Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) rèn cho học sinh lớp 5 kỹ năng tự đặt đề toán và giải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 14 trang )

1. Phần mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Đảng và Nhà Nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát huy
yếu tố con người. Điều đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý
nghĩa quyết định của yếu tố con người, chủ thể của tất cả những sáng tạo, những
nguồn của cải vật chất và văn hóa, những nền văn minh của các quốc gia. Xây dựng
và phát triển con người có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực đồng thời cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Để
đạt được điều đó, giáo dục - đào tạo có vai trị quyết định. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta đã giành nhiều sự quan tâm và đầu tư cho sự phát triển của giáo dục nước nhà với
mục đích tạo ra nguồn nhân lực lao động mới có tri thức cao, có năng lực chun mơn
tốt lại năng động sáng tạo phục vụ cho nhu cầu xây dựng đất nước. Trong đó, bậc Tiểu
học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chính vì thế nó có vai trị rất
quan trọng trong việc đào tạo các thế hệ người Việt Nam mới với đầy đủ các tố chất
nhằm thay đổi diện mạo đất nước như mong muốn của các nhà giáo dục cũng như của
xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của bậc học này, nhiều nhà giáo dục đặc biệt là
những giáo viên giảng dạy ở các trường Tiểu học luôn tâm huyết thường xuyên bồi
dưỡng năng lực chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học và hình thức dạy học sao
cho việc dạy và học đạt hiệu quả tốt nhất. Để cho mỗi một học sinh đều phát huy tối
đa năng lực học tập của bản thân thì mỡi một người giáo viên nói chung cần bồi
dưỡng, nâng cao nhu cầu học tập cho các em, giúp các em có hứng thú học tập muốn
khám phá kho tàng tri thức nhân loại. Trong nhà trường phổ thơng, tốn học là một
mơn giữ vị trí rất quan trọng, là nền tảng để học các môn học khác và là phương tiện
để tiến hành các hoạt động trong thực tiễn. Với chương trình mơn Tốn ở Tiểu học thì
phần lớn các kiến thức cần truyền đạt cho học sinh lại mang tính hình tượng và khái
quát cao. Đặc biệt khi dạy học về giải toán, đây được xem là tuyến kiến thức khó nên
việc rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh được xem là một trong những mục
tiêu hàng đầu.
Học sinh tiểu học có những nét tính cách rất riêng biệt, các em ham thích
khám phá những điều mới mẻ. Thích thú khi được tiếp cận với những nội dung mới


và ln cố gắng tự mình giải quyết những vấn đề đó. Nét đặc biệt đó nếu được khuyến


khích phát triển, rèn luyện đúng hướng sẽ đem lại những kết quả tích
cực trong q trình giáo dục tổng thể học sinh. Đặt ra những bài toán mới và giải
quyết được chúng chính là một cách đặt các em vào vấn đề mới nhằm phát huy khả
năng và sự sáng tạo của bản thân các em. Việc rèn kĩ năng tự đặt đề toán và giải sẽ tạo
điều kiện cho học sinh học tập chủ động, sáng tạo, phát triển khả năng tư duy tự mình
chiếm lĩnh tri thức, góp phần rèn luyện trí thơng minh cho học sinh đồng thời tạo được
bầu khơng khí sơi nổi trong tiết học, giúp học sinh thêm hứng thú và yêu thích học
mơn Tốn. Bởi vì dạy học khơng chỉ làm phát triển nhận thức ở học sinh và cung cấp
cho học sinh một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng khát
khao học tập một cách nghiêm túc. Đặc biệt là khi bước vào nền kinh tế tri thức, việc
bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, tự mình đặt vấn đề và giải quyết được nhìn
nhận là một trong những nhiệm vụ cấp thiết. Chính vì vậy, việc rèn kĩ năng tự đặt đề
toán và giải trong dạy học toán được xem như là một trong những giải pháp hữu hiệu
trong việc tìm ra một lối đi đúng đắn cho việc nâng cao hiệu quả giảng dạy mơn Tốn
ở nhà trường Tiểu học.
Trong thực tế dạy học Toán ở Tiểu học hiện nay, một số giáo viên chỉ chú ý đến
việc cung cấp tri thức cho học sinh, giảng dạy theo các tài liệu có sẵn trong sách giáo
khoa, sách hướng dẫn giảng dạy nên chưa hoặc ít quan tâm đến việc rèn kĩ năng
sáng tác các đề toán mới cho các em giải quyết. Học sinh khơng biết cách đặt đề tốn
mới, như vậy giáo viên đã bỏ qua một thao tác khích lệ sự sáng tạo của học sinh . Một
bộ phận giáo viên hiện nay vẫn chưa thoát khỏi lề lối cũ, vẫn còn sử dụng phương
pháp dạy học cứng nhắc theo cơng thức “thầy truyền đạt, trị tiếp nhận, ghi nhớ”. Do
đó có thể thấy hiệu quả của cải cách giáo dục trong nhiều năm qua còn khá hạn chế.
Việc rèn kĩ năng tự đặt đề toán và giải còn khá mới mẻ đối với giáo viên trong dạy học
ở nhà trường Tiểu học. Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Rèn cho học sinh lớp
5 kỹ năng tự đặt đề toán và giải”.
1.2 Điểm mới của đề tài

