Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca hmông hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 128 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

VŨ HỒNG CƢỜNG

TIẾNG HÁT VỀ TÌNH U LỨA ĐƠI
TRONG DÂN CA H'MƠNG HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

VŨ HỒNG CƢỜNG

TIẾNG HÁT VỀ TÌNH U LỨA ĐƠI
TRONG DÂN CA H'MƠNG HÀ GIANG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ

Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài "Tiếng hát về tình u đơi lứa trong
dân ca H'mơng Hà Giang", đến nay chúng tơi đã hồn thành và được phép
bảo vệ luận văn.
Với tình cảm chân thành, tơi xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy, các cô
khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên đã giúp
đỡ tận tình về tất cả các mặt cho tơi trong q trình học tập. Tôi xin chân
thành cảm ơn các bộ phận quản lý, lãnh đạo trường Đại học Sư phạm, đặc biệt
là khoa sau đại học, đã chỉ dẫn, quản lý chặt chẽ về thủ tục, thời gian và
những điều kiện cần thiết cho việc hồn thành Luận văn Thạc sĩ.
Với lịng biết ơn chân thành tơi bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới: TS.
Ngô Thị Thanh Quý - Người cô đã giúp đỡ tôi, hướng dẫn tôi trong suốt
thời gian tôi học tập tại trường.
Bên cạnh đó tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới ơng Hùng Đình Q,
Sở văn hóa thơng tin tỉnh Hà Giang đã giúp đỡ tơi trong quá trình tìm tài liệu
nghiên cứu.
Mặc dù bản thân tơi đã có nhiều cố gắng trong q trình nghiên cứu

xong chăn chắn trong Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong được sự chỉ dẫn của q thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Hà Giang, tháng 8 năm 2010
Tác giả

Vũ Hồng Cƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CÓ TRONG LUẬN VĂN

CTQG

: Chính trị quốc gia

ĐH – THCN

: Đại học – Trung học chuyên nghiệp .

GS-TSKH

: Giáo sư -Tiến sĩ khoa học .

H,


: Hà Nội.

Nxb

: Nhà xuất bản .

PGS-TS

: Phó Giáo sư - Tiến sĩ .

STT

: Số thứ tự.

VHTT

: Văn hóa thông tin .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu. .................................................................................................................................................................................................................................. 1
Nội dung ............................................................................................................................................................................................................................ 12
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và vấn đề khảo sát thƣ̣c tế . ..................................................................... 12

1.1. Nguồn gốc lị ch sử của người H’mông Hà Giang

..................................................................

12

1.2. Điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa của người Mông Hà Giang.................... 14
1.3. Tổng quan về dân ca H'mông và dân ca H’mông Hà Giang ..................................... 27
Chƣơng 2. Những nội dung chính trong tiếng hát về tình u lứa đơi ở
dân ca H’Mơng Hà Giang. ......................................................................................................................................... 33
2.1. Tiếng hát tì nh yêu đôi lứa

................................................................................................................................................

2.2. Tiếng hát tình u đơi lứa - Những nỗi niềm tâm sự qua câu hát
2.2.1. Bài hát về nỗi nhớ

33

................

36

........................................................................................................................................................

36

2.2.2. Bài hát thở than, trách móc ............................................................................................................................. 43
2.2.3. Bài hát ao ước, thề thốt


.......................................................................................................................................

49

2.3. Khúc hát li biệt ..................................................................................................................................................................................... 59
Chƣơng 3. Nghệ thuật thể hiện tiếng hát tình u đơi lứa trong dân ca
H’Mơng Hà Giang. .................................................................................................................................................................. 65
3.1. Tính trữ tình .............................................................................................................................................................................................. 65
3.2. Thể thơ .............................................................................................................................................................................................................. 75
3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật ............................................................................................................................................. 78
3.4. Môi trường lưu truyền và nghệ thuật diễn xướng

...................................................................

93

Kết luận ........................................................................................................................................................................................................................ 106
Tài liệu tham khảo
Danh mục công trì nh của tác giả
Phụ lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

1.1.1. Về mặt khoa học
Tại Hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30-10-1958, Bác Hồ của chúng ta đã
nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng
tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất
cho xã hội. Quần chúng còn là những người sáng tác nữa... Các cán bộ văn
hoá cần phải giúp những sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là
những hòn ngọc quý ...”.
Kho tàng văn học Việt Nam, tục ngữ, ca dao và dân ca chính là những
hịn ngọc q đó. Trong các chính sách về văn hóa của Đảng và nhà nước ta
hiện nay luôn quan tâm và khuyến khích phát huy vốn văn hóa truyền thống
của dân tộc. Một trong những chính sách đó của Đảng là nhân lên vốn tinh
hoa văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Trong năm mươi tư dân tộc anh em Việt Nam, từng dân tộc ở các địa
phương đều có một vốn văn hoá cổ truyền riêng biệt, tạo thành bản sắc văn
hố riêng của mình.
Đồng bào dân tộc H’mơng ở Hà Giang thường được mọi người biết đến
qua phiên chợ tình Khau Vai với những nét văn hố độc đáo, nhưng ít ai có
thể biết được những người dân tộc H’mơng nơi đây lại có một kho tàng ca
dao, dân ca vô cùng phong phú và đa dạng.Đặc biệt là những bài dân ca về
tình u đơi lứa , đó là kho báu mang vẻ đẹp độc đáo về tâm hồn những người
H’mông. Nghiên cứu những bà i dân ca ấy , chính là tìm hiểu và khám phá về
những vẻ đẹp mang giá trị nhân văn sâu sắc trong tâm hồn con người . Dân ca
H’mông xứng đáng là một mảnh đất văn học chất chứa nhiều tiềm năng cần
được chú ý khai thác hơn nữa , đấy chí nh là hành động thể hiện đạo lý uống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7


