Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ TỘI CỐ Ý HUỶ HOẠI TÀI SẢN TẠI TAND TỈNH THÁI BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.11 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÁI BÌNH
KHOA LUẬT

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Đề tài:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ TỘI CỐ Ý HUỶ
HOẠI TÀI SẢN TẠI TAND TỈNH THÁI BÌNH

Giảng viên hướng dẫn:Nguyễn Đức Long
Sinh viên thực hiện: Trần Văn Huy
Mã sinh viên: 1700684
Lớp: DHLA6A1

Thái Bình, năm 2021

1


MỤC LỤC

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến tồn thể q thầy, cơ
Khoa Luật,
trường Đại học Thái Bình đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để em
hồn thành tốt khóa học, đặc biệt là tạo cơ hội để em tiếp cận với
môi trường thực tế thông qua đợt thực tập đầy ý nghĩa và thiết thực
này.


Em xin chân thành cảm ơn Chánh Án, các Phó Chánh Án cùng tồn
thể cán bộ- nhân viên Tịa Án Nhân Dân tỉnh Thái Bình đã tạo điều
kiện thuận lợi giúp đỡ
em trong suốt quá trình thực tập giúp em tiếp thu được nhiều kiến
thức bổ ích từ thực tế và góp phần to lớn trong việc từng bước hồn
thiện kỹ năng, kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp khi
bước vào nghề.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn: Ths Gv:
Nguyễn Đức Long đã hết lịng giúp đỡ, hướng dẫn em hồn thành
báo cáo thực tập đúng thời gian quy định. Trong quá trình thực hiện
báo cáo, em còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ và động viên
của quý thầy cô, bạn bè và gia đình. Em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu
sắc.
Với thời gian thực tập ngắn, trình độ và nhận thức cịn nhiều hạn chế
do đó sẽ cịn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự nhận xét góp
ý, phê bình, của q thầy cơ, để em có điều kiện học hỏi, tiếp thu
kiến thức, tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp và
phấn đấu hơn nữa.


Cuối cùng em xin kính chúc Ban giám hiệu và quý thầy cô lời chúc
sức khoẻ, thành đạt, hạnh phúc trong cuộc sống và công tác. Em xin
trân trọng cảm ơn.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BTP

CYHH
BLHS

PLHS
TAND
UBND
LLVTND
TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-

Cố Ý Huỷ Hoại
Bộ luật Hình sự
Pháp luật hình sự
Tịa án nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Lực lượng vũ trang nhân dân
Thơng tư liên tịch Tịa án nhân dân
tối cao- Viện kiểm sát nhân dân tối
cao- Ban công an- Ban tư pháp


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Nhìn lại sau hơn ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta
do Đảng lãnh đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện
trên tất các các mặt của đời sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân,
tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta
đã đạt được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và khơng ít vấn
đề bức xúc nảy sinh chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất
về đạo đức, lối sống thực dụng và hưởng thụ của một bộ phận con
người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến

tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Đặc biệt là tình
hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt
nghiêm trọng.
Thực tiễn cơng tác đấu tranh, phịng chống và xử lý tội phạm cho
thấy, nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng,
chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng
cao. Số vụ cố ý huỷ hoại
tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao
và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Song bên cạnh
đó, cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm cố ý huỷ hoại
tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình vẫn cịn nhiều hạn chế. Nguyên
nhân chính là do ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo
vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn chưa cao;
các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa đánh giá hết tính chất, mức độ


nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc áp dụng một số quy định của
pháp luật còn chưa thống nhất; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế
mặc dù có điều kiện về kinh tế nhưng cơng tác bảo vệ tài sản cịn
nhiều hạn chế, mất cảnh giác, khơng quan tâm trang bị các phương
tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa và chống tội
phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù
để tái hịa nhập cộng đồng cịn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa
được tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo
điều kiện về cơng ăn việc làm, do đó số đối tượng này khơng có việc
làm cịn nhiều nên tỷ lệ tái phạm cịn cao. Chính vì vậy, em lựa chọn
đề tài “Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ hoại
tài sản tại TAND tỉnh Thái Bình” làm đề tài báo cáo tốt nghiệp với
mong muốn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội

này sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của cơng tác đấu
tranh phịng ngừa và chống tội cố ý huỷ hoại tài sản tại tỉnh Thái
Bình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp
ADPL về tội cố ý huỷ hoại tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2019, báo cáo đề xuất hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự về tội cố ý huỷ hoại tài sản và về hình
phạt, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý huỷ hoại tài sản một cách phù hợp hơn nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý huỷ hoại
tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đó là các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội cố ý huỷ hoại tài sản; các công trình nghiên cứu của các


nhà khoa học. Em lấy các quy định của pháp luật, các quan điểm
khoa học và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội cố ý huỷ hoại tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của Bộ luật hình sự
và Bộ luật tố tụng hình sự.
Về khơng gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi
tỉnh Thái Bình.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình từ năm 2016 đến 2019
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được kết quả, nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra trong quá trình

nghiên cứu, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, trong đó có kể đến là:
phương pháp lịch sử, so sánh, kể cả luật so sánh; tổng kết thực tiễn;
phân tích và phân tích quy phạm; thống kê; tổng hợp …
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục
các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, nội dung của báo cáo gồm 2
phần, cụ thể như sau
Phần 1: Giới thiệu về địa phương thực tập và cơ quan thực tập.
Phần 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ hoại
tài sản tại Tỏa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật trong
xét xử tội cố ý huỷ hoại tài sản tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.


- Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ
hoại tài sản tại
Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ hoại sản tại Tịa án nhân
dân tỉnh Thái Bình.


PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP
1. Thông tin về vị trí sinh viên tham gia thực tập
1.1 giới thiệu chung về vị trí cơng tác
Được sự đồng ý của ban lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh, được sự
phân cơng của cán bộ phịng tổ chức, được sự đồng ý của Chánh tòa
dân sự Vũ Thái Hà, em được phân công vào thực tập tại thư ký tòa

dân sự. Phòng gồm 2 thư ký là chị Nguyễn Thị Trang và Vũ Thị Huế.
Nhiệm vụ của Thư ký Toà án là thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
theo sự phân cơng của Chánh án Tồ án, giúp Chánh án thực hiện
nhiệm vụ tổ chức công tác xét xử, từ việc tiếp nhận, xử lý đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu, đơn khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận, chuyển giao, bảo
quản hồ sơ các vụ án, tống đạt giấy tờ, chuẩn bị các công tác bảo
đảm cho việc mở các phiên tồ, giúp việc cho Thẩm phán trong q
trình tiến hành tố tụng đối với vụ án, từ khi được Chánh án phân
công tiến hành tố tụng đối với vụ án đó, tiến hành các hoạt động
nghiệp vụ sau khi Toà án xét xử vụ án và các hoạt động nghiệp vụ
khác.
1.2 Nội dung công việc được giao
Tại đây, em được giao các công việc như: xin dấu các giấy tờ,
photo giấy tờ, văn bản, đánh máy văn phòng, sắp xếp hồ sơ, đánh
dấu bút lục, sắp xếp bút lục, cũng như được quan sát thực tiễn các
hoạt động của các anh chị nhân viên phòng thư ký tòa án. Ngồi ra,
em cịn được tham dự các phiên tịa xét xử, qua đó, quan sát được:

- Thực tập quan sát điều khiển khai mạc phiên tòa dân sự
- Thực tập quan sát điều khiển hỏi đương sự về các yêu cầu của họ
-

phiên tòa dân sự
Thực tập quan sát nghe lời trình bày của các đương sự


-

Thực tập quan sát điều khiển việc tranh luận tại phiên tịa


- Thực tập quan sát những cơng việc tiến hành sau phiên tòa.
PHẦN 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ TỘI CỐ Ý
HUỶ HOẠI TÀI SẢN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI
BÌNH
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG XÉT XỬ TỘI CỐ Ý HUỶ HOẠI TÀI SẢN.
1.1.

Lý luận chung về áp dụng pháp luật (Khái niệm, đặc điểm, các trường
hợp, các giai đoạn.)