Việc rèn kỹ năng tự đặt đề toán và giải cho học sinh khi giảng dạy mơn Tốn
nói chung khơng phải là mới. Đã có nhiều nhà giáo dục quan tâm, tìm hiểu, nghiên
cứu và đưa ra chính kiến của mình qua các đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên các cơng trình


đã có chủ yếu tập trung vào dạy học mơn Tốn nói chung, cịn đối với cấp Tiểu học –
cấp học nền tảng của nền giáo dục quốc dân thì ít ai đi sâu nghiên cứu.
Bên cạnh đó cũng có một số sáng kiến kinh nghiệm đề cập đến việc bồi dưỡng
cho giáo viên kỹ năng tự đặt đề toán. Tuy nhiên vẫn chưa có ai đi sâu nghiên cứu việc
rèn cho học sinh tiểu học kỹ năng tự đặt đề toán và giải đặc biệt là với học sinh lớp 5.
Mặt khác việc rèn kỹ năng tự đặt đề toán và giải phù hợp với định hướng đổi mới giáo
dục nước ta nhưng vẫn còn khá mới mẻ đối với một số bộ phận giáo viên nên chưa
được vận dụng nhiều vào trong thực tiễn dạy học ở các trường Tiểu học. Chính vì thế
mà tơi chọn đề tài “Rèn cho học sinh lớp 5 kỹ năng tự đặt đề toán và giải”.
1.3 Phạm vi áp dụng của đề tài
Đề tài áp dụng cho đối tượng là giáo viên khối 5 giảng dạy mơn tốn cho học
sinh lớp 5. Tập trung vào nội dung dạy học giải toán ở lớp 5 trong việc rèn cho học
sinh lớp 5 kỹ năng tự đặt đề toán và giải.


2. Phần nội dung
2.1 Thực trạng của vấn đề:
Sau khi được phân công giảng dạy khối lớp 5, tôi đã tiến hành điều tra cụ thể về
tình hình học sinh, sự mong muốn và khả năng tham gia thực hiện cách đặt đề toán và
giải. Kết quả như sau:
- Số học sinh muốn được tham gia, hiểu mục đích và thu được kết quả sau học
tập: 40%
- Số học sinh muốn được tham gia, nhưng chỉ tham gia với mục đích vui chơi là
chính mà chưa hiểu, chưa thu được kết quả: 30%
- Số học sinh chưa muốn tham gia: 30%

