Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Các biện pháp điều tra trưng cầu giám định, định giá tài sản, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.52 KB, 21 trang )

Mục lục

1


I

Khái quát chung về các biện pháp điều tra trưng
cầu giám định, định giá tài sản, biện pháp điều tra

1

tố tụng đặc biệt.
Biện pháp điều tra trưng cầu giám định

Trưng cầu giám định là hoạt động tố tụng được quy định
trong bộ luật tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
toà án trưng cầu nhà chuyên môn sử dụng kiến thức, phương
tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để đánh giá,
kết luận về chuyên mơn những vấn đề có liên quan đến việc
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Khoản 1 Điều 205 Bộ Luật tố tụng hình sụ 2015 thì: “Khi
thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ
luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định”.
Điều 206 BLTTHS năm 2015, quy định về các trường hợp
bắt buộc phải trưng cầu giám định, theo đó: “Bắt buộc phải
trưng cầu giám định khi cần xác định:
1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ
về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần
của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả


năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết
của vụ án;
2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với
việc giải quyết vụ án và khơng có tài liệu để xác định chính xác
tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài
liệu đó;
3. Ngun nhân chết người;

2


4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả
năng lao động;
5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ
cổ;
6. Mức độ ơ nhiễm mơi trường”.
Ngồi ra, cơ quan tiến hành tố tụng cịn có thể trưng cầu
giám định khi có yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện của
họ theo quy định tại Điều 207 BLTTHS 2015, hoặc khi có đề nghị
của bị can, bị cáo. Quyết định trưng cầu giám định phải có các
nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 205 BLTTHS 2015.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám
định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết
định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định
cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng
cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát điều tra. Thời hạn giám định được
quy định tại Điều 208 BLTTHS 2015.
2


Biện pháp điều tra định giá tài sản

Yêu cầu định giá tài sản là hoạt động tố tụng được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tồ án yêu cầu hội đồng định giá tài sản xác định giá tài sản
liên quan đến vụ án nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Theo quy định của BLTTHS tại Điều 215 thì khi cần xác định
giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.
Ngoài ra, bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác
3


cũng có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu định
giá tài sản.
Về thời hạn định giá tài sản, theo quy định tại Điều 216
BLTTHS thì: “Việc định giá tài sản, trả kết luận định giá tài sản
thực hiện theo thời hạn nêu trong văn bản yêu cầu định giá tài
sản. Trường hợp việc định giá tài sản không thể tiến hành trong
thời hạn yêu cầu, Hội đồng định giá tài sản phải kịp thời thông
báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan, người đã yêu cầu
định giá biết.”
3

Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là các biện pháp
được áp dụng để điều tra các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
tội phạm về ma tuý, tham những, tội khủng bố, tội rửa tiền và

các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng và được tiến hành theo thủ tục đặc biệt do bộ
luật tố tụng hình sự quy định.
Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ có thể được áp
dụng sau khi đã khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều
223 BLTTHS 2015 các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao
gồm:Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập
bí mật dữ liệu điện tử. Đây là những biện pháp điều tra đặc
biệt, chính vì vậy mà chúng cũng chỉ được áp dụng giới hạn đối
với một số tội nhất định. Điều 224 BLTTHS năm 2015, biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt có thể áp dụng để điều tra đối với: Tội
xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về
tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; tội phạm khác có tổ
chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

4


Về thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt. Theo quy định tai Điều 226 BLTTHS thì Thủ
trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra
quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án do Cơ
quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ
lý, điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ
trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ
quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự
cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng.

Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là
không quá 02 tháng kể từ ngày viện trưởng viện kiểm sát phê
chuẩn (Điều 226 BLTTHS). Trường hợp phức tạp có thể gia hạn
nhưng khơng quá thời hạn điều tra quy định tại Điều 172
BLTTHS năm 2015.
II

Những hoạt động của Kiểm sát viên khi thực
hành quyền công tố và kiểm sát TCGĐ, ĐGTS,

1

BPĐTĐB
đối với hoạt động trưng cầu giám định
Để đảm bảo vụ án được điều tra nhanh chóng, cơ quan

điều tra tiến hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong số
đó có hoạt động trưng cầu giám định. Khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động trưng cầu giám định, Kiểm sát
viên thực hiện một số hoạt động sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám
định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra nhằm bảo đảm nội

5


dung trưng cầu giám định cụ thể, rõ ràng, phù hợp với sự việc
và những vấn đề cần yêu cầu kết luận.
Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để
phát hiện các nội dung cần giám định, các trường hợp bắt buộc

phải giám định quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự,
các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định tại
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP
ngày 13/12/2017 quy định những trường hợp cần thiết phải
trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về
tham nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám định để
báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu
cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra quyết định trưng cầu giám
định theo quy định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kiểm sát viên cịn có thể tham dự việc giám định. Trường
hợp Kiểm sát viên tham dự giám định, thì phải thơng báo trước
cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
Thứ hai, Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ,
chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám
định liên quan đến các tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết
luận trước đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra trưng cầu giám định bổ sung theo quy
định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính
xác hoặc có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và
kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm
sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn
6


bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra trưng cầu giám
định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo quy định tại Điều
211 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra để yêu cầu tổ chức, cá
nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định, hỏi
thêm người giám định về những tình tiết cần thiết theo quy
định tại Điều 213 Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ tư, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ra quyết định trưng cầu giám định khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây: “Trong giai đoạn khởi tố, Viện
kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố; Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát đã yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định trưng cầu giám
định nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra khơng thực hiện
mà nếu khơng giám định thì khơng đủ chứng cứ để chứng minh
hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra; Trong giai đoạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết” 1.
Thứ năm, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn gửi
quyết định trưng cầu giám định, thời hạn giám định và thời hạn
gửi kết luận giám định, bảo đảm đúng theo quy định tại các
điều 205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Đối với hoạt động định giá tài sản
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động định
giá tài sản, Kiểm sát viên cần tiến hành một số hoạt động sau:
1 Khoản 3 Điều 16 Quy chế kiểm sát ban hành kèm quyết định 170/QĐ-VKSTC

ngày 02 tháng 5 năm 2018.

7



Thứ nhất, Kiểm sát viên chủ động kiểm sát chặt chẽ căn
cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu định giá tài sản theo
quy định tại các Điều 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222
Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ hai, Sau khi nhận được văn bản yêu cầu định giá tài
sản của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, nếu thấy nội dung
chưa đầy đủ, rõ ràng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra sửa đổi, bổ sung. Trường hợp cần định giá tài
sản nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không yêu cầu định
giá tài sản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Nếu Cơ
quan có thẩm quyền điều tra khơng thực hiện thì Kiểm sát viên
báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu
cầu định giá tài sản.
Thứ tư, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ kết luận định
giá tài sản, bảo đảm kết luận định giá tài sản khách quan, phù
hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra
và đáp ứng được yêu cầu định giá tài sản. Khi có căn cứ phải
định giá lại tài sản, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra yêu cầu định giá lại tài sản; nếu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra khơng thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp
ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.
Thứ năm, Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên tham dự
phiên họp định giá tài sản nhưng phải thông báo trước cho Hội
8



đồng định giá tài sản. Khi tham dự phiên họp, Kiểm sát viên có
quyền đưa ra ý kiến, nếu được sự đồng ý của Hội đồng định giá
tài sản.
4. Kiểm sát hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt:
Các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt là những biện
pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công
dân. Chính vì vậy mà việc kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều
tra đặc biệt có ý nghĩa rất quan trọng. Khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc áp dụng cá biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt, Kiểm sát viện cần thực hiện một số hoạt động sau:
Thứ nhất, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nguyên
tắc, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, việc sử dụng thông
tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt theo quy định tại Chương XVI Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ hai, trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị phê chuẩn
áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên
yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu gửi
kèm văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Sau khi nghiên cứu,
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Thứ ba, trường hợp có căn cứ và xét thấy cần thiết mà Cơ
quan điều tra không ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
9


đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra

quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; nếu Cơ
quan điều tra khơng thực hiện thì lãnh đạo Viện thực hiện
quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ
quan điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra mà có căn cứ và
cần phải áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nhưng
Thủ trưởng Cơ quan điều tra không đề nghị Thủ trưởng Cơ quan
Điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự khu vực ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
đang thụ lý, điều tra đề nghị Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp
xem xét, quyết định áp dụng; nếu Cơ quan này khơng thực hiện
thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp yêu cầu Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân
sự cấp quân khu xem xét, quyết định.
Thứ năm, khi có căn cứ hủy bỏ việc áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Điều 228 Bộ
luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết
định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
III. Những lưu ý Kiểm sát viên cần chú ý:
1.

Những yêu cầu khi kiểm sát Trưng cầu giám định
Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Giám định tư pháp

và khoản 2 Điều 205 Bộ luật TTHS thì Quyết định trưng cầu
giám định phải có các nội dung: “Tên cơ quan trưng cầu giám
10



định; họ, tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định; Tên tổ
chức; họ tên người được trưng cầu giám định; Tên và đặc điểm
của đối tượng cần giám định; Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu
so sánh gửi kèm theo (nếu có); Nội dung yêu cầu giám định;
Ngày tháng năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết quả
giám định”.
Như vậy, khi kiểm sát Quyết định trưng cầu giám định của
Cơ quan trưng cầu giám định, cần chú ý trong phần nội dung
của Quyết định trưng cầu giám định ngoài những nội dung như:
Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ, tên người có thẩm quyền
trưng cầu giám định; Tên tổ chức; họ tên người được trưng cầu
giám định; Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định; Tên
tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);
Nội dung yêu cầu giám định, Cơ quan trưng cầu giám định phải
ấn định thời hạn trả kết quả giám định để cơ quan được trưng
cầu biết thực hiện. Quy định này nhằm đảm bảo việc tiến hành
giám định được kịp thời, nhanh chóng và cơ quan giám định
phải gửi trả kết quả giám định cho cơ quan trưng cầu đúng thời
hạn, tránh việc cơ quan được trưng cầu kéo dài thời gian tiến
hành giám định hoặc chậm trả kết quả giám định cho cơ quan
đã trưng cầu, làm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ án
của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận
giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết
luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám
định và trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận giám
định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi
11



kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra.
Tuy nhiên trên thực tế, khi trưng cầu giám định và gửi kết
luận giám định, nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng
không ghi ấn định thời hạn trả kết quả giám định trong Quyết
định trưng cầu giám định là chưa đúng theo quy định tại khoản
2 Điều 25 Luật Giám định tư pháp, Điều 205, Điều 206, Điều
208 Bộ luật TTHS và gửi kết luận giám định đến Viện kiểm sát
theo chậm theo quy định khoản 2 Điều 213 Bộ luật TTHS.
Để đảm bảo cho cơ quan được trưng cầu thực hiện việc
giám định một cách nhanh chóng, kịp thời và trả kết quả giám
định đúng thời hạn, các cơ quan tiến hành tố tụng khi trưng cầu
giám định cần phải ấn định rõ thời hạn trả kết quả giám định
trong Quyết định trưng cầu giám định. Đồng thời, khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Kiểm sát
viên cần kiểm sát chặt chẽ nội dung Quyết định trưng cầu giám
định để yêu cầu khắc phục khi phát hiện có vi phạm, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả việc giải quyết các vụ án hình
sự.
2.

