Chương 1: Những Yếu tố chính của
Kinh tế Vĩ mô
Harvey B. King
Trong phần này chúng ta nghiên cứu về kinh tế vĩ mô.
● Bạn đã được giới thiệu về kinh tế vĩ mô trong cuốn Kinh tế học 100, ở nhiều
mức độ và trong nhiều khía cạnh khác nhau.
● Ở đây chúng tôi đi vào tiêu chuẩn hoá những cơ sở của các bạn.
● Chúng ta sẽ bắt đầu từ Phần I với sự giới thiệu về các biến kinh tế vĩ mô, và
cách chúng được xác định, và những gì chúng chỉ ra cho chúng ta.
● Tiếp đó chúng tôi sẽ nói về mô hình tổng cầu, tổng cung cơ bản mà rất nhiều
trong số các bạn đã biết đến ở trong cuốn Kinh tế học 100.
● Trong Phần II, chúng ta sẽ đi vào chi tiết điều gì quyếtt định đến tổng cầu ?
chúng ta sẽ xem xét thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường tài chính, và nền
kinh tế quốc tế một cách chi tiết hơn, bao gồm chính sách tiền tệ và tài chính.
● Trong Phần III, chúng ta sẽ đi chi tiết về thị trường lao động, thất nghiệp và tổng
cung. Điều này sẽ giúp chúng ta có được một mô hình kinh tế vĩ mô đầy đủ ở
Chương 12, và chúng ta có thể sử dụng nó để xem xét các cú sốc kinh tế vĩ mô và
chính sách kinh tế vĩ mô với sự chi tiết ở chương 14.
● Những nhấn mạnh của chúng tôi trong khoá học này là phát triển các công cụ
kinh tế vĩ mô, qua đó chúng ta có thể hiểu được những vấn đề kinh tế vĩ mô hiện
tại của Canada và đưa ra những giải pháp khả thi.
1. Định nghĩa kinh tế vĩ mô
Trong kinh tế học vi mô, chúng ta tìm hiểu về hoạt động của những người đưa ra
các quyết định cá nhân như là hộ gia đình và những doanh nghiệp trong những thị
trường riêng rẽ.
● Trong kinh tế học vĩ mô, chúng ta nghiên cứu về nền kinh tế một cách toàn bộ -
chúng ta nghiên cứu hoạt động kinh tế một cách tổng thể.
● Trong kinh tế học vĩ mô, chúng ta sẽ nhấn mạnh đến những đơn vị đưa ra quyết
định lớn hơn - những hoạt động của TẤT CẢ những người tiêu dùng hoặc của
TẤT CẢ những người lao động.
● Bên cạnh đó, thay vì tập trung vào các giá cả riêng rẽ, chúng ta sẽ nghiên cứu tất
cả các giá cả (mức giá trung bình).
● Và thay vì tâp trung vào sản xuất và bán ra trong một thị trường nhất định,
chúng ta sẽ nghiên cứu tổng sản xuất của toàn bộ nền kinh tế, gọi là Tổng Sản
phẩm Quốc nội (GDP).
Các vấn đề kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống hàng ngày của các cá
nhân nói chung.
● Chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn về điều gì tạo nên sự thất nghiệp, và tại sao nó
lại trở nên cao hơn tại nhiều thời điểm khác nhau.
● Chúng ta có thể tìm hiểu xem điều gì tạo nên sự tăng trưởng của tổng thu nhập
quốc dân, và điều gì tạo nên sự suy giảm trong thu nhập quốc dân như là trong giai
đoạn những năm đầu của thập kỷ 90.
● Một thanh sô cô la giá 10cent năm 1950, nhưng giá 1 đô la ngày nay - tại sao giá
cả lại tăng lên như thế?
● Tại sao chính phủ liên bang và chính quyền các tỉnh lại lo lắng về sự thâm hụt,
và điều này có ảnh hưởng gì đến đời sống hàng ngày?
[1]
2) Các Yếu tố chính của Kinh tế Vĩ mô
Chúng tôi sẽ bắt đầu phân tích với những biến kinh tế vĩ mô cơ bản và yếu tố đặc
định xung quanh các biến này
a) Thất nghiệp
Một biến mà tôi chắc chắn bạn quan tâm - bạn sẽ có được một công việc sau khi
tốt nghiệp?