1.1.1. Lý luận chung về áp dụng pháp luật
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động của các chủ thể có thẩm
quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành để đưa ra quyết
định có tính cá biệt nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục
tiêu cụ thể và cũng là một hình thức pháp luật nên mang đầy đủ
các đặc điểm của hoạt động pháp luật nói chung đồng thời có những
đặc điểm riêng
1.1.2. Đặc điểm về áp dụng pháp luật
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước: vì
pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện. Nhờ có sự
đảm bảo của Nhà nước mà pháp luật có sức mạnh bắt buộc đối với
mọi chủ thể liên quan. Quá trình áp dụng pháp luật là sử
dụng quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước giải quyết các vụ
việc trên thực tế. Thực chất là q trình đảm bảo cho quyền lực Nhà
nước có hiệu lực trên thực tế đối với chủ thể trong điện kiện cụ thể.
+ Áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp



luật: pháp luật quy định rõ thẩm quyền, điều kiện áp dụng luật trong
từng lĩnh vực để tránh sự tùy tiện, vượt rào pháp luật trên thực tế.
+ Áp dụng pháp luật thể hiện ý chí Nhà nước: q trình này có thể
mang tính đơn phương ý chí Nhà nước hoặc cũng có thể Nhà nước
thừa nhận ý chí của các chủ thể có liên quan.
+ Áp dụng pháp luật có điều kiện, quy trình, thủ tục được pháp luật
quy định chặt chẽ: tùy vào từng lĩnh vực mà trình tự, thủ tục được
xác lập cho phù hợp. Các quy trình có thể là đầy đủ hoặc rút gọn
theo quy định của pháp luật.
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt:
+ Áp dụng pháp luật là phương thức chuyển hóa những quy
định chung được nêu ra trong các quy phạm pháp luật thành những
quy định riêng hay là những quy tắc xử sự cụ thể.
Về phía chủ thể, nhờ có Áp dụng pháp luật mới xác định
được giới hạn pháp lý cần thiết cả về nội dung của quyền, nhiệm vụ
cũng như trách nhiệm pháp lý có liên quan khi tham gia quan hệ
pháp luật.
Áp dụng pháp luật làm rõ khía cạnh địi hỏi cụ thể về mặt hình
thức, thủ tục đối với việc thực hiện nội dung cơ bản đó.


Áp dụng pháp luật là hoạt động cần được chi tiết hóa chính
xác, tỉ mỉ về những yêu cầu sát thực với điều kiện mà các quy
phạm đó tồn tại, sát thực với chủ thể liên quan.



Áp dụng pháp luật là hoạt động địi hỏi tính sáng tạo cao của
các chủ thể có thẩm quyền: Áp dụng pháp luật là quá trình thực
hiện pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức. Các chủ

thể có thẩm quyền phân tích đánh giá các tình huống có thể
xảy ra => khơng được thụ động, máy móc (sáng tạo chủ yếu về
kỹ thuật, tổ chức chứ không phải về nội dung).


1.1.3. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật


Khi quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát
sinh mặc dù đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quan
hệ xã hội đó.



Khi có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ pháp lý mà các bên liên
quan không thể giải quyết được.



Khi Nhà nước cần phải áp dụng một biện pháp bắt buộc nhằm
đảm bảo sự an toàn cho cộng đồng, xã hội.



Khi Nhà nước thấy cần ngăn chặn hành vi trái pháp luật xảy ra
có thể gây nguy hiểm đối với xã hội.



Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý với chủ thể vi phạm pháp

luật.



Khi Nhà nước thấy cần khen thưởng về một thành tích nào đó
đối với chủ thể có liên quan.



Khi cần xác định một hành vi, một kết quả hoạt động hoặc
một mối quan hệ xã hội nào đó là hợp hoặc bất hợp pháp.



Khi cần thực hiện quan hệ đối ngoại với các quốc gia, dân
tộc khác trên một số lĩnh vực các bên cũng quan tâm.

1.1.4. Các giai đoạn áp dụng pháp luật
Một là, phân tích đánh giá nội dung, điều kiện hoàn cảnh sự
kiện thực tế cần áp dụng pháp luật: giai đoạn khởi đầu có tính chất
bản lề. Trước hết cần xác định đúng nội dung, đối tượng, bản
chất pháp lý của sự kiến thực tế đó. Nếu cần áp dụng pháp luật thì
làm rõ chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết sự việc đó. Tiếp theo
chuẩn bị về mặt tổ chức, nhân sự, kỹ thuật…; xác định thuận lợi khó
khăn è nhìn chung hướng đến sự thuận lợi, tiết kiệm chi phí, thời
gian, đạt hiệu quả cao nhất.