Sở dĩ các em chưa muốn tham gia hoặc tham gia mà chưa thu được kết quả là do
một số nguyên nhân sau:
1. Các em chưa hiểu mục tiêu của cách dạy học trên vì từ trước đến nay đều là
do các thầy cô giáo ra đề và yêu cầu các em giải tốn nên các em khơng biết mình đặt
đề tốn để làm gì? Thực hiện như vậy nhằm mục đích gì?
2. Các em chưa hiểu rõ quy trình và các bước thực hiện nên lúng túng không
biết phải làm như thế nào.
3. Về phía giáo viên đưa ra chưa thú vị, chưa đủ hấp dẫn để lôi cuốn học sinh
tham gia và mong muốn thực hiện.
4. Yêu cầu q khó, các em khơng thể tham gia.
5. Giáo viên khơng chủ động về thời gian, về các tình huống xảy ra dẫn đến tình
trạng yêu cầu bị bỏ dở hoặc kết thúc mà khơng thu hoạch được gì.
Để khắc phục những nguyên nhân trên tôi đã nghiên cứu dần để tìm hướng
giải quyết như sau:
2.2 Các giải pháp
2.2.1. Giáo viên cần lựa chọn nội dung yêu cầu phù hợp với nội dung bài học
Không phải tiết học nào cũng cần rèn cho học sinh lớp 5 kỹ năng tự đặt đề tốn
và giải. Nếu như vậy thì giáo viên đã q lạm dụng phương pháp này vì điều đó còn
liên quan đến mục tiêu tiết học, thời lượng của tiết học. Vì thế, với mỡi tiết dạy, giáo
viên cần xác định rõ mục tiêu của bài học, lựa chọn phương pháp dạy học cho phù


hợp với nội dung từng phần, áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong tiết dạy
sao cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, học sinh tiếp thu bài tích cực, chủ động hơn. Tuỳ
từng bài mà giáo viên đưa vào cách rèn cho học sinh lớp 5 kỹ năng tự đặt đề tốn và
giải cho thích hợp. Khi đã lựa chọn được phương pháp dạy học cho mỗi hoạt động,
giáo viên cần xác định rõ mục tiêu để xây dựng hình thức tổ chức cho hoạt động đó.
2.2.2. Giúp học sinh xác định rõ mục đích của yêu cầu tự đặt đề toán và giải
Trước khi tổ chức cho học sinh thực hiện cách dạy trên, giáo viên cần giúp học
sinh HS hiểu: Qua việc thực hiện yêu cầu trên , các em sẽ tìm được những kiến thức

gì, cũng cố hay khắc sâu, hệ thống được những kiến thức gì?
Phần lớn yêu cầu khi giáo viên giúp rèn cho học sinh kỹ năng tự đặt đề toán và
giải chủ yếu ở 2 dạng kiến thức: thực hiện đặt đề tốn và giải nhằm khám phá, hình
thành kiến thức mới và chơi để củng cố, hệ thống hoá kiến thức đã học.
2.2.3 Đưa ra các bước giải bài tốn và quy trình thiết kế giúp học sinh thực hiện
a) Các bước giải bài tốn
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài tốn
- Đọc kĩ đề bài
- Tóm tắt đề bài
Bước 2: Lập kế hoạch giải bài tốn (phân tích các bước giải)
Có nhiều cách lập kế hoạch:
- Sử dụng câu hỏi
- Sử dụng câu gợi ý
- Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ phân tích các bước giải
Bước 3: Thực hiện giải bài tốn
Cho học sinh trình bày theo cách hiểu của mình.
Bước 4: Nhìn lại và phát triển bài tốn
- Thử lại
- Nêu cách giải khác (nếu có)
- Phát triển, mở rộng bài toán
b) Hướng dẫn học sinh quy trình thiết kế
Quy trình thiết kế đề tốn thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Lựa chọn bài toán A
Bước 2: Giải bài toán A


Bước 3: Biến đổi bài toán A thành bài toán A1
Bước 4: Giải bài toán A1. Chỉnh sửa bài toán A1 (nếu có)
Bước 5: Biến đổi bài tốn A1 thành bài toán A2. Giải bài toán A2 và chỉnh sửa
bài tốn A2 (nếu có)