Những yêu cầu khi kiểm sát định giá tài sản
Thứ nhất, đối với hoạt động yêu cầu định giá tài

sản

của

CQĐT:


- Khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm hoặc thông tin về vụ
việc mà phải định giá tài sản để làm căn cứ xác định trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự…vv… do CQĐT chuyển đến,
thì Kiểm sát viên được phân công kiểm sát phải chủ động đưa
ra yêu cầu điều tra, trong đó đặc biệt chú ý:
12


+ Yêu cầu CQĐT thu giữ đầy đủ và bảo quản các tang vật
là tài sản cần định giá theo đúng quy định của pháp luật; thu
thập đầy đủ các tài liệu, giấy tờ liên quan đến tài sản cần định
giá, như: Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu; giấy tờ mua-bán tài
sản; kiểm định; thế chấp; Biên bản khám nghiệm tài sản,
phương tiện…
+ Yêu cầu CQĐT nhanh chóng tiến hành ban hành văn bản
yêu cầu định giá tài sản để làm căn cứ xử lý vụ việc.
- Văn bản yêu cầu định giá tài sản phải đảm bảo đầy đủ các nội
dung được quy định tại khoản 2 Điều 215 BLTTHS, trong đó đặc
biệt lưu ý các nội dung yêu cầu định giá phải cụ thể, rõ ràng,
chi tiết đối với từng loại tài sản, từng bộ phận của tài sản bị hư,
hỏng, mất mát..vv..., trên cơ sở đó mới yêu cầu xác định tổng
giá trị của tài sản cần định giá, tránh nêu chung chung. Đồng
thời, phải đảm bảo nội dung yêu cầu định giá phù hợp với khả
năng

chuyên

môn


của

HĐĐG



địa

phương.

- Kiểm sát chặt chẽ việc CQĐT xác định thời điểm cần định giá
của tài sản, theo đúng nguyên tắc: Giá trị tài sản định giá là giá
trị tại thời điểm tài sản đó bị chiếm đoạt, bị xâm hại, chứ khơng
phải là thời điểm bị can, bị cáo có được tài sản hoặc thời điểm
CQĐT thu giữ hay tại thời điểm diễn ra hoạt động định giá của
HĐĐG.
- Kiểm sát chặt chẽ việc giao, nhận tài sản cần định giá và các
tài liệu liên quan kèm theo giữa CQĐT và HĐĐG, đảm bảo giao
đúng quy định và đầy đủ theo yêu cầu của HĐĐG tài sản;
- Trong trường hợp cần thiết (ví dụ: tài sản định giá có giá trị
lớn; có nhiều loại tài sản cần định giá; tài sản là hàng cấm;
13


hàng hóa khơng phổ biến trên thị trường, khơng quy định trong
bảng giá của Nhà nước; việc xác định chất lượng cịn lại của tài
sản gặp khó khăn; tài sản định giá khơng cịn hoặc bị thất lạc…
vv…), thì tùy từng trường hợp Kiểm sát viên cần phối hợp với
Điều tra viên để cùng tham dự phiên họp định giá tài sản của
HĐĐG tài sản và đưa ra ý kiến, theo đúng trình tự, thủ tục quy

định tại khoản 1 Điều 217 BLTTHS.
Thứ hai, Đối với hoạt động định giá tài sản của
HĐĐG

tài

sản:

- Kiểm sát chặt chẽ thành phần HĐĐG tài sản, đảm bảo tất cả
các thành viên của HĐĐG phải không thuộc các trường
hợp không được tham gia định giá tài sản theo quy định tại
khoản 5 Điều 69 BLTTHS và Điều 13 Nghị định số 30/2018/NĐCP ngày 07 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ (sau đây gọi tắt
là Nghị định số 30/2018/NĐ-CP).
Để thực hiện được điều này, yêu cầu Kiểm sát viên phải
nắm đầy đủ danh sách các thành viên của HĐĐG thường xuyên
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc cơ quan có thẩm
quyền thành lập Hội đồng đối với Hội đồng định giá theo vụ
việc, đối chiếu với thực tế giải quyết của vụ việc để xác định họ
có thuộc trường hợp phải từ chối tham gia định giá hay không.
Nếu họ thuộc trường hợp không được tham gia định giá nhưng
không từ chối tham gia, thì phải cương quyết yêu cầu thay đổi
thành phần HĐĐG.
Khi kiểm sát cần lưu ý quy định tại khoản 6 Điều 7 Nghị
định số 30/2018/NĐ-CP, đó là: “ Đối với cùng một tài sản được
cơ quan có thẩm quyền trưng cầu định giá, trường hợp Hội
đồng định giá thường xuyên đã được thành lập để tiến hành
14


