thành văn qua các thời đại, có sử dụng các thủ pháp
châm biếm, hài hước, nghịch dị, chiêm bao một cách ngược đời, vô nghĩa, vơ lí.
Trong dân gian Việt Nam đã có những bài ca dao, đồng dao mơ tả những
chuyện phi lí, ngược đời như:
Bao giờ cho đến tháng ba,

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngồi đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lơng,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
18


Con gà nậm rượu nuốt người lao đao.
Rồi bài:
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng đong cân cấn đuổi cò lao xao
Hay câu thơ ca ngợi lãnh chúa La Palice (1470-1525) khá ngây ngơ: "Mưởi
lăm phút trước khi chết/ Ngài cịn sống ở trên đời...". Trước khi “chết” thì điều hiển
nhiên là con người phải ở trạng thái “sống” rồi. Ở đây, sự thật đã rất rõ ràng nhưng
câu thơ đã kể lại là một sự thừa thãi, vơ nghĩa lí. Ngoài ra, một loạt các sáng tác
phiêu lưu hoang tưởng, huyễn tưởng chiêm bao, huyễn tưởng nghịch dị như của
Alfred Jarry (1873-1907): Ubu làm vua, Ubu bị xiềng và Ubu bị cắm sừng đều được
xếp vào dạng tiền sinh của văn học phi lí. Soi chiếu vào trong tác phẩm văn học thì
tất cả các tác phẩm có khung cảnh cốt truyện trái với tư duy lí trí thơng thường là
sáng tác phi lí. Về sau này, Balotac cịn xếp cả phong trào văn học đa đa vào hàng
ngũ của văn học phi lí đích thực.Tuy nhiên, khi đặt trong một hệ logic khác một
cách có chủ đích thì đó khơng phải là sáng tác phi lí mà là sáng tác huyền thoại hoặc
huyễn tưởng. Theo tác giả Nguyễn Văn Dân thì quan điểm trên quá rộng, thiên về
thủ pháp nghệ thuật hơn là vào quan điểm nghệ thuật về thế giới, nhân sinh. Ơng đã
phân tích rất kĩ lưỡng và chỉ ra các tác phẩm kể trên khác với văn học phi lí về quan
điểm nghệ thuật chứ khơng phải về thủ pháp nghệ thuật.
Đặc điểm nghệ thuật của văn học phi lí chính là những tác phẩm văn học
phản ánh những sự việc, hiện tượng trái với logic nhân văn tiến bộ của loài người.
Và theo logic này, người mở đường là Franz Kafka, nhà văn Tiệp Khắc gốc Do
Thái viết tiếng Đức. Có thể nói, lúc này văn học phi lí mới thực sự ra đời. Xét về

căn ngun xã hội của văn học phi lí thì nó là kết quả của chủ nghĩa phi lí tính triết
học và cũng là kết quả của cuộc khủng hoảng của thực tế xã hội thế kỉ XX.
Tuy nhiên, trước Kafka, Dostoevski đã đụng chạm đến cái phi lí thơng qua
nhân vật Ivan Karamazov: “Thế giới được dựa trên những điều phi lí, và khơng biết
chuyện gì sẽ xảy ra nếu khơng có những điều phi lí đó” (Anh em nhà Karamazov).
Đây chỉ là một nhận xét mang tính chất cảnh báo chứ bản thân nhà văn không đi sâu
khai thác vấn đề này. Ông là nhà văn đầu tiên nói tới cái phi lí nhưng khơng phải
19


nhà văn đầu tiên của văn học phi lí vì ông không lấy nó làm đối tượng trung tâm,
làm nguyên tắc thẩm mĩ. Đành rằng, xét nội dung những tác phẩm của Dostoevski,
chúng ta có thể nhận thấy ơng có đầy đủ hoàn cảnh để sản sinh ra những cái phi lí
như: mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm (Tội ác và trừng phạt), giữa lịng nhân từ và
thói xấu xa (Những kẻ tủi nhục và những kẻ bị hà hiếp), giữa cái thiện và cái ác
(Thằng ngốc)… Chính Camus sau này đã coi Dostoevski cùng với Kafka là những
thần tượng của ông.
Franz Kafka sinh năm 1883 tại Praha và mất năm 1917 do bị bệnh lao phổi.
Ông là người mở đầu cho văn học phi lí và đã để lại cho nền văn học nhân loại
những tác phẩm bất hủ. Với ba cuốn tiểu thuyết: Nước Mỹ, Vụ án, Lâu đài, cùng
với một số truyện ngắn, ông đã làm một cuộc cách tân lớn trong nghệ thuật văn
xuôi. Cái mới mà Kafka mang đến trong bối cảnh văn học đương thời chính là ơng
đã khai phá một mảng đề tài khó xử lí: cái phi lí của cuộc đời. “Ở Kafka, cái phi lí
là một đối tượng nhận thức khách quan. Nó khơng phải đơn thuần chỉ là một hiện
tượng xã hội mà nó cịn có liên quan và thậm chí chi phối vận mệnh của con người
mà muốn tồn tại, con người phải luôn luôn đấu tranh để loại trừ nó” [39, tr. 42].
Khám phá “lâu đài” là khám phá xã hội, là khám phá cái phi lí, nhân vật K khao
khát nhưng đã thất bại vì càng đi càng không thể đến được với lâu đài. Josep K
trong Vụ án bỗng nhiên bị bắt, bị xử tử mà khơng rõ lí do gì…Tất cả nỗi bất an ấy là
cái phi lí mà con người suốt đời khơng sao hóa giải nổi.