nước nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc. Hưởng
ứng lời kêu gọi của tổ chức UNESCO trong chương trình “Thập kỉ trở về
nguồn”. Đặc biệt đó cũng chính là một hoạt động cần được triển khai tích cực
để hưởng ứng Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh
tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động.
1.1.2. Về mặt thực tiễn
Là một giáo viên có nhiều năm sống và công tác tại nơi địa đầu tổ quốc –
Hà Giang , riêng đối với cá nhân tơi, tìm đến với đề tài này là một hành động
tri ân đối với mảnh đất và con người nơi đây đã và đang cưu mang đùm bọc
những người cán bộ lên đây cơng tác với những tình cảm u thương gắn bó.
Những đức tính tốt đẹp của người dân Hà Giang được hun đúc từ trong
truyền thống, bén rễ từ những bài dân ca được lưu giữ từ ngàn đời.
Cũng như các dân tộc anh em khác, người H'mông ở Hà Giang đặc biệt
yêu quý và trân trọng vốn văn hóa dân gian của dân tộc mình, trong đó có
dân ca.
Trong lịch sử truyền thống của người H'mông Hà Giang cách đây
khoảng năm sáu mươi năm, dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong
các dịp lễ hội, và trong sinh hoạt hàng ngày của người H'mông Hà Giang. Dân
ca đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ xã
hội trong một cộng đồng, một dân tộc, góp phần hình thành nhân cách, tâm
hồn của mỗi con người và cả thế giới con người.
Nhưng hiện tại thì dân ca của người H'mơng Hà Giang đang ra sao?
Thực tế công tác và giảng dạy tại đây , được tiếp xúc với các học sinh là người
dân tộc H’mông , các em sinh ra và lớn lên trong một thời kì mới

, chúng tơi

cảm nhận rằng sự hiểu biết về vốn văn hóa truyền thống của các em cịn rất
hạn chế


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

Trong một lần gặp gỡ, ơng Hùng Đình Q - ngun Giám đốc Sở văn
hóa du lịch Hà Giang, ơng đã tâm sự: Đa số bọn trẻ người Mông bây giờ
chẳng đứa nào chịu học hát bài dân ca của chúng nó. Đây cũng là vấn đề
chung mà tất cả mọi người phải nhìn nhận lại. Do đó, nghiên cứu về Tiếng hát
tình u đơi lứa trong dân ca của người H’mông ở Hà Giang là một việc làm
cần thiết trong rất nhiều những việc làm để giữ gì n , bảo tồn và phát huy vốn
văn hóa truyền thống của dân tộc .
Đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển toàn diện, hướng tới mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, kêu gọi tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, Đảng ta ln
quan tâm tới vấn đề văn hoá truyền thống, coi văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội. Giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán
tốt đẹp trong đời sống, và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn con người Việt
Nam hôm nay, đồng thời xố bỏ những yếu tố lạc hậu, khơng phù hợp trong
đời sống văn hoá tinh thần nhân dân là một yêu cầu ngày càng cấp thiết, góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự
nghiệp Cách mạng hiện nay cũng như lâu dài. Đó cũng là công việc thầm lặng
của những nhà giáo và đặc biệt là những thầy cô giáo dạy văn .
Hiện nay, chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông, phần văn học dân gian được đưa vào giảng dạy ở lớp 6,7,8 và lớp 10.
Trong đó một số tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc ít người đã được sử dụng
như: Sử thi Đăm Săn của dân tộc Êđê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường,

truyện thơ Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái... Điều đó thể hiện sự đa
dạng, phong phú của vốn văn học dân gian dân tộc, nhưng nhu cầu muốn
được tìm hiểu nền văn học dân gian của chính dân tộc mình, địa phương mình
là một nhu cầu chính đáng và cần được đáp ứng. Tất nhiên khơng thể đưa hết
vào trong chương trình phổ thơng những tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

của cả năm mươi tư dân tộc anh em và của từng địa phương khác nhau. Hiện
tại, trong cấu trúc sách giáo khoa môn Ngữ văn phổ thông, các nhà biên soạn
sách đã dành một số tiết văn học địa phương theo hướng mở, để giáo viên và
học sinh tự tìm hiểu về vốn văn học dân gian của dân tộc mình, địa phương
mình. Vấn đề đó cịn được tìm hiểu trong các tiết học ngoại khóa trong nhà
trường, giúp các em hiểu biết về

vốn văn hóa của cha ơng, qua đó biết trân

trọng, giữ gì n và phát huy truyền thống văn hóa . Tuy nhiên, trong các tiết học
tự chọn, giáo viên và học sinh lại cảm thấy khó khăn và lúng túng khi thiếu tư
liệu tham khảo để dạy và học những kiến thức văn học ở ngay chính địa
phương mình.
Đó chính là lý do thực tiễn thôi thúc tôi làm đề tài này, hi vọng sẽ đóng
góp một phần tư liệu cho giáo viên và học sinh Hà Giang có thể tham khảo
trong những tiết dạy về văn học địa phương.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dân ca H’mông Hà Giang phong phú về đề tài, đặc sắc về nghệ thuật và

sâu xa về ý tứ. Tuy nhiên việc sưu tầm và nghiên cứu chưa thực sự được chú
ý. Đã có một số cơng trình sưu tầm, nghiên cứu về dân ca H’mông nói chung
và dân ca của người H'mơng Hà giang nói riêng.
1.2.1. Sưu tầm
Dân ca H’mông cũng như dân ca H’mông Hà Giang là những sản phẩm
văn học dân gian đã có từ rất lâu đời trong lị ch sử hì nh thành của tộc người
H’mông. Tuy nhiên, từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở về trước, dân ca H’mông
cũng như dâ n ca H’mông Hà Giang vẫn là những tác phẩm dân gian được các
nghệ nhân lưu giữ chủ yếu trong trí nhớ và qua hì nh thức truyền miệng

. Phải

cho đến những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây , những hòn ngọc quý đó mới
thu hút được sự chú ý của các nhà sưu tầm nghiên cứu văn hóa

, văn học dân

gian. Đó là nhờ công lao của những người thực sự tâm huyết với vốn văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

của các dân tộc vùng cao. Họ đã đóng góp vào lịch sử văn học dân gian dân
tộc những công trì nh sưu tầm có giá trị về dân ca H’mông và dân ca H’mông
Hà Giang. Các di sản quý hiếm đó đã lần lượt được giới thiệu trong các cơng
trình sưu tầm sau :
- Dân ca Mèo (Dỗn Thanh), NXB Văn học – Hà Nội, 1967.