Bước 6: Rút ra những kết luận cần thiết khi giải hệ thống bài tốn.
c) Tiêu chí đánh giá đề toán
- Nội dung của bài toán phải đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đặt ra
- Bài tốn phải có đủ dữ kiện (khơng thừa, khơng thiếu)
- Câu hỏi của bài tốn phải rõ ràng, có đầy đủ ý nghĩa
- Bài tốn có tính logic, khơng có mâu thuẫn
- Số liệu của bài toán phải phù hợp với thực tế
- Ngơn ngữ của bài tốn phải ngắn gọn, mạch lạc
2.2.4 Rèn kỹ năng đặt đề toán và giải trong giờ dạy chính khóa
a) Kỹ năng đặt bài toán mới tương tự bài toán đã giải
Từ một bài tốn trong sách giáo khoa, giáo viên trong q trình dạy học yêu cầu
học sinh đặt đề toán mới tương tự bài vừa làm, có thể nâng dần độ khó của bài tập.
Điều này có tác dụng to lớn trong việc giúp học sinh củng cố kiến thức và phát triển tư
duy cho học sinh, giúp trang bị cho các em một cách có hệ thống các kiến thức vừa
học, giúp cho kiến thức của các em được gắn bó chặt chẽ, tránh sự đơn điệu rời rạc,
giúp lôi cuốn các em vào giờ dạy.
Được đặt ra một đề toán mới sẽ kích thích hứng thú, trí tị mị của học sinh. Học
sinh sẽ được thích ứng với hồn cảnh mới, giải bài tốn mới trên nền cũ, khơng rập
khn máy móc. Học sinh biết thay đổi điều chỉnh cách thức, phương pháp giải quyết
vấn đề sao cho phù hợp với nội dung bài tập, điều kiện, hoàn cảnh thực tế, phát triển
tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo.
Ví dụ bài tốn gốc: Có 8 bao gạo cân nặng 243,2kg. Hỏi 12 bao gạo như thế
cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
- Thay đổi đối tượng, số liệu đã cho
Học sinh dựa vào bài toán gốc để thay đổi số liệu đã cho tạo thành bài toán mới
và thực hiện giải tương tự như giải bài tốn gốc. Từ đó giúp các em thực hành giải
toán nhuần nhuyễn hơn, khắc sâu thêm kiến thức và kĩ năng khi chia một số thập phân
cho một số tự nhiên.



Chẳng hạn các em đặt các đề toán sau:
Bài toán 1: Có 6 bao gạo cân nặng 243,2kg. Hỏi 13 bao gạo như thế cân nặng bao
nhiêu ki-lơ-gam?
Bài tốn 2: Có 8 bao gạo cân nặng 196,7kg. Hỏi 12 bao gạo như thế cân nặng bao
nhiêu ki-lơ-gam?
Bài tốn 3: Có 6 bao đựng khoai cân nặng 243,2kg. Hỏi 13 bao như thế cân nặng bao
nhiêu ki-lơ-gam?
Ví dụ 2: Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số em nam bằng

2
số em nữ. Hỏi
5

lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam?
Các em đặt thành bài toán sau: Câu lạc bộ thể dục của trường có 80 bạn, trong
1
2

đó số bạn nữ bằng

1
số bạn nam. Tính số bạn nữ và bạn nam của câu lạc bộ đó?
3

Các em đã đặt đề toán mới bằng cách thay đổi số liệu bài tốn, phức tạp hóa
1
2

thêm quan hệ giữa số bạn nam và số bạn nữ ( số bạn nữ bằng
bài toán 1 (số em nam bằng


1
số bạn nam) so với
3

2
số em nữ), nhờ đó các em phải linh hoạt để phân tích đề
5

tốn mới, biểu diễn mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho rồi giải.
b. Kỹ năng lật ngược đề bài (biến cái đã cho thành cái cần tìm)
GV hướng dẫn học sinh dựa vào bài toán lập thành biểu bảng để đặt đề toán mới:
Trong tình huống này, giáo viên sẽ đưa các số liệu của bài tốn vào một bảng kẻ ơ,
đặt dấu hỏi ở một ô rồi di chuyển dấu hỏi từ ô này sang ô khác, yêu cầu học sinh đặt
các đề tốn phù hợp với số liệu và vị trí của dấu hỏi trong các ơ.
u cầu: Đặt các đề tốn dựa vào bảng tóm tắt sau rồi giải:
Học sinh giỏi
8 em
8 em
?

