Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Bách Khoa
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO MƠN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài 2: Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam đã trải qua bao chặng đường dài khó khăn, gian khổ, để giành
được độc lập, thắng lợi. Vì đó “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Vì thế với mỗi người dân Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng, việc
học tập và nghiên cứu lịch sử đường lối của Đảng là để hiểu được phần nào những chặng
đường khó khăn, gian khổ mà cách mạng đã đi qua. Đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
là một tài sản vô giá, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực,
vượt qua thách thức khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giành độc lập cho
đất nước.
Nhìn lại quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta đã thấy Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo tinh thần cách mạng triệt để, khi thắng lợi cũng như
lúc khó khăn, khi thành cơng cũng như lúc sai lầm khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là một điều tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải
phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới.
Để nhận thức rõ hơn về lịch sử Đảng, bài tiểu luận của nhóm em giải quyết vấn đề
“Q trình hồn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ cương lĩnh
chính trị đầu tiên đến chính cương Đảng lao động Việt Nam”. Nhóm em làm bài tiểu luận
này với mong muốn củng cố, tìm hiểu thêm kiến thức về q trình hồn chỉnh đường lối
của Đảng cho bản thân cũng như đó là sự cần thiết với thế hệ trẻ hiểu được, học tập lịch
sử Đảng không chỉ là tiếp thu kiến thức mà ta phải thấy được trách nhiệm của mỗi cá
nhân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng đã lựa chọn.
Nhưng do chưa được tiếp xúc nhiều tài liệu, cũng như các kiến thức chuyên sâu liên
quan, nên không tránh khỏi các thiếu sót và hạn chế. Nên chúng em rất mong sự giúp đỡ
của thầy để tiểu luận trở nên tốt hơn.
Đề tài sẽ giải quyết cũng như trình bày những bối cảnh lịch sử Việt Nam trong các
giai đoạn. Hiểu rõ được bản chất, thực trạng của đất nước Việt Nam bấy giờ. Hiểu rõ
2
chính sách chủ trương, quan điểm đường lối của Đảng, và q trình hồn chỉnh đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong việc xây dựng phát triển đất nước.
3
PHẦN NỘI DUNG
I.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được
các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam.
a) Về chính trị:
Chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi
quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn quyền Đơng
Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến
các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án..., biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh
của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc,
chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước
Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta
trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tơn
giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ, giữa dân tộc Việt Nam
với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm Việt Nam, Campuchia, Lào,
đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp. Thi hành chế độ chuyên chế, trực tiếp nắm mọi
quyền hành:
Dùng chính sách "chia để trị": thực dân Pháp chia rẽ 3 nước Đông Dương, rồi lập ra
xứ Đông Dương thuộc Pháp. Ở Việt Nam, Pháp thực hiện chia rẽ giữa 3 kỳ (theo chế độ
cai trị khác nhau). Chúng chia rẽ người Kinh và các dân tộc khác, giữa miền xuôi - miền
núi, giữa các tôn giáo... Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu các xứ và tỉnh là các viên quan
người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu. Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là
4
làng xã, do các chức tịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa
phương đều do thực dân Pháp chi phối. Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn
áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta và khủng bố, cấu kết với địa chủ. Thực dân
Pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
b) Về kinh tế:
- Nông nghiệp: năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai
khẩn đất hoang” cho chúng. Ngay sau đó, Pháp tăng cường cướp đoạt đất đai, lập các khu
đồn điền lớn để trồng cao su, thứ cây công nghiệp mà Pháp coi trọng khi đó.
- Cơng nghiệp: chú trọng khai thác mỏ than và kim loại. Tuy nhiên Pháp không xây
nhà máy luyện kim tại Việt Nam, tất cả kim loại khai thác được chở về Pháp. Phần lớn
các xí nghiệp khai mỏ nằm trong tay những tập đoàn tư bản Pháp. Phương thức hoạt động
là tận dụng nhân công lao động rẻ mạt, sao cho chi phí sản xuất giảm xuống mức thấp
nhất để thu lợi nhuận cao.
- Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, vừa phục vụ làm
ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
- Thương nghiệp: Việt Nam trở thành thị trường độc quyền của tư bản Pháp, Pháp
độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Tất cả hàng hóa Việt Nam mà Pháp cần đều phải ưu
tiên xuất sang Pháp, không được xuất khẩu sang nước khác, những hàng hóa mà Pháp
thừa ế hoặc kém phẩm chất so với hàng hóa của các nước khác thì Việt Nam vẫn phải
mua của Pháp.
