Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.72 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG CAO CƯỜNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG CAO CƯỜNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
: 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGHIÊM XUÂN MINH

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực, các thơng tin trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và không trùng lắp với
các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả

Dương Cao Cường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ................................................................................ 8
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác .................................................................. 20
1.3. Các cơ quan có thẩm quyền và nội dung áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH CĨ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI
QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................... 38
2.1. Tình hình có liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng............. 38
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng............................................................................................................. 44
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về áp dụng pháp luật trong xét xử tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ............ 50
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ....................... 53


3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................... 53
3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng ........................................ 66
KẾT LUẬN ................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên
địa bàn quận Sơn Trà giai đoạn từ năm 2015 – 2019 .................................... 41
Bảng 2.2. Thực trạng áp dụng các chế tài đối với các bị cáo phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ năm 2015 đến
năm 2019 trên địa bàn quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng........................... 42



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản
Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều
20 thì: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm [1]”
Bộ luật hình sự với vai trị là cơng cụ hữu hiệu để để đấu tranh phịng
ngừa tội phạm, bảo vệ tính mạng, thân thể của mọi cơng dân. Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đã quy định các tại
Chương XIV BLHS năm 2015 bao gồm 07 tội danh được quy định tại các điều
từ 134 đến Điều 140 Bộ luật hình sự.
Trong thời đại kinh tế thị trường, tình hình tội phạm trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp do đó các cơ quan
tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và
phịng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì những
năm gần đây nhóm tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe có xu hướng gia tăng
trong đó tội cố ý gây thương tích đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe con người,
gây bất ổn cho xã hội, là tội phạm thường xuyên diễn ra và là mối quan tâm
nhức nhối cùa cả nước nói chung và trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng nói riêng.
Trong những năm qua, các Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi tích cực phát hiện,
1



điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án cố ý gây thương tích kịp thời, đảm
bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án gặp
khơng ít những vướng mắc, lúng túng và có khơng ít trường hợp áp dụng còn
chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Chính những
lý do này dẫn đến việc định sai tội danh và quyết định hình phạt chưa cơng
bằng và khách quan trong một số vụ án. Nhằm hạn chế tình trạng này và nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng quận Sơn Trà trong việc giải quyết các vụ án nói chung cũng như
các vụ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các cơ quan tố tụng quận Sơn
Trà đang cố gắng thực hiện trong tình hình hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác đã được một số nhà khoa học và cán bộ
làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều cơng trình khoa học. Việc
nghiên cứu đề tài liên quan đến tội phạm này đã có nhiều đề tài khoa học, luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, một số giáo trình giảng dạy và được đăng tải thường
xuyên và liên tục trên các tạp chí chuyên ngành, báo, đài, các cổng thông tin
điện tử. Tác giả đã tiếp cận một số đề tài về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác trong những năm gần đây như:
Về giáo trình, sách chun khảo, tham khảo có: Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Trường Đại học Luật TP. HCM năm
2015; của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015; của Đại học Luật Hà


2


Nội năm 2017…;
Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Dương Mai Phương, Học
viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị Hòa, Học viện Khoa
học xã hội, năm 2017; ….
Các bài viết như: “Một số quy định của pháp luật liên quan đến việc xác
định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo Điều 104 Bộ luật hình sự” Bùi Văn Thịnh, Vũ Bá Xiêm, Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 18 năm 2014, trang 29-31; “Một số khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng điều 104 Bộ luật hình sự” Trần Minh Hường, Tạp chí Kiểm sát,
số 10/2011, trang 24-29; Phân biệt tội "Giết người" với tội "Cố ý gây thương
tích hoặc gây tốn hại cho sức khoẻ của người khác" trong trường hợp dẫn đến
chết người” Nguyễn Nơng, Tạp chí Kiềm sát, số 21/2005, trang 25-27 “Kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
trong BLHS năm 2015 và những giải pháp bảo đảm áp dụng” của tác giả
Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí Tịa án nhân dân số 24 năm 2016…
Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác khơng phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua
tìm hiểu cho thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này hoặc mang tính tổng
quát, hoặc mang tính riêng biệt ở từng địa phương chưa có một cơng trình nào
đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học trên
địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, có thể xác định đề tài mà
luận văn lựa chọn không trùng lặp với các cơng trình khoa học đã được cơng
bố có liên quan.