- Dân ca H’mông (Doãn Thanh – Chế Lan Viên giới thiệu ), NXB Văn
học, Hà Nội, 1984.
- Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998.
- Không thương nhau sẽ khổ

(Hờ A Di ), NXB Văn hóa dân tộc , Hà

Nội, 1999.
- Dân ca Mông Hà Giang – tập I (Hùng Đình Quý), NXB Sở VHTT Hà
Giang, 2000.
- Dân ca Mông Hà Giang – tập I I (Hùng Đình Quý), NXB Sở VHTT
Hà Giang, 2001.
- Dân ca Mơng Hà Giang – tập III (Hùng Đình Q), NXB Sở VHTT
Hà Giang, 2003.
Trong cơng trình của nhà thơ Hùng Đì nh Quý , ông đã công bố những bài
dân ca H’mông Hà Giang (cả bằng tiếng H’mông, cả bản dịch tiếng Việt), đó
là những bài dân ca do tác giả sưu tầm từ một số nghệ nhân người H’mông ở
các huyện vùng cao Hà Giang như: Đồng Văn, Quản Bạ, Mèo Vạc... Đây là
những công trì nh có giá trị để cho các nhà nghiên cứu dựa vào đó để tìm hiểu
về vớn văn hóa đặc sắc của các dân tộc vùng cao .
1.2.2. Nghiên cứu
Dân ca H’mông đã được tìm hiểu trong một số giáo trình của các tác giả:
Đỗ Bình Trị, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu với những
đặc trưng riêng qua sự khái quát của các tác giả. Đặc biệt là nhờ sự tâm huyết
của những người yêu vốn văn hóa của cá c dân tộc vùng cao mà các giá trị tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





11

thần của người H’mông đã được tì m đến và giới thiệu trong các công trì nh
nghiên cứu của một số nhà văn, nhà nghiên cứu văn học dân gian và trong các
luận văn, đề tài nghiên cứu .
Năm 1965, nhà văn Tơ Hồi đã để tâm đến một mảng đề tài trong dân ca
H’mông qua bài viết

Tiếng hát làm dâu , tiếng đau thương căm hờn , tiếng

thiết tha hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo

. Trong bài viết , tác giả đã tập

trung đến chủ đề tiếng hát làm dâu của dân ca H’mơng . Ở đó đã phân tích, cắt
nghĩa về số phận bất hạnh của những người phụ nữ H’mông trong xã hội cũ .
Năm 1966, tác giả Doãn Thanh trong Mấy ý kiến về dân ca Mèo đã giới
thiệu tập Dân ca Mèo do chí nh tác giả sưu tầm . Trong đó , tác giả đã đưa ra
những nhận xét quan trọng về phương diện nội dung

, nghệ thuật của dân ca

H’mông. Đi vào nội dung , tác giả khẳng định tất cả những khí a cạnh tì nh cảm
đều được miêu tả qua các bài hát , và qua dân ca có thể nhận thức được khá
đầy đủ về nhiều mặt đời sống xã hội , đời sống tì nh cảm của người Mèo , càng
thấy họ là những người giàu tì nh cảm và rất coi trọng tí n nghĩ a . Đồng thời ,
tác giả đã có những nhận định khái quát về phương diện kết cấu , phương pháp
miêu tả , hình tượng nghệ thuật , ngơn ngữ … của dân ca H’mơng . Những nhận
xét đó tuy chỉ mang tính chung nhất , với những khám phá ban đầu nhưng lại
là những đị nh hướng hết sức cần thiết cho công việc tì m hiểu về dân ca

H’mông sau này .
Năm 1979, trong bài viết Tâm hồn và tiếng hát Mèo (trong xã hội cũ ),
Chế Lan Viên đã tì m thấy tâm hồn người H’mông qua chí nh tiếng hát của

họ.

Qua đó , tác giả đã cho thấy ý nghĩa sâu sắc của những bài dân ca H’mông
trong đời sống văn hóa tinh thần đồng bào : Hơn mọi sự phân tí ch , chính cái
việc ́ng ngay vài dòng suối diệu kì diệu của những tiếng hát lại là m ta hiểu
ngay, hiểu hát được cái tâm hồn đã hòa tan trong tiếng

hát kia… [13; 37].

Tác giả cũng khẳng định cái hay của tâm hồn H’mông khơng phải chỉ ở chỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

tâm hồn ấy có tiếng hát say mê , quý trọng tiếng hát của mình , mà cịn ở chỗ
người H’mông có một quan niệm , một chủ trương rất rõ về tiếng hát . Trong
dân ca H’mông , tiếng hát tì nh yêu , tiếng hát cưới xin , tiếng hát mồ côi có thể
hát bất cứ lúc nào , miễn là tì m được những tâm hồn biết ch ia sẻ nỡi lòng. Cịn
tiếng hát cúng ma lại không được phổ biến , phụ nữ không được học , riêng bài
Khúa kê không được hát trong nhà . Đây chí nh là những khám phá hết sức đặc
sắc, làm tiền đề cho việc tìm hiểu những giá trị của dân ca H’mơng .
Cơng trình mang tính chất chun luận đầu tiên nghiên cứu về dân ca
H'mông Hà Giang là luận văn thạc sỹ Ngữ văn của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân

gian H’mông (Hà Nội 2003). Đây là cơng trình có ý nghĩa khái qt về thơ ca
H’mơng nói chung, tuy nhiên trong luận văn, tác giả đã sử dụng một số bài
dân ca H’mông Hà Giang làm tư liệu và có nhắc đến một vài khía cạnh trong
nội dung tiếng hát về tình u đơi lứa trong dân ca H’mơng Hà Giang. Nhưng
đó chỉ là cơng trình mang ý nghĩa tổng quan về thơ ca dân gian H’mơng nói
chung chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu một phương diện cụ thể trong thơ ca
H’mơng nói chung và dân ca H’mơng Hà Giang nói riêng.
Gần đây nhất là đề tài nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa (ĐHSP
Thái Nguyên) về vấn đề Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang (2008). Đây là
một đề tài nghiên cứu của sinh viên mới chỉ dừng lại ở dưới góc đợ

hình thức

biểu diễn của dân ca H’mông Hà Giang chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu các
khía cạnh giá trị nội dung và nghệ thuật của dân ca H’mông Hà Giang.
Như vậy, cho đến nay, dân ca H’mông Hà Giang vẫn chưa được giới
nghiên cứu quan tâm một cách đầy đủ. Mặc dù những người biết hát và thuộc
nhiều dân ca H’mơng ở Hà Giang rất ít ỏi và là những người có tuổi, do đó
việc tìm hiểu và nghiên cứu dân ca H’mông ở Hà Giang được xem như là một
việc làm cần thiết nếu không muốn những sản phẩm văn hóa văn học dân gian
đó mai một theo thời gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

1.3. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, phân tí ch về Tiếng hát về tình u lứa đơi trong dân ca

H’mơng ở Hà Giang từ hướng tiếp cận văn học dân gian. Từ đó để thấy được
cái hay, cái đẹp trong nội dung và nghệ thuật của một loại hình văn học

, văn

hóa của người H’mơng .
Tiếng hát về tình u lứa đôi trong dân ca H’m

ông ở Hà Giang đã

phản ánh một cách sâu sắc những vẻ đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của
người H’mơng ở Hà Giang, qua đó đã xây dựng được những thể loại văn học
dân gian, trong đó dân ca là một thể loại tiêu biểu, đại diện cho tính cách và
tâm hồn của người H’mông Hà Giang. Từ đó có thể khẳng đị nh vai trị và tác
dụng của Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’m ông ở Hà Giang
trong truyền thống cũng như trong hiện tại.
Mục đích nghiên cứu cũng cần k hẳng định rằng Tiếng hát về tình u lứa
đơi trong dân ca H’mơng ở Hà Giang có vai trị vơ cùng quan trọng trong
giáo dục, hình thành nhân cách con người, góp phần làm nên nét độc đáo của
đạo đức, văn hố của người H’mơng Hà Giang nói riêng và người Việt Nam
nói chung. Trong xã hội hiện đại vẫn cần sử dụng Tiếng hát về tình u l ứa
đơi trong dân ca H’mơng ở Hà Giang như một cơng cụ văn hố giáo dục
quan trọng.
1.4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là phần lời trong các bài
hát dân ca H’mơng Hà Giang nói về tình u đơi lứa . Ḷn văn tìm hiểu tồn
bợ nội dung và những phương thức biểu hiện của các bài hát thuộc chủ đề đó .
1.4.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Tư liệu về dân ca của người H’mông là tương đối phong phú, biểu hiện ở

nhiều cơng trình. Nhưng với đề tài: Tiếng hát tình u lứa đơi trong dân ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14

H’mơng ở Hà Giang thì phạm vi khảo sát chính của chúng tơi là bộ phận dân
ca nói về tình u đơi lứa của người H’mơng ở Hà Giang, đó là về một
phương diện của dân ca người H’mông ở một địa phương nhất định, do đó
phạm vi khảo sát tương đối bó hẹp và có rất ít cơng trình nghiên cứu liên
quan. Ngồi căn cứ chính là " Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu
số Việt Nam" (tập 17,18,19);Viện nghiên cứu Văn hóa - Viện Khoa học xã
hội (2007), NXB Khoa học xã hội. Cụ thể tư liệu được sử dụng khai thác chủ
yếu các lời ca trong văn bản Dân ca H’mông Hà Giang (tập 1,2,3) do nhà thơ
Hùng Đình Quý sưu tầm và dịch . Bên cạnh đó đề tài có sử dụng một số cơng
trình khác có liên quan. Các tư liệu này khi trích dẫn đều được chú thích rõ
nguồn gốc, xuất xứ.
1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của luận văn này là:
1.5.1. Tìm hiểu những tiền đề lí luận chung có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu của luận văn.Tìm hiểu vai trị, vị trí của dân ca về tình u đơi lứa
của dân tộc H’mơng Hà Giang.
1.5.2. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng tôi là khảo sát những giá trị về nội
dung và nghệ thuật của những bài dân ca của người H’mơng ở Hà Giang viết
về tình u đơi lứa, qua đó làm nổi bật những nét đặc sắc của những thể loại
đó trong văn học dân gian Hà Giang nói riêng và văn học dân gian Việt Nam
nói chung.

1.5.3. Từ tổng tập Dân ca Mơng Hà Giang (tập 1,2,3) gồm 131 bài do
Hùng Đình Quý chủ biên, theo bảy chủ đề lớn viết về tình yêu đôi lứa (Bài
hát chào, hát mời ; Bài hát tỏ lòng ; Bài hát về nỗi nhớ ; Bài hát thở than,
trách móc ; Bài hát ao ước, thề thốt ; Bài hát li biệt), chúng tôi đã tiến hành
khảo sát, phân loại để lựa chọn ra những bài, những câu dân ca nói về nét đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

trong tình u đơi lứa của dân ca H’mơng Hà Giang cả về hình thức nghệ
thuật và nội dung.
1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Mỗi một phương pháp nghiên cứu đều có những ưu, nhược điểm riêng.
Bởi vậy, với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này chúng tơi sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp
là cơ bản:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp nghiên cứu phân tích , tổng hợp, so sánh.
Phương pháp điền dã. Từ phương pháp này , x́t phát từ thực
chúng tơi tìm hiểu được them về môi trường sinh hoạt

tế mà

, phong tục tập quán ,

nếp cảm nếp nghĩ của người dân tộc H’mông Hà Giang để có thể lý giải được
những tí n hiệu thẩm mỹ có trong những bài dân ca .