- Tiến hành chính sách khai thác để cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân cơng rẻ mạt,
mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của tư bản Pháp, độc quyền về kinh tế để dễ bề ve
vét, độc hành về thuế và phát hành giấy bạc, duy trì hình thức bóc lột phong kiến, kìm
hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế nước ta phụ thuộc vào
kinh tế Pháp.
- Đặc biệt chúng độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện:
+ Về muối: muối là một trong những thứ nhu yếu phẩm, đặc biệt lại là một sản phẩm
vô cùng quan trọng trong miếng ăn của người Việt Nam, là thành phần vô cùng cần thiết
trong việc dự trữ thực phẩm, chế biến món ăn và nấu ăn. Muốn muối cá, muối thịt, làm
5
nước mắm, muối dưa cải hay muối chua các thứ rau, tất cả đều phải có muối. Kho cá, kho
thịt, làm xơi, nấu cơm nếp, ăn cháo trắng lót lịng cũng phải có muối. Nói tóm lại, bất kỳ
món ăn nào cũng phải có muối. Chính vì thế mà đối với người Việt Nam, muối trở thành
một sản phẩm vô cùng quan trọng khơng khác gì gạo. Hơn nữa, nước ta khơng có mỏ
muối. Vì thế, tất cả muối tiêu thụ ở nước ta đều được sản xuất qua phương pháp gạn lọc
nước biển bằng cách để cho nước bốc hơi bay đi hết, chất muối lắng xuống ở dưới rồi
gom lại thành từng thúng đem đi bán. Do tình trạng này, chỉ những vùng ven biển có bãi
cát lài lài, thoai thoải bằng bằng mới có điều kiện để sản xuất muối. Những vùng bờ biến
dốc đứng khơng có điều kiện sản xuất muối. Những yếu tố này đã khiến cho muối trở nên
khan hiếm ở trên thị trường. Biết được những yếu tố quan trọng này, các nhà làm chính
sách thuế khóa trong chính quyền Liên Minh Pháp - Vatican nghĩ ngay đến biện pháp
nắm độc quyền phân phối muối. Qua chính sách đánh thuế bất nhân này, chúng đã thu vơ
về ngân quỹ của Liên Minh Pháp - Vatican một khoản tiền khổng lồ có thể đủ trả lương
cho 50% công chức ở Đông Dương.
+ Về rượu: Trong thực tế, rượu đã được coi như khá quan trọng trong nếp sống văn
hóa của bất kỳ xã hội nào dù là văn minh hay lạc hậu. Với các quốc gia Đông Phương
chịu ảnh hưởng của nền văn minh Khổng Mạnh, rượu đã trở thành một trong những yếu
tố vơ cùng quan trọng trong nếp sống văn hóa của người dân. Cũng vì thế mà rượu hiện
diện trong hầu hết các ngày lễ lạc, đám cưới, đám tang, cúng tế và những cuộc hội ngộ
giữa các bạn bè thân thiết hay trong những bữa tiệc kẻ ở tiễn người đi hoặc trong bữa
cơm vui đón mừng người đi xa trở về, tất cả cũng đều phải có rượu. Ở nước ta, rượu cũng
vô cùng quan trọng, trong thời xưa, bất kỳ làng xóm nào cũng có một hay hai gia đình
sinh sống bằng nghề nấu rượu, rượu trở thành sản phẩm rất thông dụng, không bao giờ
khan hiếm. Biết rõ tính cách quan trọng của rượu trong nếp sống văn hóa của người Việt
Nam là như vậy, với chủ trương cố hữu nắm trọn quyền kiểm soát tất cả mọi ngành sinh
hoạt trong xã hội, Giáo Hội La Mã và thực dân Pháp bèn quyết định nắm độc quyền sản
xuất và phân phối rượu, rồi cưỡng bách nhân dân ta hàng năm phải tiêu thụ số lượng rượu
theo đúng chỉ tiêu mà chúng đã đề ra. Với việc nắm trong tay độc quyền sản xuất rượu
trong nước, thực dân Pháp không chỉ thu về lợi nhuận hàng năm, mà cịn có khả năng
6
khống
chế
và
đầu
độc
nhân
dân
ta.