3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như kiến
nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách phù hợp hơn nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, các khái niệm, dấu hiệu pháp
lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan.
+ Trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019, từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng
mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất cập
này;
+ Đề xuất hệ thống giải pháp khoa học để góp phần hồn quy định của
pháp luật, nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng
và các cơ quan tiến hành tố tụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây

4


thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong
Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 và thực tiễn hoạt động áp dụng
pháp luật của Cơ quan THTT quận Sơn Trà với tội này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội này đối với đối tượng phạm tội của cơ
quan tố tụng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
+ Phạm vi về chủ thể: Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng trong áp dụng pháp luật về tội danh này với người phạm tội.
+ Về địa bàn nghiên cứu: địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
+ Về thời gian: giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn trên cơ sở phương pháp luận của phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về đấu
tranh phòng chống tội phạm để làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của
luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, bình luận,
so sánh thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu… trong quá trình nghiên cứu,
các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau
trong quá trình nghiên cứu để tạo ra kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu các vụ án
đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án đã xét xử của Tòa án nhân

dân và các báo cáo sơ kết, tổng kết liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà. Đồng thời kết hợp,

5


đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài viết, các cơng trình nghiên cứu khoa
học đã được cơng bố liên quan tới cơng tác phịng ngừa tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài khơng những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại quận Sơn Trà mà cịn góp phần làm phong phú thêm
lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là một cơng trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn
về tội cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn quận Sơn Trà. Bên cạnh đó, nội
dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, nâng cao
hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
khi giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục thì nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Tình hình có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật hình
sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình
sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

6


CHƯƠNG 1
7


MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, sức khỏe được hiểu
là tình trạng cơ thể bình thường, khơng có bệnh tật hoặc khơng có thương tật
ảnh hưởng đến thể chất bình thường của con người. Quan điểm khác lại cho
rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống
trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự
hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [11, tr.206,
207].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
“Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà
khơng chỉ có nghĩa là khơng có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích
ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng

lao động và lao động có hiệu quả” [10, tr.835].
Xâm phạm sức khỏe con người là tác động bên ngoài làm cho người bị
xâm hại mất đi một phần hay tồn bộ sức lực có sẵn của chính người đó gây
ảnh hưởng đến q trình sinh hoạt làm việc bình thường của họ. Hành vi này
xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức
khoẻ của con người được pháp luật ghi nhận. Hành vi dùng sức mạnh vật chất
bằng nhiều phương pháp tác động lên thân thể của con người làm cho họ có

8


những thương tích. Thương tích này có thể là vết thương thẩm mỹ, nghiêm
trọng hơn có thể mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay,
cánh tay, bàn chân...để lại cơ thể không lành lặn. Hành vi gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể
của con người làm cho tình trạng sức khỏe của nạn nhân yếu đi khơng cịn duy
trì bình thường như trước. Tổn hại cho sức khỏe của người khác mặc dù không
để lại vết thương hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể
của nạn nhân nhưng làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó.
Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác” là hành vi bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau tác động
lên cơ thể của người khác làm cho họ mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực của
họ.
Tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe dựa trên cơ sở các phân tích nêu trên các quy định tại Điều 134 BLHS
năm 2015 như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền được pháp
luật bảo hộ về sức khỏe của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý”.
1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp chính là sức khỏe con
người. Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến nên cũng như những
tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có
quy định xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Bất kỳ ai
xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người đều bị trừng trị thích