1.7. Đóng góp của luận văn
Làm rõ hơn vẻ đẹp về phương diện nội dung và nghệ thuật của tiếng hát
tình u đơi lứa trong dân ca H’mông Hà Giang.
Khẳng đị nh thêm những nhận thức về giá trị và vẻ đẹp tâm hồn , vẻ đẹp
văn hóa của người dân tộc H’mông Hà Giang thông qua những câu hát dân ca.
Muốn góp th êm tiếng nói trong việc g ìn giữ và phát huy những giá trị
tinh thần của dân tộc để khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc
trong nét đẹp của dân ca H’mông Hà Giang về tình u đơi lứa.
Đây cũng là mợt ngh iên cứu có thể l àm tư liệu thiết thực cho giáo viên
để giảng dạy cho học sinh trong những tiết văn học địa phương ở Hà Giang.
1.8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo,Phụ lục , nội
dung của luận văn gồm ba chương:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

Chương 1: Cơ sở lý luận và vấn đề khảo sát thực tế dân ca H’mông
Hà Giang.
Chương 2: Nội dung cơ bản của tiếng hát tì nh yêu đôi lƣ́a trong dân
ca H’mông Hà Giang.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tiếng hát tì nh yêu đôi lƣ́a trong dân
ca H’mông Hà Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





17

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ KHẢO SÁT
THỰC TẾ DÂN CA H’MƠNG HÀ GIANG
1.1. Ng̀n gớc lị ch sƣ̉ của ngƣời H’mông Hà Giang
Người H’mông ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng tự gọi mì nh
là Mông. Tộc danh đó cũng cũng dùng thống nhất cho người H’mông ở các
nước khác như Trung Quốc , Thái Lan , Lào … Từ xa xưa người Hán đã gọi
người H’mông là người Mèo – từ Mèo là âm Hán chỉ người H’m ông – một bộ
lạc biết trồng lúa

rất sớm ở vùng hồ Bàng Hải và hồ Động Đì nh

Quốc). Theo truyền thuyết của những người già

(Trung

, xưa kia , dân tợc H’mơ ng

cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng : Hình đơi sừng trâu và cờ mầu đỏ .
Dấu ấn ấy vẫn còn đế n ngày nay (một số gia đì nh người H’mông Hà Giang
vẫn treo miếng vải đỏ trước cửa nhà và hì nh bộ sừng trâu để làm chốt trên của
cánh cửa chính mỗi nhà ).
Vào khoảng thế kỷ thứ IX – XVI, các thế lực phong kiến Trung Quốc b ắt
đầu mở rộng sự bành trướng về phương Nam


. Người H’mông cũng không

tránh khỏi sự ảnh hưởng của những cuộc bành trướng đó .
Từ Tây Nam Trung Q́c , người H’mông di cư sang Việt Nam với ba
thời kỳ đông nhất : Thời kỳ đầu tiên c ách đây khoảng trên 300 năm, họ từ Quý
Châu sang Đồng Văn (Hà Giang). Thời kỳ này tương ứng với phong trào đấu
tranh của người H’mông ở Quý Châu với nhà Minh Thanh

. Thời kỳ thứ hai

cách đây trên 200 năm, lần di cư này phù hợp vớ i phong trào khởi nghĩ a của
người H’mông ở Quý Châu khi đã bị thất bại (1776-1892). Thời kỳ di cư thứ
ba cách đây khoảng từ 120 năm đến 160 năm. Đây là c̣c di cư đơng nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

của người H’mông sang Việt Nam

. Hàng vạn người H’mông đ ã từ Trung

Quốc di cư sang Hà Giang , Lào Cai, Yên Bái và khu tự trị Tây Bắc . Nguồn
gốc của họ phần nhiều cũng ở Quý Châu

, một số ở Vân Nam , Quảng Tây


(Trung Quốc ). Thời kỳ này tương ứng với cuộc khởi nghĩ a của người H’mông
hưởng ứng phong trào Thái bì nh thiên quốc đấu tranh chống triều đại Mãn
Thanh, cuộc đấu tranh này kéo dài từ 1840 đến 1868 [64; 54].
Đến với Việt Nam , đến với vùng đất mới , nơi khơng có chiến tranh sắc
tợc, người H’mơng đã tìm thấy nguồn sống hứa hẹn nhiều ấm no

. Với tinh

thần cần cù lao động và sáng tạo , người H’mông đã biến nơi rừng núi hoang
vu thành quê hương than yêu của mì nh , lưu niệm lại mảnh đất đầu tiên người
H’mông đặt chân đến với đị a danh là Mèo Vạc (Hà Giang), đến nay vẫn còn
lưu lại bài ca :
"Cá bơi ở dưới nước
Chim bay ở trên trời,
Chúng ta sống ở vùng cao.
Và con chim có tở
Người Mèo ta cũng có quê,
Quê ta là Mèo Vạc"

[44 ; 292].

Như vậy , Hà Gia ng chí nh là một trong những mảnh đất sinh sống đầu
tiên của người H’mông Việt Nam .
Dưới chế độ cũ, người H’mông ở Việt Nam nói chung và ở Hà Giang nói
riêng cũng bị áp bức bóc lột , nhất là từ khi nước ta bị thực dân Pháp

xâm

lược. Là dân tộc yêu tha thiết cuộc sống , gắn bó máu thị t với từng tấc đất quê
hương, đồng bào H’mông đã nhiều lần nổi dậy hưởng ứng những cuộc đấu

tranh chung từ năm

1918 đến 1922 suốt dọc biên giới từ Lào Cai đến Hà

Giang. Sau đó lan dần đến các tỉ nh phí a Tây Bắc như Sơn La , Lai Châu. Sau
năm 1945, dưới ánh sáng cách mạng và theo lời kêu gọi của Đảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