định giá đối với tài sản này thì khơngthành lập Hội đồng định

giá theo vụ việc theo quy định tại Điều 6 Nghị định này”. Tức là,
đối với tài sản cần định giá thuộc phạm vi và khả năng chuyên
môn của HĐĐG thường xuyên đã được thành lập rồi, thì sẽ do
HĐĐG thường xuyên thực hiện và không được thành lập HĐĐG
theo

vụ

việc

để

định

giá

đối

với

loại

tài

sản

đó.

- Trong trường hợp HĐĐG tài sản từ chối định giá, thì phải kiểm
tra kỹ các lý do từ chối của HĐĐG có đúng theo quy định tại

điểm c khoản 2 Điều 69 BLTTHS và điểm c khoản 1 Điều
10 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP hay khơng? (Nếu đúng, thì yêu
cầu CQĐT thay đổi thời gian, bổ sung tài liệu hoặc trưng cầu
HĐĐG khác; nếu khơng đúng thì u cầu CQĐT ban hành văn
bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc cơ quan có thẩm
quyền thành lập Hội đồng đối với Hội đồng định giá theo vụ
việc, để yêu cầu HĐĐG thực hiện việc định giá tài sản theo quy
định của pháp luật).
Nếu thành viên HĐĐG từ chối giám định mà không thuộc
trường hợp phải từ chối giám định theo quy định tại khoản 5
Điều 69 BLTTHS và Điều 13 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP
hoặckhơng vì lý do bất khả kháng hoặc khơng do trở ngại khách
quan, thì đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật (khoản 4
Điều

69

BLTTHS).

- Khi cần tham dự phiên họp định giá tài sản, thì Kiểm sát viên,
Điều tra viên phải thơng báo trước cho HĐĐG tài sản biết. Khi
tham dự có quyền đưa ra ý kiến, nhưng phải được sự đồng ý
của HĐĐG tài sản và không được quyền biểu quyết về giá của
tài sản (khoản 1 Điều 217 BLTTHS; khoản 5 Điều 18 Nghị định
số

30/2018/NĐ-CP).
15



-

Kiểm

sát

Biên

bản

phiên

họp

của

HĐĐG

tài

sản:

Do biên bản phiên họp định giá tài sản là căn cứ duy nhất để
HĐĐG tài sản kết luận định giá. Đồng thời, là cơ sở để các Cơ
quan tiến hành tố tụng yêu cầu HĐĐG giải thích kết luận định
giá; xác định kết luận định giá có đúng, đầy đủ hay không để
yêu cầu định giá bổ sung, định giá lại. Do vậy, cần phải được
kiểm sát thật chặt chẽ. Theo đó:
+ Khi kiểm sát Biên bản phiên họp định giá tài sản cần lưu ý
điều kiện để tiến hành phiên họp, theo đúng quy định tại khoản

1 Điều 18 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, đó là: “Phiên họp định
giá tài sản chỉ được tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng
thành viên của Hội đồng định giá tham dự. Trường hợp Hội đồng
định giá chỉ có 03 thành viên thì phiên họp phải có mặt đủ 03
thành viên”. Trong mọi trường hợp không đủ điều kiện nêu trên,
kết quả phiên họp khơng có giá trị pháp lý;
+ Biên bản phiên họp định giá phải được lập đúng và đầy đủ
theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Trong đó
đặc

biệt

lưu

ý

các

nội

dung:

* Căn cứ xác định giá; kết quả khảo sát giá, thu thập
thông tin liên quan đến tài sản cần định giá đảm bảo đúng theo
quy định tại các Điều 15 và Điều 16 Nghị định số 30/2018/NĐCP; các Điều 3 và Điều 4 Thông tư 43/2018/TT-BTC ngày 07
tháng 5 năm 2018 của Bộ Tài chính (phải đặc biệt chú ý nội
dung này đối với các trường hợp tài sản định giá khơng cịn
hoặc

bị


thất

lạc).

* Thời điểm xác định giá trị của tài sản cần định giá phải
phù hợp với thời điểm do CQĐT xác định trong văn bản yêu cầu
định

giá

tài
16

sản;


*Ý kiến của các thành viên Hội đồng và những người tham
dự phiên họp định giá tài sản; ý kiến bằng văn bản của thành
viên

vắng

mặt;

* Kết quả biểu quyết của Hội đồng định giá về giá của tài
sản.
Lưu ý: Đối với định giá tài sản là hàng cấm, ngoài các nội
dung chính quy định tại khoản 2 Điều 19, Biên bản phiên họp
định giá tài sản phải bao gồm những hạn chế về việc áp dụng

các căn cứ định giá tài sản đối với hàng cấm; về quá trình thực
hiện khảo sát giá; thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần
định giá là hàng cấm; về phương pháp định giá tài sản và các
hạn chế khác (nếu có) khi định giá tài sản là hàng cấm (khoản 3
Điều
-

19 Nghị

Kiểm

sát

Kết

định
luận

số

định

giá

30/2018/NĐ-CP).

tài

sản


của

HĐĐG:

Tại khoản 4 Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy
định: “Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm
quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật về định
giá thì khơng có giá trị pháp lý và khơng được dùng làm căn cứ
để giải quyết vụ án”. Vì vậy, khi kiểm sát Kết luận định giá tài
sản,

cần

lưu

ý:

+ Việc kết luận định giá tài sản phải được thực hiện theo
các quy định tại Điều 101 và Điều 221 BLTTHS. Căn cứ kết quả
biểu quyết theo đa số về giá của tài sản cần định giá tại Biên
bản phiên họp định giá tài sản quy định tại Điều 19 Nghị định
số 30/2018/NĐ-CP, Hội đồng định giá lập Kết luận định giá tài
sản bằng văn bản. Kết luận về giá tài sản được tính bằng đồng
Việt

Nam.
Kết luận định giá được gửi cơ quan yêu cầu định giá tài
17



sản trong thời hạn 24 giờ kể từ khi HĐĐG tài sản lập kết luận
định giá tài sản (Điều 20 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP).
+ Kết luận định giá phải đảm bảo đầy đủ các nội dung
theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP.
Kiểm sát viên phải đối chiếu nội dung Kết luận định giá với
nội dung các yêu cầu giám định của CQĐT trong bản yêu cầu
định giá. Nếu kết luận chưa đầy đủ, thì yêu cầu định giá bổ
sung; nếu kết luận chưa rõ ràng thì u cầu HĐĐG giải thích
kết luận định giá, trường hợp qua giải thích mà vẫn khơng đáp
ứng được u cầu, thì ban hành văn bản yêu cầu định giá lại
theo quy định tại Điều 218 BLTTHS. Mọi trường hợp khơng đồng
ý với kết luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do bằng văn
bản.
3. Những lưu ý khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Khi kiểm sát việc áp sụng các biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt, kiểm sát viên cần phải lưu ý một số vấn đề sau:
Điều 224 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về các trường hợp áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là những vụ án liên quan tới tội xâm
phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng
bố, tội rửa tiền, tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Như vậy Kiểm sát viên phải kiểm tra xem việc áp dụng các biện pháp
điều tra đặc biệt có đúng với các tội được phép áp sụng biện pháp điều tra này
hay không? Biện pháp được áp dụng cụ thể là biện pháp nào được quy định tại
Điều 223 BLTTHS 2015.

