Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Doi moi cach day mon Ngu van theo huong nao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.97 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Đổi mới cách dạy môn Ngữ văn theo hướng nào?



<b>Diễn đàn Dân trí đã cho đăng bài “Kinh nghiệm hay trong cách dạy môn văn của nước ngoài” nhằm</b>
<b>đưa ra những gợi ý đổi mới cách dạy và học môn ngữ văn của nhà trường chúng ta. Đây quả thực</b>
<b>là một chủ đề đáng bàn.</b>


Là người trong cuộc, chúng tơi cũng suy nghĩ nhiều về tình trạng sa sút của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói
chung và mơn ngữ văn nói riêng trong nhà trường hiện nay của chúng ta. Một trong những ngun nhân của tình trạng
đó là do đội ngũ GV chưa thực sự tâm huyết, đam mê với nghề nghiệp, lên lớp theo phương pháp cũ, thiếu sáng tạo,
thiếu hấp dẫn.


Đặc thù của các môn KHXHNV là nội dung kiến thức thường được trình bày trong SGK, sách GV nên nếu GV khơng
chịu khó đổi mới, sáng tạo thì dễ đi vào con đường mịn là trình bày lại những nội dung cố định. Chúng tơi đã dự nhiều
giờ thao giảng và nhận thấy GV chỉ cố gắng trình bày lại những điều đã có sẵn trong SGK, vì thế giờ học rơi và tình
trạng hình thức.


Ngay cả những giờ giảng được đánh giá là thành cơng thì tính chất “độc diễn” của GV vẫn thể hiện khá rõ nét. Thậm
chí có những giờ dạy diễn ra rất rôm rả, sôi nổi, nhưng thực chất chỉ là một “màn kịch” dàn dựng khéo, tất cả đã được
GV tập dượt trước, cả những câu hỏi bài cũ, và chỉ định luôn những học sinh nào sẽ phát biểu! Nhiều GV được khen là
“dạy hay”, song thực chất là “diễn thuyết” hay, và HS học xong là kiến thức cứ trôi đi tuồn tuột.


Tuy nhiên, để đổi mới phương pháp giảng dạy thành cơng, nếu chỉ có sự nỗ lực từ phía GV thì khơng đem lại kết quả
gì, mà quan trọng là cần có sự hưởng ứng tích cực từ phía HS. Thói quen học tập thụ động, đối phó của HS là một rào
cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Hiện HS phải học nhiều mơn, các em khơng có điều kiện đầu
tư thời gian thích đáng cho tất cả các mơn, vì vậy mới sinh ra tình trạng học lệch.


Học theo phương pháp mới đòi hỏi các em phải đầu tư nhiều thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập, xử lý
thơng tin khoa học…Đa số HS khơng có đủ các tài liệu tham khảo cần thiết, và chưa hình thành được tư duy phản biện,
độc lập trong học tập.


Những khó khăn từ hai phía thầy và trị khiến cho tình trạng đổi mới phương pháp dạy học ở nhiều môn rơi vào vịng


luẩn quẩn, hình thức, ít có chuyển biến mạnh và hiệu quả cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đối với mơn Ngữ văn, tình hình cũng tương tự. Quan niệm về tính chất, u cầu, nội dung mơn học của nước ngồi
chắc cũng có nhiều khác biệt so với Việt Nam. Điều kiện về đội ngũ GV, HS, cơ sở vật chất, chương trình cũng nhiều
điểm khơng giống ta.


Ví dụ: Nhiều nước mơn học được tổ chức theo lối cuốn chiếu, nghĩa là HS phải học rất ít mơn, và có nhiều điều kiện
thời gian để đầu tư cho môn học. Đội ngũ GV của họ được tuyển chọn hết sức khắt khe, đào tạo bài bản, và có mức
lương đủ sống, nghĩa là tính chun nghiệp rất cao. Lớp học thường có ít HS, nên GV có điều kiện quan tâm tới từng
em. Điều kiện học tập của HS rất đầy đủ. Ngay cả quan niệm về mục đích, u cầu mơn học của họ cũng có những
khác biệt so với ta. Quan niệm giáo dục của họ cũng khác, nghĩa là tôn trọng tối đa sự sáng tạo, phát triển của cá nhân.
Ví dụ bài học “Cơ bé Lọ Lem” ở trên, chắc chắn là sản phẩm của một nền giáo dục rất “thoáng”, nghĩa là cho phép
người dạy, người học được phát huy tự do, sáng tạo ở mức tối đa. Cũng bài học đó, nếu một GV khác dạy ở một lớp
khác thì “kịch bản” có thể hồn tồn khác.


Trong khi đó, tư duy giáo dục của chúng ta còn rất coi trọng quy chế, sự thống nhất. Những bài giảng thường giống
nhau qua các năm, và giống nhau giữa các GV khác nhau đến mức nhàm chán. Nhưng càng giống càng được đánh giá
là thống nhất, đúng quy chế.


Có những bộ giáo án trên mạng (thực chất là viết lại sách GV), được hàng vạn GV tải về, rồi sửa tên tuổi, ngày tháng,
in ra mà khơng thấy ai kiểm tra có ý kiến gì. Một chun viên mơn Tiếng Anh kiểm tra giáo án vi tính của nhiều GV
rồi lắc đầu “Tồn sao chép của nhau, hoặc sao chép trên mạng”.