, của Bác




19

Hờ, người H’ mơng Hà Giang đã hòa

vào khơng khí chung của cuộc kháng

chiến chố ng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với nhân dân cả nước .
Ngày nay , dưới sự lãnh đạo của Đảng và chí nh phủ , đời sống đồng bào
H’mông đã có nhiều thay đổi . Những truyền thống tốt đẹp được phát huy

,

những tập tục xấu b ị bài trừ . Người H’mông Hà Giang đang tiến bước trên
con đường đổi mới của đất nước , cùng các dân tộc anh em đoàn kết xây dựng
quê hương, bảo vệ vững chắc vùng đất biên cương của tổ quốc .
1.2. Điều kiện tự nhiên - xã hội - văn hóa của ngƣời Mơng Hà Giang
1.2.1. Điều kiện tự nhiên

Hà Giang - với tên gọi chính thức từ ngày 1/10/1991 (khi được tách ra từ
tỉnh Hà Tuyên cũ ), với diện tích tự nhiên là 7.884,37 km2, dân số khoảng
724.353 người (theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2009). Là một tỉnh
miền núi cao, nằm ở cực Bắc của tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam và
Quảng Tây - Trung Quốc với đường biên giới dài 274 km. Phía nam giáp tỉnh
Tun Quang, phía đơng giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai.
Từ thị xã Hà Giang đến thủ đô Hà Nội dài khoảng255 km theo đường chim bay.
Hà giang nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Hà Giang về cơ bản
vẫn mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc song lại có những đặc điểm
riêng, mát mẻ và lạnh hơn các tỉnh Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh Tây Bắc.
Hà Giang là nơi cư trú của trên

20 dân tộc anh em đoà n kết sinh sống

bên nhau như H’mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Giáy, Bố Y, Pu Péo, Cờ Lao,
Phù lá, Pà Thẻn, Kinh… (trong đó dân tộc H’mông có số dân đông nhất ). Hà
Giang có 9 huyện và 1 thị xã, đó là Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ,
Vị Xun, Băc Mê, Bắc Quang, Hồng Su Phì , Xín Mần và thị xã Hà Giang .
Hà Giang có độ cao trung bình từ 800 đến 1200m so với mực nước biển.
Nơi cao nhất là đỉ nh Tây Cơn Lĩ nh cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2491m. Điều đặc biệt là Hà Giang




20


không rộng lắm nhưng mật độ tập trung các ngọn núi cao khá dày đặc

. Điều

này xác nhận rằng Hà Giang là tỉnh núi cao hùng vĩ và hiểm trở .
Thổ nhưỡng của người dân tộc H’mông Hà Giang chủ yếu sống tập
trung ở những khu vực núi cao, địa thế hiểm trở, giao thơng đi lại khó khăn,
họ có xu hướng đồng tộc mạnh và ln có sức hút sống tập trung ở một số
khu vực nhất định.
Đặc điểm nổi bật trong thế ứng xử văn hố với mơi trường tự nhiên của
người H’mơng là ln vượt khó khăn, linh hoạt và tạo ra khả năng thích ứng
văn hố cao với môi trường tự nhiên khắc nghiệt.
Người H’mông cư trú ở bất cứ một trường nào đều tạo ra khả năng thích
nghi một cách linh hoạt. Người H’mơng ở các huyện phí a Bắc Hà Giang như
Quản Bạ , Yên Minh , Đồng Văn , Mèo Vạc cư trú ở vùng núi đá đã canh tác
trên loại hình nương thổ canh hốc đá. Các mảnh nương này nằm cheo leo trên
các sườn núi đá vôi nhỏ hẹp, tiếng H’mông gọi là "Tế kho dế". Để bảo vệ đất
khỏi xói mòn, đồng bào xếp đá be bờ. Tùy theo địa hình, xếp đá be bờ theo
từng kiểu khác nhau. Ở những hốc đá đất ít, người H’mơng nhặt các hịn đá
xếp vào khe giữa các mô đá ngăn thành gờ nhỏ giữ đất cho từng hốc, từng
mảnh đất nhỏ. Ở các vạt đất rộng, người H’mông dùng đá be thành các bờ dải
giữ đất, chống xói mịn. Ở loại nương này, người H’mơng dùng cuốc làm đất.
Ở khu vực cịn rừng già, người H’mông phát rừng làm nương rẫy

tiếng

H’mông gọi là "Tế giống". Loại nương dốc này dễ bị xói mịn nên người
H’mơng chỉ canh tác được vài ba vụ phải di chuyển luân canh. Tuy nhiên loại
nương rẫy còn rất ít.
Trên các sườn đồi nương thoai thoải, ít dốc người H’mông khai khẩn

thành các nương bậc thang, tiếng H’mông gọi là "Tế kế đây". Nương bậc
thang bề ngang hẹp nhưng tương đối bằng phẳng xung quanh nương đồng bào
đắp bờ nhỏ để giữ ẩm, giữ nước mưa. Phía trên đường xẻ rãnh có hệ thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

thốt nước khi mưa to nhằm chống xói mịn. Ở nương bậc thang, đồng bào
dùng cày trong khâu làm đất. Nương bậc thang là gạch nối giữa ruộng và
nương. Tuy nhiên nương bậc thang chưa phải là ruộng vì thiếu nước và đất có
độ thẩm thấu lớn.
Đặc biệt tại các huyện miền Tây Hà Giang như Hoàng Su Phì , Xín Mần,
người H’mơng cịn sáng tạo ra loại hình canh tác trên ruộng bậc thang độc
đáo. Quy trình khai khẩn ruộng bậc thang là một điển hình ở thế ứng xử linh
hoạt với môi trường. Trước khi tiến hành khai khẩn ruộng bậc thang, người
H’mơng phải chọn vùng đất có sườn núi có độ dốc dưới 400 có nguồn nước tự
nhiên hoặc nước mạch đùn tương đối bằng phẳng và có mùn dày. Người
H’mơng thường khai khẩn ngay sau khi ăn tết. Công việc làm ruộng bậc thang
rất nặng nhọc nên phải huy động cả dòng họ hoặc trai tráng cả làng tham gia.
Đầu tiên người H’mông dùng dao phát sạch cây cỏ. Sau đó tuỳ từng loại hình
địa hình nếu mảnh đất chọn có độ dốc cao sẽ đào, san ruộng từ phía trên núi
xuống chân núi. Nếu có độ dốc thấp, ít mùn sẽ đào, san ruộng từ phía dưới
lên. Cơng cụ đồn san ruộng thường dùng cuốc bướm, nơi nhiều đá, rễ cây
phải dùng cuốc chim. Khi san ruộng, cả tập thể lao động phải chú ý tạo điểm
chuẩn để san bề mặt ruộng, khi đào và san ruộng bậc thang cố gắng triệt tiêu
độ chênh lệch trên mặt bằng của thửa ruộng. Đồng thời phải chú trọng làm bờ
giữ nước ngay từ khi san ruộng. Bờ nhỏ nhưng phải lèn chặt, chống thẩm