+ Về thuốc phiện: Thuốc phiện bị coi như là một sản phẩm có tác hại vơ cùng nguy hiểm
cho những người hút và gia đình họ. Thế nhưng, từ khi dân ta rơi vào ách thống trị của
Liên Minh Pháp - Vatican, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết lập
các cơ sở biến chế, tổ chức hệ thống phân phối, khuyến khích mở các tiệm hút và tiệm
bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buôn bán sản phẩm này. Như
vậy là chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều người mà đa số thuộc thành
phần khá giả dễ dàng a dua đua đòi rồi sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả
cuộc đời. Nhìn rộng ra, nếu quốc gia có quá nhiều người nghiện hút thuốc phiện như vậy,
thì dân nước sẽ khơng cịn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự
tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh
lệ thuộc nước ngoài. Tuy nhiên, thiết nghĩ rằng, ngoài chủ trương làm tiêu tan ý chí đấu
tranh của dân tộc Việt Nam, Liên Minh Pháp - Vatican cịn có chính sách độc quyền nhập
cảng lậu và phân phối thuốc phiện vừa để lấy tiền chi phi cho bộ máy cai trị tại Đông
Dương, vừa để trả lương hậu hĩ cho công chức người Pháp trong bộ máy cai trị này với
mục đích khích lệ họ tích cực thẳng tay đàn áp và bóc lột dân ta chế và đầu độc nhân dân
ta.
c) Về văn hóa:
Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân; dung túng, duy trì
các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông
Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành
hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu... chúng tôi phải sống
trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.
Ngu dân về giáo dục và đầu độc về văn hoá là một trong những biện pháp hỗ trợ đắc
lực cho công cuộc khai thác ở Việt Nam. Thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo dục
chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thơng dịch viên và những người phục vụ trong bộ
máy chính quyền thuộc địa, đồng thời từng bước truyền bá chữ Pháp và chữ Quốc ngữ,
hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán. Các trường học được tổ chức với ba bậc: bậc ấu học ở
xã, bậc tiểu học ở phủ, huyện và bậc trung học ở tỉnh. Học sinh theo học trong hệ thống
7
các bậc học này, ngoài việc được trang bị các kiến thức khoa học phổ thơng cịn phải học
tiếng Pháp. Các bậc học càng cao thì mơn tiếng Pháp và các kiến thức về văn hoá Pháp
càng trở thành bắt buộc.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu
độc, truỵ lạc hố đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với mọi thủ đoạn. Những thói
hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích
bằng cách cho mở các sịng bạc để thu thuế. Ngồi những sịng bạc cơng khai có tính chất
thường xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai cịn
có nhiều sịng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn...
Tệ nạn uống rượu khơng bị hạn chế mà thậm chí nhân dân còn bị bắt phải uống một
loại rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả nước. Loại rượu
này có nồng độ từ 40-45 độ và được nấu từ những loại gạo rẻ tiền rồi sau đó pha thêm
chất hố học. “Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng
cũng trong số 1.000 làng đó lại chỉ vẻn vẹn 10 trường học... Hàng năm người ta cũng đã
tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con” 1.
Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân, đặc biệt là giới
trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ty bán thuốc phiện một cách công khai.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh trích đăng bức thư của Tồn
quyền Đơng Dương Xarơ gửi viên Công sứ dưới quyền: “Tôi trân trọng yêu cầu ông vui
lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ
thuốc phiện và rượu... Để tiến hành việc đó tơi xin gửi ông một bản danh sách những đại
lý cần đặt trong các xã đã kể tên...” 2. Chính quyền các cấp đã tìm mọi cách để ép các
viên chức từ cơng sứ cho tới các nhân viên văn phòng tăng mức tiêu thụ rượu và thuốc
phiện lên mức cao nhất có thể.
1,2
Trần Thanh Giang (2010), Chính sách nơ dịch về văn hóa của thực dân Pháp và một
số trào lưu văn hóa trước năm 1945 ở Việt Nam, Đại học Văn hóa Hà Nội.
2
8
Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các thành
phố lớn... Ở nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin cịn tồn tại, nạn bói
tốn, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.
- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nơng dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến
tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp
cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân.
Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi
bật của giai cấp công nhân Việt Nam là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam,
và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp vả tư sản người Hoa cạnh tranh,
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu
ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
9
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp
tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu
ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ bên ngồi truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có
tinh thần cách mạng cao.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đă tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời
của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực
dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó
mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần
tinh thần dân tộc.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia
thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái
10
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đơng
Dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày 0302-1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và
Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
1.2.1. Chánh cương vắn tắt
Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm
cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Cịn về nơng nghiệp một ngày một tập
trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ
khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ
mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
A. Về phương diện xã hội
a) Dân chúng được tự do tổ chức
b) Phổ thơng giáo dục theo nơng cơng hóa
B. Về phương diện chính trị
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam được hồn
tồn độc lập
b) Dựng ra chính phủ cơng nơng binh
c) Tổ chức ra quân đội công nông
C. Về phương diện kinh tế
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, vv.) của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý
11
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo
đ) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp
e) Thi hành luật ngày làm tám giờ
1.2.2. Sách lược vắn tắt
I. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp của mình, phải làm cho giai cấp của mình lãnh đạo được dân chúng.
II. Đảng phải thu được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh lại bọn đại địa chủ và phong kiến.
III. Đảng phải làm cho các đồn thể thợ thuyền và dân cày (cơng hội, hợp tác xã)
khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
IV. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh Niên, Tân
Việt, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ
và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản các mạng (Đảng lập Hiến, v.v.) thì phải đánh
đổ.
V. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ
một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thỏa hiệp, trong khi tuyên truyền
khẩu hiệu “nước An Nam độc lập”, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.
1.2.3. Chương trình tóm tắt của Đảng
Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân
và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.
Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn
địa chủ và phong kiến.
Đảng giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư sản.
12
Đảng lôi kéo tiểu tư sản, tri thức và trung nơng về phía giai cấp vơ sản, Đảng tập hợp
hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung, đánh đổ các Đảng phản cách mạng như
Đảng Lập Hiến, v.v…
Không bao giờ Đảng lại hi sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho
một giai cấp khác.
Như vậy nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ,
lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập
Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Cụ
thể:
Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ cơng-nơng-binh và tổ chức qn đội
cơng nơng.
Về kinh tế, tịch thu tồn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ mới;
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang
công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám
giờ.
Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo dục
theo hướng cơng nơng hóa.
Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân,
nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng
đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… đi vào phe vô sản giai cấp; Đối với phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng
sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
13
Về mối quan hệ quốc tế, Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
trên thế giới, nhất là với quần chúng vơ sản Pháp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần
tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để
giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Tuy rằng, nội dung Cương lĩnh vẫn cịn một vài vấn đề về sau khơng hồn tồn phù
hợp với thực tiễn Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau,
song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thơng qua tại Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hồn thiện
hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân
quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực
hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, cịn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường”.
II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941
2.1. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương (10-1930)
2.1.1. Hồn cảnh ra đời
Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến
mùa thu năm 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về
nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận
Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách
14
mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng
(2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả...
2.1.2. Nội dung, ý nghĩa lịch sử và hạn chế
Luận cương chính trị của Đảng (thường gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân
quyền) gồm ba phần: Tình hình thế giới và cách mạng Đơng Dương; Những đặc điểm về
tình hình ở Đơng Dương; Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đơng Dương.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới và Đơng Dương, Luận
cương chính trị nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cách mạng tư sản
dân quyền. Cách mạng tư sản dân quyền là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, bỏ
qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh
đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại
ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ khăng khít với nhau. “Trong cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng
vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được".
Luận cương cũng phân tích rõ vai trị địa vị của mỗi giai cấp:
Đối với các đảng phái quốc gia cải lương, Đảng phải kiên quyết vạch trần tính chất
nguy hiểm, lừa gạt và phá hoại phong trào cách mạng công nông. Đối với các đảng phái
tiểu tư sản, Đảng có thể tạm thời hợp tác, với điều kiện là họ phải thật sự chống đế quốc,
không ngăn trở công tác tuyên truyền cộng sản trong công nông, Đảng phải ln giữ tính
chất độc lập về tun truyền và tổ chức của mình và phê phán tính do dự của họ. Luận
cương chính trị khẳng định, cách mạng Đơng Dương phải có một Đảng Cộng sản vững
15
mạnh lãnh đạo. “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương
là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật tập trung mật
thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền
phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi
chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai
cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vơ sản là chủ nghĩa
cộng sản”.
Luận cương còn chỉ rõ: muốn giành được thắng lợi Đảng phải thu phục được đông
đảo quần chúng lao động bằng cách tổ chức ra các đoàn thể cách mạng như Cơng hội,
Nơng hội...