Chúng ta sẽ tìm hiểu về thất nghiệp và thị trường lao động chi tiết hơn ở chương
10, và chúng tôi bắt đầu với một khái niệm cơ bản và một vài yếu tố đặc định đơn
giản:
● Số dân ở độ tuổi lao động bao gồm những người ở và trên tuổi 15
[2].
● Dân số được phân chia thanh người người thuộc lực lượng lao động và những
người không thuộc lực lượng lao động.
● Những người thuộc lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm và
những người không có việc làm.
Hình 1 dưới đây chỉ ra tỷ lệ thất nghiệp ở Canada gần đây.
Hình 1 Tỷ lệ Thất nghiệp ở Canada năm 1975-1979[3]
Bạn đã thấy rằng tỷ lệ này biến động rất mạnh. Nếu so sánh với thất nghiệp ở Hoa
Kỳ, thì chúng ta thấy rằng chúng có mối liên hệ gần gũi, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở
Hoa Kỳ thấp hơn rất nhiều - khoảng 4.5% năm 1999. Một trong những mục tiêu
của chúng tôi là giải thích sự biến động, và sự khác nhau giữa tỷ lệ của Canada và
Hoa Kỳ. Một trong những yếu tố thú vị về những năm 1990 là sự giảm xuống nạn
thất nghiệp ở Canada sau thời kỳ khủng hoảng 1990-91, so với Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, với tỷ lệ thất nghiệp tháng Mười hai năm 1999 là 6.9%, mức thấp nhất
trong vòng 30 năm, chúng ta cuối cùng cũng cạnh tranh được với thành công của
nước Mỹ.
b) GDP thực tế - Tăng trưởng và Những biến động
Một trong những điều chúng ta luôn quan tâm là liệu rằng các cá nhân hoặc tổ
chức có thể có được điều kiện tốt hơn trong tương lai hay không.
● Có rất nhiều cách thức khác nhau để đánh giá về điều kiện kinh tế có tốt hay
không, bao gồm trình độ giáo dục, chăm sóc y tế, môi trường sống, nhà ở, việc sử
dụng các tiện nghi như máy tính hoặc VCR. .v.v.
● Chúng ta cũng có thể tập trung vào một phương pháp thực dụng hơn, đó là tổng
sản phẩn của nền kinh tế tính trên một năm, được biết đến với là Tổng sản phẩm
Quốc nội (GDP).
● GDP là một biện pháp để xác định tổng thị giá của toàn bộ hàng hoá dịch vụ
cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia.
● GDP thực tế nhằm kiểm soát những tác động của lạm phát bằng cách sử dụng
các giá cả của một năm nào đó.
Chúng ta sẽ nói về việc GDP thực tế được tính như thế nào trong phần tiếp theo,
và một vài sai lầm trong những cách tính toán này. Bây giờ, chúng ta hãy nhìn vào
những dữ liệu có được ở Canada, trong Hình 2.
● Hình 2 chỉ ra GDP thực tế của Canada từ năm 1981, cùng với đường chiều
hướng biểu diễn mức tăng trưởng bình quân của GDP trong khoảng thời gian này.
● Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng GDP thực tế không tăng lên theo một đường
thẳng, mà nó có xu hướng biến động xung quanh đường chiều hướng.
● Chu kỳ kinh tế có tính giai đoạn nhưng vẫn biến động bất thường trong hoạt
động của nền kinh tế.
● Nếu chúng ta so sánh với Hình 1, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ rõ ràng
giữa chu kỳ kinh tế trong GDP thực tế và những biến động trong tỷ lệ thất nghiệp.
● Khi tăng trưởng GDP thực tế âm, thu nhập thực tế giảm xuống, và tỷ lệ thất
nghiệp bắt đầu tăng. Trong tình huống này, chúng có một sự suy thoái.
[4]
● Những ví dụ trong những năm gần đây bao gồm sự khủng hoảng rõ ràng năm
1982, và sự khủng hoảng ở mức độ nhẹ hơn vào năm 1990-91.
● Cuối cùng, nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng, GDP thực tế tăng lên, và thất nghiệp
bắt đầu giảm xuống, và tình hình giống như hiện tại.