thấu. Khi có ruộng, người H’mơng cịn xây dựng hệ thống mương dẫn nước
khá công phu. Mương phải đào sâu từ 40cm đến 50cm, rộng từ 80cm đến
100cm. Mạch mương chảy theo đường lượn của đường đồi chảy vào thửa
ruộng đầu tiên. Khi gặp địa hình gẫy cắt người H’mơng kht thân gỗ to làm
máng (đường kính từ 40 cm - 50 cm). Nơi có địa hình hiểm trở phải làm cả
một dàn máng dẫn nước. Người H’mơng cịn đào các rãnh dẫn nước từ ruộng
trên xuống ruộng dưới theo nguyên tắc so le nhằm tránh vỡ bờ, trơi mầu. Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22

ruộng, người H’mơng cịn có kỹ thuật cày, bừa làm đất thích hợp với các thửa
ruộng bậc thang hẹp bề ngang.
Nhìn chung người H’mơng khai phá và canh tác trên nương rẫy theo mỗi
loại địa hình khác nhau có kiểu canh tác khác nhau. Trên nương bằng ruộng
và nương bậc thang người H’mông dùng cày. Trên nương thổ canh hốc đá
người H’mông dùng cuốc. Trên nương dốc núi đất, người H’mông dùng gậy
chọc lỗ, hoặc cuốc bướm; bộ nông cụ làm đất của người H’mơng khá độc đáo,
thích hợp với từng loại địa hình , thể hiện rằng họ ln sáng tạo trong lao động
và sẵn sàng thích ứng với mọi điều kiện sống .
Hiện nay, theo chính sách của Đảng và nhà nước, người H’mông Hà
Giang đã từ bỏ lối sống du canh du cư, nhiều gia đình người Mông đã "hạ
sơn" và sống tập trung theo các bản làng, dòng họ. Theo hướng đi lên của xã hội,
đời sống của người H’mơng Hà Giang đang có nhiều thay đổi trong sinh hoạt,
nhận thức và vẫn giữ được nhiều nét đặc sắc trong bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2.2. Đặc điểm văn hóa xã hội của người H’mông ở Hà Giang
Hà giang là địa bàn cư trú của 22 dân tộc anh em, trong đó dân tộc

H’mơng chiếm đa số với khoảng 195.000 người, chiếm 30,6% dân số của tỉnh
(theo số lượng thống kê ngày 1 tháng 4 năm 2009), và chiếm 1/3 dân số người
Mông trên đất nước ta. Con số đó chứng tỏ " Hà Giang là cái nơi lớn của
người Mơng" (chữ dùng của Hùng Đình Q).
Người H’mơng ở Hà Giang gồm hai nhóm chính: H’mơng Trắng và
H’mông Hoa. Người H’mông Trắng sống tập trung ở các huyện phía Bắc
như: Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ. Người H’mông Hoa lại sinh sống chủ
yếu ở các huyện phía Tây như: Hồng Su Phì, Xín Mần và rải rác ở một số
địa phương khác. Đặc điểm để phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa người
H’mông Hoa và H’mông Trắng chỉ là ở trang phục của người phụ nữ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




23

Người H’mông ở Hà Giang sống rải rác trên những sườn đồi, sườn núi
hiểm trở. Điều kiện sống như vậy nên việc canh tác nương rẫy là chủ yếu.
Cây lương thực chính của họ là cây ngơ và cây lúa, trong đó chủ yếu là những
sản phẩm làm từ cây ngơ. Sản phẩm chăn ni là dê, bị, ngựa, lợn, ong..., tuy
nhiên các sản phẩm này mới chỉ dừng ở mức độ tự cung, tự cấp, do đó đời
sống của người H’mơng nơi đây cịn rất nghèo nàn, khó khăn.
Tuy có đời sống vật chất thấp nhưng người H’mông ở Hà Giang lại có
một cuộc s ống tinh thần tương đối phong phú và đa dạng
thống văn hóa với những nét đặc sắc
những tập quán canh tác

, tạo nên truyền


. Truyền thống ấy không chỉ thấy ở

, chăn nuôi , ăn ở… mà còn ở trong toàn bộ tí n

ngưỡng, tâm linh, phong tục tập quán , trong các mối quan hệ

dòng họ , gia

đì nh, xã hội…
Với tí nh cách mộc mạc , chân chất, người H’mông Hà Giang rất coi trọng
tín nghĩa và tình cả m cợng đờng . Tuy sống rải rác , nhưng họ vẫn có ý thức
hình thàn h những khu vực cư trú theo bản làng và gắn bó

, bảo vệ nhau khi

hoạn nạn.
Tất cả những sinh hoạt vật chất và tinh thần của người H’mông Hà
Giang đều xoay quanh mối quan hệ gia đì nh