Ngồi những vấn đề về đường lối chiến lược, Luận cương đã vạch ra những vấn đề
hình thức và phương pháp cách mạng. Luận cương chỉ rõ khi chưa có tình thế cách mạng,
phải đặt khẩu hiệu "phần ít" như tăng cường giảm giờ làm, chống thuế… qua cuộc đấu
tranh hàng ngày giáo dục cho quần chúng ý thức đánh đổ đế quốc giành độc lập, đánh đổ
phong kiến giành ruộng đất cho dân cày. Nhiệm vụ của Đảng là “phải lấy những sự nhu
yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách
mạng”.
Về thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Luận cương viết: “Đến lúc sức
cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn
bỏ về phe cách mạng, quần chúng cơng nơng thì sơi nổi cách mạng, quyết hy sanh phấn
đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và
giành lấy chánh quyền cho công nông”.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương cho rằng khởi nghĩa “khơng phải là một
việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại theo khuôn phép
nhà binh… Trong khi khơng có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu;
nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ
16
trang bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi
cơng, v.v., để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này”.
Luận cương cũng nhắc nhở nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày càng gần, cho nên phải
làm cho khẩu hiệu chống chiến tranh đế quốc ăn sâu trong quần chúng như khẩu hiệu
“đổi chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng”, “phản đối binh bị”,... đồng thời tăng
cường cơng tác vận động binh lính địch, tổ chức tự vệ của công nông.
Cuối cùng, Luận cương chánh trị của Đảng chỉ rõ: cách mạng Đông Dương là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vơ sản thế giới.
Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý
luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song,
Luận cương còn một số mặt hạn chế.
Một là, Luận cương chưa phân tích sâu sắc đặc điểm của xã hội Việt Nam nên không
nêu được mâu thuẫn chủ yếu cần giải quyết của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam và đế quốc Pháp và tay sai của chúng, do đó khơng đặt nhiệm vụ chống đế
quốc lên hàng đầu.
Hai là, Luận cương đánh giá chưa đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản và
mặt yêu nước của tư sản dân tộc, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ
phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Luận cương chính trị nhận
rõ vai trị của liên minh cơng nơng, nhưng lại chưa đề cập vấn đề Mặt trận dân tộc thống
nhất.
2.1.3. So sánh Luận cương chính trị của Đảng (10/1930) và Cương lĩnh chính trị
(2/1930)
a) Điểm giống nhau giữa luận cương chính trị và cương lĩnh của Đảng
17
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích
chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng
nối tiếp nhau khơng có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu
thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và
giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng
nịng cốt và cơ bản đơng đảo trong xã hội góp phần to lớn vào cơng cuộc giải phóng dân
tộc nước ta.
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đơng dân chúng Việt Nam cả
về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế
quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng nơng.
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngồi, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp cơng nhân thơng qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện
đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
b) Điểm khác nhau giữa luận cương chính trị và cưỡng lĩnh của Đảng
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh
chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh
đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân
tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn
đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam
18
hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức
cho quân đội công nơng, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thơng giáo dục
theo hướng cơng nơng hóa. Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng
Dương hồn toàn độc lập”.
Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có quan hệ
khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng những
yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc
đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận
cương chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai
cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách
mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đồn kết
với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt
Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
Như vậy, ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp cơng
nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng
vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai cấp vơ
sản và nơng dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó
giai cấp vơ sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có
số lượng đơng đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và
tầng lớp khác ngồi cơng nơng như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống
cách mạng, cịn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng
phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn
kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng
chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo
19
một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và
tay sai.
Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ
yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ
nòng cốt của cách mạng.
Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập
khn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu
tranh giai cấp. Cịn Cương lĩnh chính trị tuy cịn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra
phương hướng cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc
tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo,
nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa
cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng
với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho
những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng
cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.
2.2. Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941
2.2.1. Trong những năm 1930-1935
a) Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời, cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương.
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất
tại Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất: đổi tên Đảng
20
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thơng qua Luận cương chính trị
của Đảng Cộng sản Đơng Dương do Trần Phú soạn thảo; cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
b) Chủ trương khơi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được
một phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp và
tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn như nhiều cơ sở
Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Từ đó các
phong trào đấu tranh cũng lắng xuống.
Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà qn thù khơng thể xố
bỏ được là khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp
vô sản, của Đảng và hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông trong đấu
tranh cách mạng đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng.
Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì như Hà Nội,
Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Các đảng viên chưa bị bắt vẫn tiếp tục nỗ lực lần tìm
lại cơ sở để lập lại tổ chức.
Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế
Cộng sản đã lựa chọn những thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng
Kông (Trung Quốc) thành lập Ban chỉ huy hải ngoại - hoạt động với tư cách là Ban Chấp
hành Lâm thời (thay cho Ban Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,
Phùng Chí Kiên… Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã công bố
Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản Đơng Dương (tháng 6-1932).
Cuộc đấu tranh địi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 tồn quyền Đơng
Dương đã ký lệnh ân xá tù chính trị ở Đơng Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân
xá tù chính trị.
Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng
sản, đến cuối năm 1934 đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và
phong trào quần chúng dần được nhen nhóm lại.
21
Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy
ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất
của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố
và phát triển Đảng cả về lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần
chúng; Tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xơ và cách mạng
Trung Quốc…
Hồ Chí Minh nói: “Chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra khơng sát với phong trào
cách mạng thế giới và trong nước bấy giờ”.
2.2.2. Trong những năm 1936-1939
a) Hoàn cảnh lịch sử
Trên thế giới, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho
mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần
chúng dâng cao. Một số nước đi vào con đường phát xít hố: dùng bạo lực để đàn áp
phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế
giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe
“Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới.
Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hồ bình và an ninh
quốc tế.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định kẻ thù nguy hiểm
trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ
nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới
chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và
chiến tranh, địi tự do, dân chủ, hồ bình và cải thiện đời sống. Đối với các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng
đặc biệt.
Trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản
động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân
22
dân làm cho bầu khơng khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân
chủ.
b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải.
Xuất phát từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định rằng mục tiêu chiến lược không thay
đổi so với Hội nghị lần thứ nhất “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập
chính quyền cơng nơng bằng hình thức Xơ viết”, “để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã
hội chủ nghĩa”. Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ
tay sai của chúng. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng chính là chống phát xít, chống
chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm
áo và hịa bình. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Ban chấp hành Trung ương quyết định
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái các đồn thể chính trị
và các tơn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để đấu tranh địi những quyền
dân chủ đơn sơ.
Về đồn kết quốc tế: Đồn kết với giai cấp cơng nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng
hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống
kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đơng Dương.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức
tổ chức bí mật khơng hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công
khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm
Tổng Bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung
ương cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và điền địa trong cách mạng Đơng Dương: cách mạng giải phóng dân tộc không
nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh
chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà
giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu
tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
23
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng
định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (31937), lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác
tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt
động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa,
chống phát xít, địi tự do, cơm áo, hịa bình.
Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự
chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động
cơng khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm
đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận
động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai
lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ
Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về cơng tác xây dựng Đảng, vận động
quần chúng.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động
được một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa
tư tưởng với các hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ
rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng,
chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi
tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.
c) Giải quyết hạn chế
Đường lối chính trị do Đảng đưa ra đã thay đổi trong quan điểm, phù hợp với tinh
thần Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của
24
Luận cương chính trị tháng 10-1930 về chiến lược, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng và
phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc.
Về nhiệm vụ: đã xác định đúng kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động
thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Về chiến lược: đã tách được cuộc cách mạng điền địa ra khỏi cách mạng dân tộc. Đã
đặt đúng mục tiêu giải phóng dân tộc lên hàng đầu, giải quyết vấn đề dân tộc là cốt yếu.
Về lực lượng cách mạng: có được mối quan hệ giữa liên minh công – nông và mặt
trận đoàn kết dân tộc rộng rãi. Phát huy được sức mạnh toàn dân.
Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: khoanh vùng chính xác phạm vi Việt Nam,
khơng phải tồn Đơng Dương. Giải quyết tình hình dân tộc là ưu tiên hơn cả.
2.2.3. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1941
a) Hoàn cảnh lịch sử
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham
chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong
trào cách mạng thuộc địa.
Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941,
quân phát xít Đức tấn cơng Liên Xơ. Từ khi phát xít Đức tấn cơng Liên Xơ, tính chất
chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên
Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
- Tình hình trong nước:
Ở Đơng Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng
tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng
Cộng sản Đơng Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức
người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm
lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đơng Dương cho Nhật. Chịu
cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về
25