9


đáng nên điều luật cũng quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là chung thân,
thể hiện thái độ của nhà nước với tội phạm này một cách kiên quyết.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình
sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể
nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình
sự bao gồm các yếu tố sau: hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác và hậu quả xảy ra trên thực tế. Trong đó, hành vi
khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất, các dấu hiệu khác như: hậu
quả, mối quan hệ nhân quả, cơng cụ, phương tiện phạm tội… chỉ có ý nghĩa
khi có hành vi khách quan.
Tội cố ý gây thương tích được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực có hoặc
khơng sử dụng vũ khí hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể ngưòi khác gây
tổn thương cho họ. Hành vi này có thể được thực hiện với cơng cụ, phương
tiện, vũ khí để phạm tội như đâm, chém, bắn…hoặc khơng có cơng cụ, phương
tiện phạm tội như dùng tay chân đấm, đá hoặc có thể thơng qua các phương

tiện phạm tội khác như dùng xe lao vào người, thả súc vật cắn. hành vi khách
quan của tội này thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích cho người khác là để lại vết thương
và được xác nhận bằng kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân.
Đây là thiệt hại gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền được bảo vệ về sức
khỏe của con người được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, là những
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc xác định có hậu
quả xảy ra trên thực tế có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội, đảm bảo xét
xử đúng người đúng tội và có vai trị quan trọng trong việc quyết định hình

10


phạt.
Nếu tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%, khơng gây cố tật
thì khơng phải chịu TNHS. Tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 11% trở
lên thị bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, có một số trường hợp tỷ lệ thương tật
hoặc tổn hại sức khỏe không đến 11% nhưng lại thuộc một trong các trường
hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì hành vi đó vẫn bị truy
cứu TNHS. Như vậy, hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp sau
thì cũng phạm tội:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người
Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia thành 4 tình tiết tương
ứng với việc người phạm tội dùng “vũ khí”, “vật liệu nổ” (đây là hai tình tiết
mới bổ sung), “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại
cho nhiều người”. Về nội hàm của quy định thì “vũ khí” thuộc một trong các
dạng của “hung khí nguy hiểm”, do vậy, so với quy định cũ, điểm a khoản 1
Điều 134 Bộ luật hình sự mới chỉ có bổ sung thêm việc dùng “vật liệu nổ” là

tình tiết định khung cơ bản. Tình tiết này, trước khi được sửa đổi năm 2017 thì
điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định là “Dùng hung khí
nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên”.
Một vấn đề nữa chúng ta cần lưu ý về sự thay đổi ở nội dung của tình tiết
“dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của quy định cũ với tình tiết
“dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người” của quy định mới.
Việc bổ sung từ “có khả năng” vào tình tiết này giải quyết dứt điểm vướng mắc
trong thực tiễn trước đây là người phạm tội có “dùng thủ đoạn” nhưng thực tế
sau khi tội phạm hồn thành thì “chưa xảy ra hậu quả gây nguy hại cho nhiều
người” – điều này dẫn đến thiếu thống nhất và tạo sự lúng túng trong áp dụng

11


pháp luật, nhất là trong hoạt động tố tụng; quy định mới này xác định rõ là
không cần chờ đến hậu quả “gây nguy hại cho nhiều người” xảy ra, mà chỉ cần
chứng minh được “thủ đoạn” đó đã được thực hiện và “có khả năng” gây nguy
hại cho nhiều người.
b) Dùng a - xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm
Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư
04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ
Cơng thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mịn mạnh, oxy
hóa mạnh.
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc khơng có khả năng tự vệ
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người khơng có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự mới đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác để đáp ứng yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm này trong tình hình hiện nay, được áp dụng đối với hành vi cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện từ
ngày 01/01/2018. Tình tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính
chất nguy hiểm tương đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm
của điều luật, đó là: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ
mà biết là có thai, phạm tội với người già yếu và phạm tội với người khơng có
khả năng tự vệ.
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy
định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng
thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ
ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan
điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó

12


có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn
cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này.
Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều
417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16
tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì
người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà khơng cần người phạm
tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người dưới 16 tuổi.
Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối
tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ
quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị
hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người đó mới áp dụng tình tiết
tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo và mọi người đều
nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ các nguồn thông tin

khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai.
Phạm tội đối với người già yếu. Đây khơng phải là tình tiết thuộc ý thức
chủ quan của người phạm tội nên khơng địi hỏi người phạm tội phải biết người
mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là
người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết
định khung tăng nặng này. Người già được nhắc đến trong Bộ luật hình sự 1999
được hiểu là người từ 70 tuổi trở lên (theo hướng dẫn tại Nghị quyết
01/2006/NQ-HĐTP) đến khi Bộ luật hình sự 2015 được ban hành thì đã khơng
cịn thuật ngữ người già mà chỉ còn người đủ 70 tuổi trở lên. Tuy nhiên, có thể
suy ra, người già được xác định là người đủ 70 tuổi trở lên. Vì vậy, khi xem xét
quyết định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ
vào mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người

13


bị hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay khơng. Học
viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70
tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc khơng trong tình trạng ốm
đau nhưng là người yếu”[40].
Phạm tội đối với người khơng có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết
thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có
phải là người khơng có khả năng tự vệ hay khơng. Quy định này cũng chưa có
văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.”
d) Đối với ơng, bà, cha, mẹ, thầy cơ giáo mình, người ni dưỡng, chữa
bệnh cho mình
Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc ni dưỡng, dạy dỗ đối với
người thực hiện hành vi phạm tội, với việc quy định này nhằm đề cao giá trị
đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội.
đ) Có tổ chức

Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân cơng, sắp
đặt vai trị của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc
một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 17 BLHS thì người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức.
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Đây là quy định mới được bổ sung tại điểm e khoản 1 Điều 134. Việc bổ
sung quy định này nhằm hướng tới việc đảm bảo nhân quyền, đảm bảo quyền
và lợi cho công dân tốt hơn, đảm bảo sự nghiêm chỉnh trong thực hiện nhiệm
vụ của các đối tượng có nghề nghiệp đặc thù như bảo vệ, vệ sỹ …
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án
phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
hoặc đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở

14


giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc
Người phạm tội lúc này đang bị tước một số quyền tự do như đang chấp
hành án hình sự hoặc hành chính cần có thái độ tơn trọng pháp luật một cách
cao nhất thì lại tiếp tục thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác. BLHS năm 2015 đã thêm và sửa đổi như bổ sung các
trường hợp “đang chấp hành án phạt tù”. Đồng thời sửa trường hợp đang bị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thành đang chấp hành biện pháp tư pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho phù hợp với thực tế. So với Bộ luật hình
sự năm 2015, tình tiết này cũng được sửa lại cho đầy đủ và rõ nghĩa.
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

hoặc gây thương tích tổn hại sức khỏe cho sức khỏe của người khác do được
thuê
Tình tiết này cơ bản giống với Điều 104 BLHS năm 1999 tuy nhiên có
sự bổ sung thêm gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo nội dung Điều
luật. Đây là trường hợp phạm tội được xem là nghiêm trọng hơn so với bình
thường nên dù thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe gây ra dưới 11% thì người
phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 134.
i) Có tính tính chất cơn đồ
Cơng văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết cơng
tác ngành Tịa án năm 1995 giải thích “có tính chất cơn đồ” là hành động của
những tên:
- Coi thường pháp luật;
- Luôn phá rối trật tự trị an;
- Sẵn sàng và thích dùng vũ lực để uy hiếp người khác;

15


- Vơ cớ hoặc chỉ vì một dun cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết
người, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự người khác.
Hiện nay, Án lệ số 17/2018/AL có xác định yếu tố được đánh giá là “có
tính chất cơn đồ” là việc: “chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với nhau
mà tội phạm đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên
cơ thể của nạn nhân.”
k) Đối với người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
Quy định tại BLHS năm 1999 xác định đây là tình tiết tăng nặng do mục
đích của người phạm tội là “để cản trở người thi hành cơng vụ”. Trên thực tế
xét xử thì nhiều trường hợp chứng minh mục đích “để cản trở” này khơng thực
sự rõ ràng, phần nhiều phụ thuộc vào lời khai của người phạm tội. Như vậy,
cần chú ý 02 điểm mới phát sinh là: Điểm mới thứ nhất là không cần chứng