, dòng họ , làng bản . Các mối

quan hệ ấy c ó vai trị khác nhau trong đời sống xã hội , nhưng quan trọng nhất
và chi phối mạnh mẽ là mối quan hệ dòng họ . Dòng họ chỉ mối quan hệ về
dòng máu , đóng vai trò liên kết các cá nhân với cộng đồng vừa cụ thể vừa
chặt chẽ . Các thành viên trong dòng họ ln giúp đỡ nhau rất tích cực và
mang tí nh tự giác cao . Trong dòng họ có các quy đị nh rất chặt chẽ về các nghi
lễ thờ cúng và tang ma . Việc kết hôn của những người cùng họ thường không
xảy ra. Quan hệ dòng họ của người H’mông Hà Giang có một nét đặc biệt là
trong cùng một chi cứ người nào lớn hơn (thấy mặt trời trước ) thì được gọi là

anh (hoặc chị ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




24

Như vậy , quan hệ họ hàng đóng vai trò quan trọng trong đ
hoạt lễ nghi và tinh thần của người H’mông Hà Giang

ời sống sinh

, nhưng quan hệ này

cũng thể hiện những mặt tiêu cực đó là tính cục bộ dòng họ

, sự chia rẽ mất

đoàn kết giữa các dòng họ .
Cũng như các dân tộc khác , đồng bào H’mông Hà Giang rất coi trọng và
đề cao mối quan hệ gia đình . Gia đì nh chí nh là cái nôi hì nh thành và phát triển
nền văn hóa truyền thống . Bởi vậy , muốn tì m hiểu nền văn hóa của người
H’mông phải bắt đầu từ việc tì m hiểu chí nh các mối quan hệ trong gia đì nh .
Đồng bào H’mơng gọi gia đình là Chúa dỉ, với các kiểu gia đì nh : hai thế
hệ (vợ chồng, con cái), ba thế hệ (bố mẹ chồng, vợ chồng, con cái), bốn thế hệ
(ông bà , bố mẹ , con cái, cháu chắt ). Trong gia đì nh người H’mông , nam giới
luôn được coi trọng . Họ được đảm nhiệm các công việc quan trọng như thờ
cúng tổ tiên, thay mặt gia đì nh trong các cơng việc của dòng họ , làng xóm .
Trong các nghi lễ cưới xin củ a người H’mông Hà Giang . Sau khi hai bên

gia đì nh đã chấp thuận , ông mối giúp nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục
hẹn ngày đón dâu . Đám cưới được tổ chức long trọng vào ngày lành tháng tốt
(thường vào mùa xuân ). Nhà trai khi đến đón dâu phải đem đầy đủ tiền và đờ
sính lễ, đoàn đón dâu đi lẻ về chẵn . Đám cưới phải bắt buộc có phù rể , người
này sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi rước dâu đi

. Theo phong

tục, người nhà gái không được đưa dâu đến nhà trai . Trên đường đưa dâu dù
hai nhà cách xa hay gần cũng phải dừng lại để ăn trưa và cúng thổ thần . Đoàn
đón dâu về đến nơi phải đứng ngoài chờ chủ nhân đem con gà trống đến làm
lễ nhập môn mới đ ược vào nhà . Sau khi hoàn tất một số thủ tục , nhà trai tổ
chức ăn uống và hát cả đêm để để mừng cô dâu mới . Sau đám cưới ba ngày ,
cô dâu cùng chú rể làm lễ lại mặt bố mẹ , anh em nhà gái rồi về nàh chồng để
chung sống với nhau cho đến hết cuộc đời .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25

Một nét độc đáo trong hôn nhân của người H’mông ở Hà Giang là tục
kéo vợ. Tục này diễn ra bởi nhiều lý do : đôi trai gái yêu nhau nhưng cha của
một hoặc cả hai bên không đồng ý

, cũng có khi nhà

người con trai dùng


quyền thế để ép buộc người con gái phải về làm vợ mì nh … Tục lệ này khiến
cho người con gái dù không đồng ý nhưng nếu đã bị kéo về nhà người ta hai
ba ngày thì buộc phải lấy người đó . Người H’mông quan niệm con gái đã bị
dùng gà trống đánh dấu nhập nhà có bỏ quay về bố mẹ đẻ cũng khơng nhận
nữa. Chính vì vậy khi các cuộc cưỡng hơn tan vỡ thì người con gái chỉ biết
tìm đến cái chết . Đến nay tục kéo vợ đã có nhiều thay đổi , thường hôn nhân là
kết quả của tì nh yêu tự do . Tuy tục kéo vợ vẫn còn nhưng là sự thỏa thuận
trước của đôi lứa . Giờ đây, hành động kéo vợ lại là sự khẳng định cho tình
yêu mãnh liệt , khát vọng hạnh phúc của trai gái H’mông .
Cũng như các dân tộc khác , người H’mông ở Hà Giang quan niệm

vạn

vật hữu linh (các vật đều có linh hồn ). Vết tí ch tô tem giáo (thờ vật tổ ) chỉ còn
lại ở một vài dòng họ nhưng rất mờ nhạt . Đầu thế k ỷ XX, thiên chúa g iáo đã
lan đến vùng người H’mông, nhưng người H’mông vùng Hà Giang không bị
ảnh hưởng gì . Những năm gần đây, thiên chú giáo có phần rộ lên ở một vài thôn
bản vùng người h’mông ở Bắc Mê, Vị Xuyên, Bắc Quang, Hồng Su Phì và Xín
Mần.
Tang lễ cuả người H’mơng Hà Giang cũng có nhiều nét văn hóa độc đáo :
khi gia đì nh có người qua đời sẽ báo cho cả làng xóm biết bằng ba phát súng
chỉ thiên, gia chủ phát tang , sau đó là các phần n ghi lễ . Trước tiên, thầy cúng
được mời đến làm lễ chỉ đường để người chết tì m đến với tổ tiên gọi là

khúa

kê. Thực chất, khúa kê là một bài ca thần thoại ghi nhận về lịch sử , nguồn gốc
của người H’mông chứa chan yêu th ương dẫn dắt linh hồn người chết về với
tổ tiên. Người H’mông tổ chức hai đám tang cho người chết : đám ma tươi khi

người vừa mất và đám ma khô khi có điều kiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

. Trong lễ ma tươi , gia đì nh



×