Tỉ số % HSG so với HS cả lớp
25%
?
25%

HS lớp 5A
?
32 em
32 em


Khi thực hiện yêu cầu trên, ngoài việc các em phải tiến hành các thao tác phân tích,
tổng hợp để xác định các yếu tố của bài toán; so sánh với các dạng bài về tỉ số phần
trăm, hoặc dạng tốn về tìm giá trị của phân số. Tính linh hoạt, sáng tạo thể hiện ở


chỡ các em sẽ đặt được nhiều bài tốn mà vẫn khơng thay đổi bản chất bài tốn.
Chẳng hạn HS có thể đặt các đề tốn như sau:
1. Lớp 5A có 8 HS giỏi, chiếm 25% số học sinh cả lớp. Lớp 5A có tất cả bao nhiêu
học sinh?
2. Lớp 5A có tất cả 32 học sinh, trong đó có 8 em học sinh giỏi. Hỏi số học sinh
giỏi chiếm bao nhiêu phần trăm học sinh cả lớp?
3. Lớp 5A có tất cả cả 32 học sinh, trong đó số học sinh giỏi chiếm 25% số học
sinh cả lớp. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu học sinh giỏi?
4. Lớp 5A có 8 HS giỏi, chiếm

1
số học sinh cả lớp. Lớp 5A có tất cả bao nhiêu
4

học sinh?
5. Lớp 5A có tất cả 32 học sinh, trong đó có 8 em học sinh giỏi. Tìm phân số chỉ
số học sinh giỏi so với học sinh cả lớp, viết phân số đó dưới dạng tỉ số phần
trăm?
6. Lớp 5A có tất cả cả 32 học sinh, trong đó số học sinh giỏi chiếm

1
số học sinh
4


cả lớp. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu học sinh giỏi?
c) Kỹ năng mở rộng đề bài (bổ sung thêm dữ kiện)
Ví dụ bài tốn: Một thửa ruộng hình thang có độ dài hai đáy lần lượt là 156m và
120,5m. Người ta đo được chiều cao của hình thang là 96m. Tính diện tích thửa
ruộng đó.
Học sinh bổ thêm dữ kiện bài toán để tạo thành bài toán mới:
Một thửa ruộng hình thang có độ dài hai đáy lần lượt là 156m và 120,5m. Chiều
cao bằng trung bình cộng của hai đáy. Tính diện tích thửa ruộng đó.
Qua bài tập trên giáo viên đã tác động tư duy của các em, giúp các em phát triển
tư duy phân tích các yếu tố đã cho và tư duy tổng hợp để có lời giải trong một bài tốn
cụ thể. Giúp các em phát triển tư duy so sánh: so sánh giữa các đối tượng trong bài, so
sánh điểm giống và khác nhau giữa các bài tốn. Bên cạnh đó góp phần phát triển thao
tác tư duy tương tự và giúp các em học tập linh hoạt hơn thể hiện qua việc nhận ra
được sự thay đổi trong đề toán mới.
2.2.5 Rèn kỹ năng đặt đề toán và giải trong giờ dạy ngoại khóa
a) Kỹ năng sáng tác đề tốn dựa trên một sơ đồ cho trước:


Đây là tình huống yêu cầu học sinh dựa vào tóm tắt hay sơ đồ đã cho để tự lập
đề tốn, nhằm mục tiêu rèn kĩ năng trình bày diễn đạt, rèn tính mềm dẻo, tính linh
hoạt, tính sáng tạo của tư duy (tích hợp rèn thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, so
sánh, trí tưởng tượng).
Khi đứng trước u cầu đặt đề tốn theo sơ đồ tóm tắt và giải, học sinh phải
phân tích tóm tắt, làm rõ yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm, mối quan hệ giữa các yếu tố,
kết hợp so sánh với tóm tắt của bài toán vừa giải để thấy được điểm giống nhau và
những thay đổi trong tóm tắt mới. Tuy nhiên do đặc trưng của các tóm tắt là mang tính
tổng hợp, tính khái quát cao nên học sinh phải tăng cường suy luận, lập luận, phân tích
mới giải quyết được những yêu cầu đặt ra.
Yêu cầu: Hãy đặt một đề toán theo sơ đồ đã cho dưới đây rồi giải:
?

...................
...................

?
100

...................
?

Quá trình tư duy diễn ra khi học sinh thực hiện yêu cầu trên như sau:
Học sinh phải phân tích các quan hệ đã cho trong sơ đồ, tổng hợp các yếu tố để
phát hiện đối tượng còn thiếu cần hoàn thiện trên sơ đồ và xác định câu hỏi phải trả
lời. So sánh với các dạng bài đã biết để nhận dạng bài tốn theo sơ đồ tóm tắt; tưởng
tượng về một tình huống thực tiễn có thể có và diễn đạt thành bài toán; thực hiện các
suy luận, lập luận trong bài giải. Tính linh hoạt, tính mềm dẻo, tính sáng tạo của tư
duy thể hiện ở chỡ các em đưa ra được nhiều bài toán khác nhau từ một sơ đồ trên.
Chẳng hạn học sinh có thể đặt như sau: Một cửa hàng bán gạo, số gạo bán
được trong ngày đầu gấp hai lần số gạo bán được trong ngày thứ hai, số gạo bán
được trong ngày thứ hai bằng

1
số gạo bán được trong ngày thứ ba. Hỏi cửa hàng đó
3

bán được bao nhiêu kg gạo mỗi ngày biết rằng ngày thứ hai và ngày thứ ba bán được
100 yến gạo?


Qua các ví dụ trên ta thấy, khi dạy học giáo viên chú ý đến việc giúp các em tự
đặt đề toán và giải sẽ giúp các em phát triển tư duy phân tích sơ đồ tóm tắt, tổng hợp

viết thành đề toán, tổng hợp viết lời giải theo đề tốn đã đặt. Phát triển ngơn ngữ diễn
đạt, trình bày. Phát triển trí tưởng tượng tình huống phù hợp với thực tiễn và diễn đạt
thành đề tốn. Bên cạnh đó cịn giúp các em phát triển trí sáng tạo đặt nhiều đề toán từ
sơ đồ đã cho.


b) Kỹ năng sáng tác bài toán từ một dãy tính gộp:
Tình huống đưa ra ở đây là một dãy tính gộp, học sinh sẽ dựa vào dãy tính đó
để đặt các đề tốn. Ví dụ về một tình huống cụ thể:
Em hãy sáng tác bài tốn từ dãy tính sau:

3,5 × ( 9 + 11) : 2

Khi học sinh thực hiện nhiệm vụ trên, các thao tác tư duy phân tích được tiến
hành trên dãy tính đã cho để tách dãy tính thành ba phép tính (9 +11= 20; 3,5 x 20 =
70 và 70 : 2 = 35); thao tác tổng hợp để gộp ba phép tính đó vào một bài tốn; tưởng
tượng để hình dung ra các tình huống thực tiễn; sáng tạo, linh hoạt trong việc đưa ra
được nhiều bài toán phù hợp với yêu cầu. Chẳng hạn:

Học sinh cũng đã đặt như sau:


Giáo viên trong q trình dạy các tiết ngoại khóa có thể rèn kỹ năng tự đặt đề
tốn và giải cho học sinh bằng cách tổ chức cho các em thi đặt đề toán và giải xem đội
nào đặt đúng, nhanh nhất là đội chiến thắng, hoặc cũng có thể tổ chức thành trò chơi
học tập cho các em, giúp các em vừa học vừa chơi, kích thích hứng thú học và nâng
cao niềm u thích tốn học cho các em.
2.2.6 Một số lưu ý khi rèn cho học sinh kỹ năng đặt đề toán và giải
- Cần thường xuyên lưu ý đến việc tạo cơ hội cho các em tự đặt đề tốn và giải,
có thể xem đây như là một quy trình khơng thể thiếu trong dạy tốn.