minh người phạm tội gây thương tích cho người bị hại nhằm mục đích cản trở
người thi hành cơng vụ hay không, chỉ cần người bị hại là người đang thi hành
công vụ là đủ điều kiện để áp dụng và cũng không cần chứng minh hoạt động
công vụ của người bị hại đang thi hành có liên quan đến người phạm tội hay
không; điểm mới thứ hai là xác định rõ thời điểm người bị hại bị gây thương
tích, gây tổn hại sức khỏe là “đang” thi hành công vụ.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Người phạm tội thực hiện hành vi
với mong muốn hay để mặc cho kết quả xảy ra, mong muốn cho người khác bị
thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe do đó lỗi được xác định phải là lỗi cố ý.
Dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác.
- Chủ thể của tội phạm.

16


Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự
đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Như vậy người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là người đủ từ 14 tuổi trở lên, khi thực hiện hành vi phạm
tội khơng bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức, và có thể điều khiển
hành vi của mình. Bởi vì, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12
Bộ luật Hình sự thì nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội
quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách

nhiệm hình sự về hành vi của mình.
1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với các tội phạm khác có liên quan
1.1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp làm chết người với tội giết người đều có những dấu hiệu giống
nhau như:
- Hậu quả chết người xảy ra, thực hiện do lỗi cố ý.
- Đều có hành vi khách quan như đánh, đâm, chém, bắn…
Trong Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS), tội giết người và tội cố ý gây
thương tích gây hậu quả chết người được quy định tại Điều 123 và Điều 134.
Hai tội danh này có những điểm khác nhau như sau:
- Mục đích của hành vi phạm tội:
+ Tội giết người: Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước
đoạt tính mạng của nạn nhân.

17


+ Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Người phạm tội thực hiện
hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân
chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.
- Xác định mức độ, cường độ tấn công:
+ Tội cố ý gây thương tích làm chết người theo Khoản 4: cường độ tấn
công, mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập.
+ Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn
cơng mạnh có thể gây ra hậu chết người cao hơn.
- Vị trí tác động trên cơ thể:
+ Tội giết người: Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng

đầu, ngực, bụng…
+ Tối cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Thường là những vị trí
khơng gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân, v.v...
- Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác.
+ Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác
định vũ khí, hung khí tấn cơng như súng, dao, gậy…cũng là yếu tố quan trọng
nhằm phân biệt hai tội này.
- Yếu tố lỗi:
+ Tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý bao gồm
cả cố ý trực tiếp lẫn gián tiếp.
+ Tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người người thực hiện hành
vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ cố ý bởi hành vi của
mình nhưng vô ý với hậu quả xảy ra.
- Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả
năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao
cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội cố ý gây thương tích,
nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội giết người.

18


1.1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Bộ luật Hình sự khơng đưa ra khái niệm về phạm tội trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, dựa trên các quy định về các tội phạm cụ
thể, có thể hiểu phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là: trường
hợp người bị kích động mạnh về tâm lý do hành vi trái pháp luật của người
khác đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình dẫn đến làm mất khả
năng hạn chế và điều khiển hành vi mà thực hiện hành vi phạm tội đối với người

đang có hành vi trái pháp luật nêu trên.
Hai tội phạm này có nhiều điểm giống nhau như sau:
+ Khách thể đều xâm phạm đến là những quan hệ xã hội được pháp luật
hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến mà cụ thể là quyền được
bảo hộ về sức khỏe của con người.
+ Hai tội đều đều đòi hỏi tỷ lệ thương tật nhất định mà nạn nhân gánh
chịu vì đều là tội phạm có cấu thành vật chất.
+ Đều thực hiện với lỗi cố ý.
+ Chủ thể của tội phạm đều là chủ thể thường.
Tuy nhiên, giữa hai tội này có những điểm khác nhau cụ thể:
+ Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm trong khi tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác thì khơng, nếu có thì chỉ áp dụng xam là
tình tiết giảm nhẹ.
+ Nạn nhân phải là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội cịn nạn
nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là bất kỳ ai.

19


×