Hai là, lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc
đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật: về nguyên tắc, phải chọn

quy phạm pháp luật còn hiệu lực và sát thực với nội dung sự kiện.
Tiếp đó phân tích nội dung quy phạm đã lựa chọn. Trên thực tế, việc
lựa chọn quy phạm có thể xảy ra các khả năng như sau:


Có một quy phạm pháp luật đáp ứng đủ yêu cầu => thuận lợi.



Có 2 hay nhiều quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ
đó nhưng cách giải quyết khác nhau => trường hợp xung đột
pháp luật è lựa chọn quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao
hơn và được ban hành sau



Khơng có quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc áp
dụng pháp luật với sự kiện đó: áp dụg pháp luật tương tự.
Ba là, đưa ra quyết định Áp dụng pháp luật: giai đoạn phản ánh

kết quả thực tế quá trình áp dụng pháp luật. Về bản chất, đây là giai
đoạn chuyển hóa những quy định chung được nêu trong quy phạm
pháp luật thành quyết định cụ thể, cá biệt. Sự phù hợp của quyết
định được xem xét ở 2 khía cạnh pháp lý và thực tế.
* Văn bản áp dụng pháp luật: những văn bản do cơ quan Nhà nước
hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục,
tên gọi luật định, chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, cụ thể và được
thực hiện một lần trong đời sống pháp lý.



Do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành



Trình tự, thủ tục, hình thức, tên gọi văn bản áp dụng pháp
luật được pháp luật quy định



Chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, cụ thể



Được thực hiện một lần đối với chủ thể có liên quan

Bốn là, tổ chức thực hiện quyết định Áp dụng pháp luật trên thực
tế: giai đoạn cuối. Cần tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát việc


thực thi các quyết định Áp dụng pháp luật với các chủ thể liên quan
để đảm bảo hiệu lực của nó trên thực tế.
1.2. Lý luận chung về áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ hoại tài sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý huỷ
hoại tài sản
1.2.1.1. Khái niệm tội cố ý huỷ hoại tài sản
Hủy hoại tài sản là cố ý làm cho tài sản của người khác mất giá trị sử
dụng ở mức độ khơng cịn hoặc khó có khả năng khơi phục lại được.
1.2.1.2. Đặc điểm của tội cố ý huỷ hoại tài sản
Huỷ hoại tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền
sở hữu của người khác. Trong Luật hình sự Việt Nam, huỷ hoại tài sản

bị coi là tội phạm và được quy định chung với hành vi cố ý làm hư
hỏng tài sản. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự
năm 19885), tội phạm này được quy định trong Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của cơng dân. Trong Bộ luật hình sự năm
1985 vẫn có hai tội huỷ hoại tài sản khác nhau - tội huỷ hoại tài sản
xã hội chủ nghĩa và tội huỷ hoại tài sản của công dân.
1.2.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội cố ý huỷ hoại tài sản
1) Chủ thể phải có hành vi huỷ hoại tài sản của người khác. Hành vi
huỷ hoại tài sản có thể qua hành động (như đập phá, đốt...) hoặc
qua không hành động (như cố ý khơng tắt máy, ngắt điện khi có sự
cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn toàn...);
2) Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp (mong
muốn tài sản bị huỷ hoại) hoặc là cố ý gián tiếp (không mong muốn
nhưng chấp nhận tài sản bị huỷ hoại);
3) Đối tượng của tội huỷ hoại tài sản có thể là tất cả các loại tài sản,
trừ những tài sản do tính chất đặc biệt nên đã được quy định là đối
tượng của các tội phạm cụ thể khác. Ví dụ: Cơng trình, phương tiện