Sau Kafka, Camus tiếp tục khai thác cái phi lí ở bình diện chủ quan của nó.
Người ta ln nhớ đến ơng với những tác phẩm vào hàng kiệt tác như Kẻ xa lạ
(1942), Dịch hạch (1947). Các tác phẩm của Camus là sự thể hiện, sự hình tượng
hóa tư tưởng triết học của ơng. Camus từng viết: “Từ cái phi lí tơi rút ra ba kết luận:
nổi loạn, tự do và ham mê”. Tuy nhiên, đến Camus, con người đã tỏ ra hiểu rõ hơn
về tình trạng sống phi lí, có thể nhìn thẳng vào cái phi lí. Có thể nói, Kafka và
Camus có những điểm tương quan về quan niệm phi lí và có những điểm khác nhau
cơ bản, đó là: “Kafka đại diện cho cái phi lí khách quan, cịn Camus đại diện cho cái
phi lí chủ quan” [39, tr. 55]. Hai mặt khác nhau đó bổ sung cho nhau như là một sự
thống nhất của hai mặt đối lập và làm cho văn xi phi lí trở nên gần như trọn vẹn.
20


Sau Camus, các nhà văn chuyển sang một địa hạt khác đó là địa hạt kịch nói.
Đây là giai đoạn của kịch phi lí và có thể coi là giai đoạn kịch phát của văn học phi
lí. Sự xuất hiện chính thức của kịch phi lí có lẽ được đánh dấu bằng vở kịch Nữ ca
sĩ hói đầu của Ionesco. Kịch phi lí chỉ tồn tại trong khoảng mười năm nhưng đã có
tác động mạnh mẽ và sâu rộng. Nguồn gốc cơ bản của nó là tư tưởng triết học về sự
phi lí và văn xi phi lí. Nữ ca sĩ hói đầu là vở kịch điển hình cho việc diễn đạt sự
phá hủy ngôn ngữ. Những chiếc ghế là điển hình cho sự diễn đạt hiện tượng vật thể
hóa, cho tâm trạng trống rỗng và bất lực của con người. Đợi Godot của Beckett là
một huyền thoại phi không gian, phi thời gian… Sau đó, Beckket cịn viết nhiều vở
khác như: Tất cả những người ngã xuống (1956), Tàn cuộc (1957), Những ngày vui
(1961)… Tất cả đều thể hiện tính bi – hài của cuộc sống.
Văn học phi lí có những biểu hiện nghệ thuật khác nhau tùy theo từng thời
điểm lịch sử, từng thể loại văn học. Khi đi vào sáng tác cụ thể, các khía cạnh của cái
phi lí lại được nhà văn xử lí ở những mức độ khác nhau để phục vụ cho một ý đồ, tư
tưởng nghệ thuật nhất định. Cái phi lí trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Kafka và
của Camus được thể hiện ở cả nội dung tác phẩm, còn cái phi lí trong kịch phi lí của
Beckett hay của Ionesco thì được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

So với các loại hình nghệ thuật tiên phong khác thì văn học phi lí có chung một đặc
điểm đó là thái độ phủ định những ước lệ truyền thống.
Có thể thấy rằng, văn học phi lí giúp chúng ta nhận thức rõ về sự tồn tại của
cái phi lí. Từ đó, người đọc hiểu được thái độ của nhà văn trước cái phi lí. Các tác
phẩm thuộc dòng văn học này đã đem đến cho người đọc vơ số cách cảm, cách hiểu
khác nhau. Và điều đó đã tạo ra sự dân chủ trong quan hệ nhà văn – cơng chúng.
Ngồi nguồn triết học và văn học thì cịn một nguồn thứ ba tạo ra loại hình
văn học phi lí đó chính là nguồn lịch sử xã hội cụ thể. Chủ nghĩa tư bản thế kỉ XIX
bên cạnh những mặt tích cực cịn có mặt tiêu cực là làm tha hóa con người đến mức
tối đa. Sự thất bại của công xã Paris càng làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn xã hội
và đẩy các nhà trí thức đi đến chỗ bi quan, tiêu cực. Ở xã hội phương Tây hiện đại
có hai yếu tố lịch sử - xã hội quyết định đến văn học phi lí: đó là hiện tượng tha hố
và hiện tượng vật thể hố. Có một sự thật mà giới tri thức cho rằng rất phi lí là trong
21


×