18


Thứ hai, khoản 1 Điều 225 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về

thẩm quyền áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau: “Thủ trưởng
Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu
trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp có
quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ
án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý,
điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều
tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng
Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng”. Kiểm sát
viên cần kiểm tra chặt chẽ xem quyết định áp dụng các biện pháp điều tra đặc
biệt có phải do nguời có thẩm quyền ban hành hay khơng. Ngoài ra để đảm bảo
thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân thành lập Cơ quan chuyên trách tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt.
Thứ ba, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được tiến hành ở gian đoạn
điều tra, sau khi khởi tố vụ án. Kiểm sát viên cần kiểm tra xem quyết định áp
dụng các biện pháp điều tra đặc biệt được ban hành khi nào, trước hay sau khi
có quyết định khởi tố vụ án.
Thứ tư, để tránh việc lạm dụng hay áp dụng quá lâu ảnh hưởng tới đời tư
của cá nhân, Điều 226 BTTHS 2015 quy định chi tiết về thời hạn áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Theo đó, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt là khoảng thời gian tối đa mà pháp luật cho phép để tiến hành biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt được quy định như sau: “Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn.
Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo
quy định của Bộ luật này”. Kiểm sát viên cần xem xét xem thời hạn áp sụng
biện pháp điều tra đặc biệt ghi trong quyết định có đúng với quy định của pháp
19



luật hay khơng? Khi cơ quan điều tra có u cầu ra hạn áp dụng thì phải kiểm ta
xem có căn cứ để gia hạn hay không? Thời hạn gia hạn thêm cụ thể là bao lâu?
Để từ đó báo cáo viện trưởng xem xét quyết định việc gia hạn.
Thứ năm, về việc kiểm sát việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập
được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Điều 227 BTTHS 2015 quy định
về sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt. Thông tin, tài liệu thu thập được từ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt rất
rộng liên quan tới bí mật đời tư của cá nhân. Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ
quan thi hành quyết định phải phân tích, đánh giá, chọn lọc những thơng tin, tài
liệu có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội, truy tìm đồng bọn, ngăn
chặn đối tượng bỏ trốn, truy nguyên tài sản bị tội phạm chiếm đoạt… và sử
dụng làm chứng cứ phục vụ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự;
thơng tin, tài liệu khơng liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Bộ luật
nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích
khác. Kiểm sát viên cần kiểm tra xem việc cơ quan sử dụng các thông tin, tài
liệu thu thập được như thế nào? Các thông tin đó có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án hay khơng? Cơ quan điều tra có vi phạm gì trong việc sử dụng
thông tin, tài liệu đã thu thập được hay không?
Thứ sáu, Điều 228 BTTHS 2015 quy định về Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt. Quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt,
Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải thường xuyên kiểm
tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trong trường hợp
không cần thiết phải áp dụng hay có vi phạm trong việc thi hành biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt thì có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp
hủy bỏ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đối với những vụ án mà Cơ quan
điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt khi muốn hủy bỏ phải có văn bản đề nghị Cơ quan điều
tra cấp tỉnh, Cơ quan Điều tra quân sự cấp quân khu để Cơ quan Điều tra cấp
20



tỉnh, Cơ quan Điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp
hủy bỏ.
Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt phải kịp thời hủy bỏ quyết định đó khi thuộc một trong các
trường hợp: có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm
quyền; có vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;
không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Theo đó
Kiểm sát viên cần thường xuyên kiểm ta xem việc áp dụng biện pháp điều tra
đặc biệt là cịn có cần thiết hay khơng, có căn cứ để hủy bỏ biện pháp này hay
khơng, từ đó có báo cáo xin ý kiến chỉ đạo từ viện trưởng.

21



×