quan trọng về an ninh quốc gia được quy định là đối tượng của tội
phá huỷ cơng trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia;
4) Hành vi huỷ hoại tài sản của người khác chỉ cấu thành tội phạm
khi gây ra thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng trở lên hoặc gây hậu
quả nghiêm trọng ' khác hoặc khi chủ thể đã bị xử phạt hành chính
hoặc đã bị kết án về hành vi này, chưa được xoá án tích mà cịn vi
phạm.
Hình phạt được quy định cho tội phạm này có mức cao nhất là tù
chung thân.
1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong xét xử tội cố ý huỷ hoại

tài sản.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy
định tại Khoản 2 Điều 268 BLTTHS 2015 “Điều 268. Thẩm quyền xét
xử của Tòa án
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử
sơ thẩm những vụ án:
a) Vụ án hình sự về các tội phạm khơng thuộc thẩm quyền của Tịa
án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngồi hoặc tài
sản có liên quan đến vụ án ở nước ngồi;
c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện và Tịa án qn sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp
khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, người có chức sắc trong tơn giáo hoặc có uy tín cao trong dân
tộc ít người.”


Như vậy, Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử những vụ án hình
sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là những vụ án về những tội
phạm mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt trên 15
năm tù; những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
cấp huyện, những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
nhưng Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do
tính chất đặc biệt của vụ án
Thẩm quyền của Tòa án còn được quy định tại Điều 269, 270
BLTTHS



“Điều 269. Thẩm quyền theo lãnh thổ
1. Tịa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tịa án nơi tội phạm được thực hiện.
Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định
được nơi thực hiện tội phạm thì Tịa án có thẩm quyền xét xử là Tịa án nơi kết thúc
việc điều tra.
2. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tịa án nhân dân cấp tỉnh
nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư
trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tịa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì
Tịa án qn sự cấp qn khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự
trung ương.
Điều 270. Thẩm quyền xét xử tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngồi khơng phận hoặc ngoài lãnh hải
của Việt Nam
Tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đang hoạt động ngồi khơng phận hoặc ngoài lãnh hải của Việt Nam thuộc thẩm
quyền xét xử của Tịa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc
nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”.


Theo đó, tàu bay, tàu biển mang quốc tịch quốc gia nào thì dù có đang hoạt động
ngồi khơng phận hoặc ngồi lãnh hải của quốc gia đó vẫn được coi là một bộ phận
của lãnh thổ quốc gia mà nó mang quốc tịch. Do vậy, tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu
biển của Việt Nam đã rời khỏi không phận hoặc lãnh hải của Việt Nam vẫn là tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam. Tịa án có thẩm quyền xét xử là
Tịa án nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển đăng đó trở về đầu tiên ở trong
nước hoặc Tịa án nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký. Tùy vào tội phạm đó là tội

phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để
xác định cấp Tòa án xét xử là Tòa án cấp huyện hay cấp tỉnh.
1.3. Các văn bản quy phạm pháp luật về xét xử tội cố ý huỷ hoại tài sản
Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác
trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, tài sản là di
vật, cổ hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa hoặc tài sản trị giá dưới
2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây,
thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản
mà cịn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia
đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về
mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng;


c) Gây thiệt hại tài sản là bảo vật quốc gia;
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Để che giấu tội phạm khác;
e) Vì lý do cơng vụ của người bị hại;
g) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới

50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
10 năm đến 20 năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
- Phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.
- Phạt tù từ 2 năm đến 7 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:
+) Có tổ chức;
+) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
+) Gây hậu quả nghiêm trọng;
+) Để che giấu tội phạm khác;


+) Vì lý do cơng vụ của người bị hại;
+) Tái phạm nguy hiểm;

+) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng.
- Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:
+) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng;
+) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
- Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu thuộc một
trong các trường hợp:
+) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
+) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
2. Hình phạt bổ sung
- Phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ TỘI CỐ
Ý HUỶ HOẠI TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI
BÌNH
2.1 Tình hình tội phạm về cố ý huỷ hoại tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình
2.1.1 Đặc điểm của đối tượng
- Số bị cáo phạm tội CYHH chiếm tỷ lệ cao nhất là có độ tuổi từ 18
đến 30 tuổi. Ở độ tuổi này con người có đặc điểm tâm lý bắt đầu
trưởng thành khơng ổn định hay nóng giận nơng nổi gây ra nhiều vụ
xô xát nên khả năng đưa họ đến con đường phạm tội là rất cao
- Số bị cáo phạm tội CYHH phần lớn là nam giới do các cuộc ẩu đả
gây ra
- Số đối tượng phạm tội TCTS tập trung chủ yếu là người có trình độ
văn hóa thấp từ tiểu học đến trung học phổ thông, số bị cáo phạm
tội có trình độ văn hóa từ trung học phổ thơng trở lên nhưng nhận

