TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VN
I.Quan điểm của C.Mác-Ănghen và Lê nin về thời kì quá độ
1.Quan điểm của C.Mác-Ănghen về thời kì quá độ
Trong quan điểm cách mạng của Mác, tiến hành cách mạng vô sản
là con đường dẫn tới sự thắng lợi của giai cấp công nhân đưa họ lên nắm
chính quyền và thiết lập nền chuyên chính vô sản đánh dấu sự mở đầu một
giai đoạn lịch sử mới, giai đoạn đi vào xây dựng một xã hội mới, giai
đoạn quá độ từ CNTB lên CNXH.
Năm 1875, trong tác phẩm “phên phán cương lĩnh Gô ta”, Mác đã
trình bày hệ thống những quan điểm của mình về tính chất thời kì quá độ,
về vai trò và sự tiến hóa của nhà nước chuyên chính vô sản và sự phân
chia giai đoạn trong sự phát triển của xã hội cộng sản. Mác viết: “giữa xã
hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa có một thời kì cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì đó là một thời kỳ
quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể có cái gì khác hơn là
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Ở đây Mác đã nêu rõ luận
điểm về sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và về hai
giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm “thời kỳ quá độ” của Mác
gắn liền với học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, Mác nói thời kỳ quá độ
giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ là thời
kỳ “cải biến cách mạng từ xã hội nọ, sang xã hội kia”. Hai xã hội đó có
hai hình thái kinh tế-xã hội khác nhau nhưng nối tiếp nhau, song về tính
chất lại hoàn toàn đối lập nhau, giữa chúng phải có một thời kỳ quá độ
“cải biến từ xã hội nọ, sang xã hội kia”
Theo Mác chủ nghĩa cộng sản không thể tạo dựng trong một lúc mà
chỉ có thể là kết quả của những cải tạo cách mạng xã hội sâu sắc, trong
một thời gian khá dài. Bản thân xã hội cộng sản sẽ phát triển qua hai giai
đoạn: giai đoạn thấp là CNXH, và giai đoạn cao gọi là chủ nghĩa cộng
sản. Mác đã phân biệt sự khác nhau giữa những cải tạo của thời kỳ quá độ
từ xã hội tư bản lên chủ nghĩa xã hội với những cải tạo của thời kì sau.
Tóm lại, từ những diễn giải trên ta có thể rút ra những kết luận sau:
- sự cần thiết phải có thời kỳ quá độ để chuyển từ xã hội cũ-xã hội
tư bản sang xã hội mới-xã hội chủ nghĩa, bởi vì các quan hệ xã hội chủ
nghĩa không thể hình thành được trong lòng xã hội tư bản.
- Nhà nước trong thời kỳ quá độ không phải cái gì khác hơn là sự
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản trong suốt thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNCS.
- Thời kỳ quá độ vừa mang tính chất cách mạng của một sự chuyển
biến sâu sắc vừa mang tính chất quá độ. Mác đã nhấn mạnh đến sự chuyển
biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới trong thời kỳ quá độ. Vì vậy,
mọi hình thức đấu tranh giai cấp, mọi biện pháp, thủ đoạn hoạt động của
1
TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
giai cấp vô sản trong thời kỳ này nhằm tạo dựng được sự chuyển biến về
chất của xã hội. Đồng thời chính Mác đã nhấn mạnh đến tính chất quá độ
của thời kỳ này, trong đó cái gọi của xã hội cộng sản chưa phát triển trên
cơ sở riêng của mình. Đây là sự chuyển từ xã hội cũ dựa trên chế độ công
hữu, nó không thể diễn ra nhanh chóng, mà phải rất lâu. Nhưng cụ thể là
bao lâu? Thì Mác chưa nêu ra được.
Như vậy, Mác đã nêu lên một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận
và thực tiễn rất lớn, muốn tiến lên chủ nghĩa cộng sản cần phải phân ra
nhiều giai đoạn, tùy thuộc trình độ phát triển của trình độ sản xuất chứ
không thể phát triển chủ nghĩa cộng sản dưới dạng hoàn chỉnh lý tưởng là
xóa ngay lập tức mọi tư hữu, giai cấp và bóc lột.
2.Quan điểm của Lê nin về thời kỳ quá độ
Những tư tưởng của Mác-Ănghen về thời kỳ quá độ đã được Lê nin
tiếp tục phát triển sáng tạo trong thời kỳ mới. Lê nin là người đầu tiên kế
tục sự nghiệp của Mác và Ănghen trong điều kiện lịch sử mới, khi cuộc
đấu tranh nhằm lật đổ CNTB và xây dựng CNXH đã trở thành sự nghiệp
thực tiễn, Lê nin đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm quan điểm Macxit
về thời kỳ quá độ. Lê nin đã bổ sung luận điểm của Mác-Ănghen về thời
kỳ quá độ thể hiện ở hai nội dung sau:
- Lê nin cho rằng cách mạng nổ ra và thắng lợi ở nước Nga (1917),
sau đó nước Nga đã đánh thắng cuộc bao vây của 14 nước đế quốc và các
thế lực phản động trong nước (1919-1922). Sau đó Lê nin đã đưa nước
Nga vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Ông viết nhiều tác phẩm về thời kỳ
quá độ ở nước Nga, trong đó ông viết “thời kỳ quá độ ở nước Nga là thời
kỳ quá độ trực tiếp, và phải trải qua hai giai đoạn và rất lâu dài (thời kỳ
quá độ của quá độ). Lê nin nói “bác những cây cầu nhỏ đi lên CNXH”.