Trong khi đó những nỗ lực đổi mới đơi khi lại bị “tuýt còi”. Một GV dạy Lịch sử THPT được HS rất mê, vì thầy dạy
những điều khơng có trong sách, mà luôn kể những câu chuyện lịch sử hấp dẫn liên quan. Một vị chuyên viên của Sở
đã dự một số giờ của thầy rồi kết luận dạy như thế là “sai quy chế, vô bổ”.


Một vị chuyên viên mơn Văn cũng tỏ ra rất bất bình khi xem giáo án của một GV và thấy chỉ toàn những câu hỏi, mà
khơng có nội dung trả lời. Ông này đã “chỉnh” cả tổ về quy cách soạn giáo án, và suýt kỉ luật GV nọ.



Trở lại với bài giảng “Cô bé Lọ Lem” của GV Mĩ, bên cạnh những ưu điểm mà tác giả đã chỉ ra, bài giảng cịn có
những vấn đề cần phải xem xét. Dễ nhận thấy từ đầu đến cuối GV là một “đạo diễn” tài ba, nhưng điều đáng tiếc là vị
đạo diễn này đã lấn sân, nên vai trò của “diễn viên” (HS) đáng ra phải nổi bật lên lại bị lu mờ.


Giờ học được tổ chức theo kiểu đối thoại, nhưng chủ yếu là lời của ơng thầy, cịn lời của trị chỉ mang tính chất phụ
họa, “tiếng đế”, chỉ có phát hiện ở cuối bài về chi tiết “lỗi” của truyện là đáng kể. Cứ làm một thống kê so sánh về tỷ lệ
từ ngữ của ông thầy và HS trong giờ học sẽ rõ. Toàn bộ chân lý là do thầy phát hiện, và phát biểu.


Đành rằng các em HS này có thể cịn nhỏ tuổi, nhưng ơng thầy giỏi là người biết dẫn dắt sao để cho HS tự nắm được
chân lý, chứ không phải là chỉ thụ động tiếp thu chân lý. Ít ra thì cũng đóng vai người đồng hành, chứ khơng nên tự
mình làm lấy tất cả. “Cung cấp cần câu thay vì cho cá”, đó là nguyên tắc sơ đẳng mà bất cứ nhà giáo nào cũng đã biết.
Hạn chế thứ hai cũng xuất phát từ hạn chế thứ nhất, là tính chất suy diễn của nội dung bài giảng. Vì GV khơng để cho
HS tiếp nhận bài học một cách tự nhiên, không khơi gợi cho các em phát biểu những điều mình nghĩ một cách tự do,
nên đã rơi vào lỗi “áp đặt chân lý”, dù hay và đúng đến mấy.


Từ bài học về một truyện cổ tích, ơng thầy đã dẫn dắt HS đến những vấn đề như: Cần ăn mặc chỉnh tề, sự giúp đỡ của
bạn bè, cần biết thương u chính mình, biết tự tạo ra cơ hội, giữ thói quen đúng giờ… “rằng hay thì thật là hay”,
nhưng cũng nhiều quá. Quá nhiều bài học, thì HS sẽ khó lĩnh hội được sâu sắc một bài học nào.


Chúng tơi có cảm giác là trong những bài học khác, người ta cũng rất dễ dẫn dắt HS đến những bài học tương tự, nghĩa
là ông thầy “tán” nhiều quá. Mà việc rút ra quá nhiều bài học đạo đức, ứng xử như thế sẽ khiến giờ học “lạc đề”, lấn
sân sang nội dung của môn GDCD. Ý kiến về việc bài dạy không đúng đặc trưng bộ mơn cũng có cơ sở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Mỗi lời giảng, cách giải thích của GV Văn vì thế cần tự nhiên, tinh tế, nhưng cũng phải chính xác. Nhiều khi, một cắt
nghĩa sai của GV đã để lại những hậu quả lâu dài. Bởi vì HS cứ nghĩ rằng đó là chân lý. Ví dụ như cách giải thích của
người GV Mĩ nói trên có một điểm cần tranh luận.


Đó là “Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt
với người khác thôi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ khơng phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ
chưa thể yêu con của người khác như con mình mà thơi”.



Đây là một lời bào chữa cho bà mẹ kế và có thể gây hiểu lầm. Họ có thể “chưa thể yêu con của người khác như con của
mình”, cái đó là quyền họ. Nhưng họ khơng thể nhân danh vì con mình mà đối xử nhẫn tâm, tàn tệ với “con của người
khác” được. Đó là tội ác xuất phát từ tính ích kỉ, đố kị khơng thể tha thứ, không thể biện minh. Ở đây, không khéo đầu
óc trẻ thơ đã hiểu sai về bản chất vấn đề, cho rằng những người như bà mẹ kế nọ “không phải là người xấu”!?


Cũng nên cho các em biết là những người nhân hậu yêu thương con người khác cũng như con của mình.


Một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục là giúp người học nhận thức được đúng sai, Thiện-Ác. Điều này
tưởng như đơn giản nhưng thực chất là vấn đề mà con người luôn phải đối mặt trong suốt cuộc đời. Đôi khi chỉ một lời
nói thiếu chín chắn của người thầy cũng đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề.


Ở đây chúng ta lại trở về một vấn đề có tính ngun lý: Dạy Văn là dạy người. Dạy người là mục đích, nhưng phải
thơng qua văn chương, bảo đảm những quy luật đặc thù của văn chương.


</div>

<!--links-->

×