biết pháp luật hạn chế thì vẫn có nguy cơ phạm tội cao nếu khơng
được giáo dục kịp thời.
Có nhiều ngun nhân để dẫn đến tình hình loại tội phạm này
ngày càng gia tăng. Mỗi vụ án, mỗi bị cáo lại có một đặc điểm riêng
về nhân thân, động cơ, mục đích phạm tội. Khơng trường hợp nào
hồn tồn giống trường hợp nào. Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát,
ta có thể nhận thấy một số nguyên nhân chung sau đây:


- Thứ nhất, sự giáo dục của gia đình và xã hội chưa tốt. Lối sống
buông thả, không quan tâm, chăm sóc con cái của nhiều gia đình đã
dẫn đến tình trạng con em họ lớn lên có những suy nghĩ lệch lạc, dễ
mắc vào các tệ nạn xã hội, coi thường pháp luật
- Thứ hai, do địa phương có tốc độ đơ thị hố mạnh, sự du nhập của
nhiều lối sống lệch lạc như nghiện hút cờ bạc, mại dâm cùng với sự
phức tạp về thành phần dân cư ... khiến cho nguy cơ dẫn đến hành
vi phạm tội là rất cao.
- Thứ ba, sự quản lý của chính quyền địa phương còn chưa thật hiệu
quả, chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những cuộc ẩu đả, xô
xát,… Đây là những hành vi thường dẫn đến ý thức phạm tội cố ý
huỷ hoại tài sản để nhằm mục đích trả thù đối phương.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý huỷ hoại tài sản tại TAND
tỉnh Thái Bình
m
5
6
7


201


78

93

Số vụ
án (%)
100

201

96

12

110.7

97.3

201

85

11

104.2

87.8

201


63

98

82.7

66.3

vụ

Số

cáo

5
2

Bị

Số bị
cáo(%)
100

8
201
58
80
76.2
9

Bảng 2.1: Tổng số vụ án xét xử tại TAND tỉnh Thái Bình

59.6

Qua bảng trên có thể thấy số vụ án về cố ý huỷ hoại tài sản tại TAND
tỉnh Thái Bình có xu hướng tăng giảm khơng đều theo từng năm.
Nếu lấy năm 2015 làm gốc để so sánh (tỷ lệ vụ án, bị cáo đều là
100%), số vụ án năm 2016, 2017 tăng so với năm 2015 lần lượt là
110,7% và 104,2%; số vụ án năm 2018, 2019 so với năm 2015 giảm


dần 92,7% và 76,2%. Số bị cáo giảm dần theo từng năm so với năm
2015: năm 2016 giảm còn 97,3%, năm 2017 còn 87,8%; năm 2018
giảm còn 66,3%; năm 2019 giảm cịn 59,6%.
Từ số liệu trên bảng ta có thể thấy tình hình phạm tội cố ý huỷ hoại
tài sản trên địa bàn có những biến đổi khá rõ nét số vụ án và số bị
cáo thay đổi rõ rệt. Tính chất của tội cố ý huỷ hoại tài sản ở một số
vụ án trên địa bàn ngày càng phức tạp, tội phạm hoạt động ngày
một tinh vi hơn trước.