- Lê nin cho rằng các nước kém phát triển nông nghiệp, lạc hậu, tiểu
nông cũng có thể tiến lên CNXH không qua giai đoạn TBCN với điều
kiện là những nước đó phải do Đảng cộng sản lãnh đạo và có một nước
XHCN tiên tiến giúp đỡ. Thời kỳ quá độ đó gọi là thời kỳ quá độ gián tiếp
và rất lâu dài. Lê nin gọi đó là thời kỳ quá độ đặc biệt của đặc biệt.
Hiện nay, CNXH đang gặp khó khăn lớn, nhưng đó chỉ là tạm thời
của một thoái trào do những nguyên nhân đã rõ ràng về cơ bản. Kẻ thù tấn
công về nhiều phía, tìm cách phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở các
nước, xuyên tạc và phủ nhận những nguyên tắc cơ bản của CN Mác-Lê
nin. Song, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định ngày nay vấn là thời kỳ
quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười
Nga vĩ đại. “CNXH hiện nay đang đứng trước những khó khăn, thử thách,
lich sử thế giới đang trải qua những bước quanh co song loài người nhất
định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Như vậy, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam cũng
là sự phù hợp với tính quy luật về lịch sử của thời đại, sự phát triển của
thế giới ngày nay ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn, điều đó đòi
2
TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
hỏi mỗi quốc gia dân tộc nếu không muốn phải tụt hậu thì phải chủ động,
tích cực thực hiện những bước bỏ qua bằng phương thức rút gọn lịch sử.
Với sự tác động to lớn do những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ hiện đại làm cho quá trình phát triển ngày càng rút ngắn về mặt
thời gian.
3. Quan niệm của Đảng ta về sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nhận thức là một quá trình. Thông qua hoạt động thực tiễn, những
yêu cầu và hoạt động thực tiễn nảy sinh và cùng với nó, những phương
thức để giải quyết nhu cầu cũng xuất hiện. Điều đó đòi hỏi người cách
mạng phải nhận thức và triệt để lợi dụng.
Cách mạng nước ta không nằm ngoài quy luật ấy, với chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc nước ta
hoàn toàn giải phóng. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời
hai cuộc cách mạng cùng một lúc, đó là cách mạng XHCN ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, trên thực tế đây là nét
độc đáo của cách mạng chưa từng có từ trước tới nay, nhưng đồng thời
cũng nói lên sự phức tạp của cách mạng Việt Nam. Chưa từng có tiền lệ
trong lịch sử mà chúng ta vẫn làm không có nghĩa là chúng ta sai, chúng
ta mạo hiểm. Thực tiến lịch sử đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng đắn
trong hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế lúc bấy giờ. Sau năm 1975
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được
chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong nhận thức và chỉ đạo ví như:
chúng ta đề ra chủ trương tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội trong khi đất nước còn thiếu những tiền đề cần thiết, thực
hiện tập thể hóa nông nghiệp một cách gượng ép, không tự nguyện đối với
nông dân,…kết quả là đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội
nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó yêu cầu đặt ra là phải có nhận thức
đúng đắn về thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ. Vì thế đại hội IX của Đảng đã
nhận định về thời kì quá độ ở Việt Nam như sau:
• Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
• Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
• Bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiếp thu, kế thừa
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt
là về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thực ra, nhân loại đã sáng tại ra cả một nền văn hóa, văn minh nhân
loại, nhưng qua mỗi thời kỳ, mỗi quá trình, giai cấp đứng ở vị trí trung
tâm của sự phát triển lại đặt dấu ấn của mình, đã “trạm khắc” vào những
thành tựu chung ấy. Giai cấp tư sản cũng không nằm ngoài quy luật chung
đó. Xét về một phương diện nào đó, giai cấp tư sản cũng có công nhất
3
TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
định trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Song, tất cả những thành tựu có
trong chủ nghĩa tư bản, đương nhiên không phải riêng của giai cấp tư sản
mà là của cả nhân loại, trong đó có giai cấp tư sản. Bởi vậy, đã là di sản
văn hóa của nhân loại, chúng ta tuyệt đối không được quay lưng lại, thậm
chí những gì cho dù là của riêng văn minh tư sản, thì cũng không được
phép quay lưng lại mà phải biết tiếp thu, kế thừa. Không bao giờ chúng ta
được quên lời dặn của C.Mác và Ănghen: “đừng vì căm ghét chủ nghĩa tư
bản mà khi hắt chậu nước dơ, lại hắt luôn cả đứa trẻ vừa được tắm gội
sạch sẽ”. Những kinh nghiệm quản lý vốn, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là khoa
học-công nghệ mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản nhất thiết
phải được tiếp thu và kế thừa để tăng thêm sức mạnh nội lực cho đổi mới
và phát triển.