- Cần cho các em tắm mình trong các hoạt động tốn học, tổ chức các buổi
ngoại khóa, trị chơi học tập cho các em rèn luyện thêm về kỹ năng tự đặt đề toán và
giải.
- Giáo viên cần dự đoán được những khó khăn của các em để có những tác
động và hỗ trợ kịp thời
- Giáo viên không nên dẫn dắt quá sâu mà chỉ gợi mở để các em hiểu yêu cầu
và sáng tạo ra những tình huống phù hợp với yêu cầu
- Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh: Giáo viên
phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu
kém. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát
triển kỹ năng tự đặt đề toán và giải
- Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học: bởi vì khơng có
phương pháp nào là “vạn năng”. Chỉ có sự tìm tịi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài dạy, tạo hứng thú cho
các em.
- Thường xuyên động viên, khích lệ, tuyên dương khi các em đặt được đề toán
tốt và giải đúng. Tạo khơng khí lớp học thân thiện, sơi nổi, thi đua học tập giữa các em
để các em học tập tiến bộ.


3. Kết luận chung
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng việc khuyến khích học sinh tự đặt
đề toán là yêu cầu cần thiết, mang tính đặc thù của dạy học tốn Tiểu học, nó có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, giúp các em
học tập tích cực và hứng thú hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở Tiểu
học.
Để học sinh tự đặt được đề toán, các em phải huy động tồn bộ vốn kiến thức
tốn học mà các em đã có về nội dung đó để có thể đưa ra các dữ kiện, các mối quan
hệ và đặt câu hỏi một cách hợp lý. Việc làm đó sẽ giúp các em nắm được ba yếu tố cơ

bản của bài toán (cái đã cho, cái phải tìm, các mối quan hệ), nhờ đó mà các em nhận
thức được cấu trúc tốn học của bài toán. Hơn thế nữa, khi học sinh tự đặt đề toán là
khi các em được đứng ở vị trí cao hơn. Ở vị trí này, các em có thể nhìn bài tốn một
cách tổng qt hơn, sâu sắc hơn. Để thực hiện việc này đòi hỏi người giáo viên phải
có cách định hướng đúng đắn để học sinh tìm tịi, sáng tạo.
3.2. Một vài đề xuất:
Bản thân tôi cũng như các giáo viên trong khối mong muốn BGH nhà trường,
Phòng GD-ĐT Huyện giúp đỡ:
- Trang bị đầy đủ hơn các đồ dùng dạy học phục vụ cho mơn Tốn
- Tổ chức những buổi chun đề dạy học nhằm mục đích rèn cho học sinh lớp 5
kỹ năng tự đặt đề tốn và giải để chúng tơi được học hỏi kinh nghiệm.
- Tổ chức hội thảo những sáng kiến kinh nghiệm hay có hiệu quả cho giáo viên
học hỏi rút kinh nghiệm.
Trên đây là một vài biện pháp có thể coi là kinh nghiệm của bản thân tơi trong
thời gian qua, đó cũng là những gì tơi rút ra từ thực tế giảng dạy. Tôi cũng mạnh dạn
đưa ra, mong muốn nhận sự góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học giúp tơi có nhiều
biện pháp tốt hơn để thực hiện tốt việc dạy học toán ở trường tiểu học cụ thể là ở lớp 5
áp dụng trong thời gian tới, đáp ứng mục tiêu mà Bộ GD-ĐT đã đề ra.
Tuy đã có rất nhiều cố gắng, nhưng do năng lực của bản thân còn hạn chế, thực
hiện đề tài trong quỹ thời gian hạn hẹp nên đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót.


Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học để nội dung nghiên
cứu của đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cám ơn!



×