Năm

Thụ lý
Số vụ

2015
95
2016
103
2017

93
2018
75
2019
66
Bảng 2.2: Tổng số vụ án thụ lý

Bị cáo
113
142
128
119
99
và giải quyết

Giải quyết
Số vụ

Bị cáo

78
93
96
125
85
112
63
98
58
80

tội cố ý huỷ hoại tài sản

tại TAND tỉnh Thái Bình
Qua số liệu trong các bản báo cáo tổng kết hàng năm của cơ
quan Toà án từa năm 2015 đến năm 2019 cho thấy số án cố ý huỷ
hoại tài sản mỗi năm xét xử đạt từ 92.3 % đến 94.4 %, số các vụ án
trả lại Viện kiểm sát điều tra bổ sung cũng có nhưng có rất ít. Sở dĩ
tỷ lệ giải quyết các vụ án của Tồ án nhân dân tỉnh Thái Bình lại cao
là do có sự tập trung, chỉ đạo giải quyết nhanh chóng các vụ án và là
kết quả của sự sáng suốt, đoàn kết, cố gắng của hội đồng xét xử. Với
mỗi vụ án cụ thể họ luôn luôn xem xét mọi vấn đề, đưa ra những
đánh giá khách quan, xét xử cơng khai và áp dụng hình phạt đúng
người, đúng tội và tuân theo pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh những
thành cơng đó thì trong những năm qua Tồ án tỉnh Thái Bình vẫn
cịn một số vụ án chưa xét xử. Nguyên nhân là do: Các vụ án này
vẫn cịn có những tình tiết chưa rõ ràng; Chứng cứ vụ án cần được


làm rõ…nên cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ chân tướng các
vụ án và bảo vệ quyền lợi cho các đương sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý hủy hoại tài sản tại
TAND tỉnh Thái Bình
* Các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội cố ý hủy hoại tài
sản:
Khoản 1 Điều 50 BLHS quy định về căn cứ quyết định hình phạt
đối với người phạm tội như sau: Khi quyết định hình phạt, tịa án căn
cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”. Như vậy, theo quy định này, các
căn cứ quyết định hình phạt đối với tội cố ý hủy hoại tài sản bao

gồm :
- Căn cứ thứ nhất, các quy định của BLHS, bao gồm: Các quy định
ở Phần chung của BLHS khi quyết định hình phạt gồm: Quy định về
nguyên tắc xử lý (Điều 3 BLHS); các quy định liên quan đến hình
phạt như: mục đích hình phạt, nội dung, phạm vi, điều kiện của các
loại hình phạt (từ Điều 30 đến Điều 45 BLHS); các quy định về căn
cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS), về quyết định hình phạt
trong các trường hợp cụ thể (Điều 54 đền Điều 58 BLHS); các tình
tiết giảm nhẹ (Điều 51 BLHS) và tăng nặng TNHS (Điều 52 BLHS), về
tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS); về án treo (Điều 65
BLHS); các quy định ở Chương XII Phần chung BLHS có tính ngun
tắc chung cho việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Căn cứ vào các quy định ở Phần các tội phạm của BLHS khi quyết
định hình phạt là quy định về khung hình phạt chính và hình phạt bổ
sung của tội cố ý hủy hoại tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS.


- Căn cứ thứ hai: tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội cố ý hủy hoại
tài sản phụ thuộc vào các yếu tố sau: tầm quan trọng của quan hệ
sở hữu được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại; tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi cố ý hủy hoại tài sản đã thực hiện;
mức độ nghiêm trọng của hậu quả do tội cố ý hủy hoại tài sản gây
ra; thủ đoạn và phương pháp thực hiện tội cố ý hủy hoại tài sản;
mức độ lỗi cố ý; động cơ, mục đích của người có hành vi phạm tội cố
ý hủy hoại tài sản; hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội lúc và nơi
hành vi phạm tội 34 cố ý hủy hoại tài sản xảy ra; các tình tiết về
nhân thân có 54 ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có ảnh hưởng đến
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cố ý hủy hoại tài sản ...
- Căn cứ thứ ba: nhân thân người phạm tội cố ý hủy hoại tài sản
Nhân thân người phạm tội cố ý hủy hoại tài sản được hiểu là tổng
hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ.
Nhân thân người phạm tội cố ý hủy hoại tài sản được coi là căn cứ
để quyết định hình phạt nhằm đạt được mục đích của hình phạt là
trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội
mới.
- Căn cứ thứ tư: các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) là
những tình tiết khơng có ý nghĩa về mặt định tội, định khung hình
phạt mà chỉ có tác dụng làm tăng hoặc giảm mức độ TNHS trong
phạm vi một khung hình phạt nhất định.


×