B.CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỂ VIỆT NAM LỰA CHỌN CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN
1. Xét trên phương diện lịch sử
Sự phát triển tuần tự theo từng nấc thang một là tính trên phạm vi
toàn thế giới, nhưng đối với từng quốc gia không nhất thiết phải như vậy.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội cũng đã có những quốc gia
quá độ bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế xã hội mà không đi tuần
tự, ví như nước Mỹ sau cuộc nội chiến Nam-Bắc (1861-1865), nước Mỹ
đã bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ phong kiến mà tiến thẳng lên chủ
nghĩa tư bản. Ở Việt Nam không tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ với tư
cách là một chế độ đặc trưng, mà Việt Nam chỉ tồn tại chế độ nô tỳ. Như
vậy, sự phát triển bỏ qua một giai đoạn đã có tiền lệ trong lịch sử.
Thế giới sau cách mạng tháng Mười cũng đã có nhiều nước đi theo
chế độ TBCN, nhưng những nước thành công không phải là nhiều ở
những nước đó vẫn nghèo nàn và lạc hậu, bất bình đẳng. Điều đó chứng
minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là một chế độ có thể giải phóng
triệt để con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công mang lại cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2.Xét trên góc độ thời đại
Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười (1917), cuộc cách mạng
do công nông liên minh thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêcvích,
cuộc cách mạng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, lần đầu tiên trong lịch
sử trong một đất nước rộng lớn chiếm 1/6 diện tích thế giới quần chúng
công nông đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây dựng một chế độ
mới-chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ đó con người được giải
phóng hoàn toàn khỏi mọi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc thực sự chứ không phải là cái khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bắc ái”
mà bọn tư sản rêu rao. Như vậy, là với thắng lợi của cách mạng tháng
Mười thì nhân loại đã có thêm một con đường mới để lựa chọn đó là con
4
TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ
ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ tư bản chủ nghĩa không còn là
con đường lựa chọn duy nhất của các nước sau khi giành được độc lập dân
tộc. Và chế độ nào ưu việt hơn chế độ nào thì thực tế lịch sử đã chứng
minh điều đó.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai thì một loạt các nước giành được
độc lập dân tộc đã đi lên chủ nghĩa xã hội hay định hướng phát triển theo
chế độ XHCN. Đây là một sự khích lệ rất lớn các nước đang đấu tranh để
giành độc lập dân tộc.
Do quá trình quốc tế hóa nền kinh tế, do sự phát triển của nền khoa
học-kỹ thuật, hợp tác quốc tế,…tạo nên sự hợp tác giữa các quốc gia, sự
hợp tác tùy thuộc vào nhau và tạo lên sự hợp tác giúp đỡ giữa các nước đi
trước với các nước đi sau.
3. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp với điều kiện lịch
sử của đất nước ta, là sự lựa chọn tất yếu của chính lịch sử về con
đường giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của những phong trào
yêu nước Việt Nam.
Ngay sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên lãnh thổ Việt
Nam, nhân dân ta đã đứng lên chống Pháp. Những cuộc đấu tranh khắp 3
miền Bắc-Trung-Nam, những ông vua đã đứng lên chống Pháp, rồi các
phong trào theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng cách mạng
dân chủ tư sản phương Tây và cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc) nhưng
cuối cùng đều thất bại.
Cụ Phan Bội Châu về cuối đời đã nhận thức được con đường cách
mạng Việt Nam, Cụ viết: “May thay, đang giữa lúc khói bụi, mây mù,
thình lình có một trận gió xuân thổi tới. Chính giữa lúc trời khuya đất
ngủ, thình lình có một tia thái dương mọc ra. Trận gió xuân ấy, tia thái
dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy. Chủ nghĩa xã hội là xe tăng của nhà
triết học để xông vào thành lũy của chủ nghĩa đế quốc, mà cũng là toán
quân vô địch của nhà nhân từ để phá tan đồ đảng của chủ nghĩa tư bản”.
Trong hoản cảnh đất nước bị quân xâm lược dầy xéo, nước mất nhà
tan, nhân dân khổ cực lầm than. Bác Hồ của chúng ta đã ra đi tìm đường
cứu nước, Người đã đi qua nhiều nước đế quốc, thuộc địa cũng như nửa
thuộc địa. Quá trình trình khảo sát cách mạng đầy gian khổ đó người đã
rút ra nhận định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”, bởi vì “chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người có cuộc
sống tự do, bình đẳng, bắc ái thực sự”.
Nhân dân Việt Nam đã từng sống dưới chế độ phong kiến, chế độ
thực dân Pháp đã hiểu được bản chất của chế độ phong kiến, của chế độ tư
bản chủ nghĩa, do vậy, đã chấp nhận hy sinh, mất mát để giành cho được
độc lập dân tộc và tiếp đó tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống
Pháp rồi chống Mỹ để bảo bảo vệ chính quyền nhân dân. Ngày nay, chúng
ta phải giữ cho được chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao
5