Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) rèn luyện, nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản trong đề thi THPT quốc gia cho học sinh trung tâm GDNN GDTX tam đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.67 KB, 33 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu.
Giáo dục phổ thơng có vị trí hết sức quan trọng, mang tính nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân.Trong chương trình giáo dục, mơn Ngữ văn là một mơn
học có vai trị quan trọng khơng chỉ giúp học sinh trau dồi kiến thức, rèn luyện
tư duy mà cịn góp phần vào q trình hình thành, phát triển các năng lực cần
thiết cho các em.
Đề án đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa (CT&SGK) giáo dục phổ
thông sau 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển Chương
trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một
cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động
cơ cá nhân, … nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong
bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm
chất của người lao động, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thông qua các hoạt
động của cá nhân nhằm thực hiện một loại cơng việc nào đó.
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thơng qua
Nghị quyết 29 - NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và Đào tạo, đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Xác định được nhiệm vụ quan trọng
đó nên trong những năm qua, Bộ giáo dục đã không ngừng đưa ra những giải
pháp mang tính cải tiến: đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới kiểm tra
đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học...
Bộ mơn ngữ văn trong chương trình SGK mang lại hai giá trị/ lĩnh vực: nghệ
thuật và khoa học. Ngày 01/4/2014, Bộ GD&ĐT đã có cơng văn hướng dẫn tổ
chức thi tốt nghiệp THPT năm 2014, trong đó có sự thay đổi cấu trúc đề thi môn
Ngữ văn so với các năm trước. Đề thi môn gồm 2 phần: Đọc hiểu và làm văn
nhằm đánh giá năng lực học sinh và tập trung vào hai kỹ năng quan trọng: kỹ
năng đọc hiểu văn và và kỹ năng tạo lập văn bản (viết văn bản). Đây là hướng đổi
mới trong công tác kiểm tra, đánh giá người học, chuyển từ kiểm tra đánh giá sự

1




ghi nhớ kiến thức sang đánh giá năng lực của HS.Từ năm 2014 trở đi, Đọc hiểu
được xem là một bộ phận không thể thiếu của đề thi môn Ngữ văn. Sau một vài
lúng túng ban đầu về cách ra đề, về phía người dạy và phía thí sinh làm bài thi,
phần Đọc hiểu cho đến nay diễn ra suôn sẻ và càng ngày chúng ta càng nhận thức
được rằng đọc hiểu là một năng lực thiết yếu trong thời đại ngày nay. Khơng rèn
cho mình được năng lực đọc hiểu, con người sẽ tự đánh mất cơ hội tiếp nhận tri
thức khổng lồ của nhân loại, sẽ không thực hiện được phương châm, mục tiêu học
tập suốt đời, không tiến bộ trong hoạt động giao tiếp, hợp tác...
Đối với HS khối GDTX nói chung và học sinh của Trung tâm GDTX&DN
Tam Đảo nói riêng, kỹ năng làm bài đọc hiểu của các em còn hạn chế. Do mặt
bằng chung kiến thức còn thấp, tinh thần tự giác chưa cao. Kiến thức cho phần
đọc hiểu bao trùm các cấp học. Trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia, với phần
đọc hiểu HS có cơ hội lấy điểm nhiều hơn, cho nên việc trang bị cho HS kỹ
năng làm bài đọc hiểu không chỉ giúp HS nâng cao số điểm bài thi mà còn giúp
nâng cao năng lực lĩnh hội văn bản. Vì vậy, hầu hết GV khơng thể bỏ qua hoặc
coi nhẹ phần kiến thức này.
2. Tên sáng kiến:
Rèn luyện, nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản trong đề thi THPT
quốc gia cho học sinh Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Tạ Thị Thanh Hòa
- Địa chỉ: Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo
- Số điện thoại: 0915696603

Email:

4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Áp dụng cho học sinh cấp THPT, hướng dẫn, rèn luyện kỹ năng đọc hiểu, cách

làm bài thi phần Đọc hiểu trong đề thi THPT quốc gia.
- Hỗ trợ giáo viên có thêm tài liệu trong q trình ơn tập cho học sinh.
5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 27/12/2015
6. Mô tả bản chất của sáng kiến:
6.1. Nội dung sáng kiến:

2


Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH
1.1.

Cơ sở lí luận

1.1.1. Năng lực và năng lực đọc hiểu văn bản
1.1.1.1. Khái niệm năng lực
Năng lực là một khái niệm then chốt chi phối việc đổi mới căn bản
chương trình giáo dục mới. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp
cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê
chủ biên có giải thích: Năng lực là:“ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo
cho con người khả năng hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao”.
Tài liệu tập huấn về dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 nhấn
mạnh: “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ
chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm
đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất
định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của

người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động
của cá nhân nhằm thực hiện một loại cơng việc nào đó. Năng lực bao gồm các
yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi cơng dân đều cần phải có, đó là
các năng lực chung,cốt lõi”.
Định hướng chương trình giáo dục phổ thơng(GDPT) sau năm 2015 đã
xác định một số năng lực những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải
có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực quản lý bản thân

3


- Năng lực xã hội, bao gồm:
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
- Năng lực công cụ, bao gồm:
+ Năng lực tính tốn
+ Năng lực sử dụng ngơn ngữ
+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ICT)
Trong định hướng phát triển chương trình sau 2015, mơn Ngữ văn được
coi là mơn học cơng cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực
thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của
mơn học; ngồi ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực
chung) cũng đóng vai trị quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học
của mơn học.

Có nhiều cách hiểu về năng lực Ngữ văn. Căn cứ vào mục tiêu, tính chất
và nội dung chương trình mơn học này từ trước đến nay; từ cách hiểu chung về
năng lực, có thể nói năng lực Ngữ văn là trình độ vận dụng các kiến thức, kĩ
năng cơ bản về văn học và tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong cuộc sống.
Năng lực Ngữ văn gồm 2 năng lực bộ phận là: Năng lực tiếp nhận văn bản và
Năng lực tạo lập văn bản.
Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các thơng
tin chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái đẹp của văn bản,
nhất là văn bản văn học. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết cách tiếp
nhận. Tức là dựa vào những yếu tố, cơ sở nào (từ, ngữ, câu, đoạn, hình ảnh, biểu
tượng, số liệu, sự kiện, tiêu đề, dấu câu…) để có thể có được các thơng tin và
cách hiểu ấy.
1.1.1.2. Khái niệm Đọc hiểu
Việc đưa phần Đọc - hiểu vào đề thi môn Ngữ văn được thực hiện cách
đây chưa lâu nhưng thực ta khái niệm đọc hiểu đã trở nên quen thuộc với nhà
trường đặc biệt là bậc trung học từ năm 2000, khi chương trình Ngữ văn hiện

4


hành được công bố. Việc thực hành dạy học theo bộ SGK Ngữ văn tích hợp,
khái niệm đọc hiểu đã được tiếp nhận như là dấu hiệu rõ rệt nhất của việc đổi
mới nội dng và phương pháp dạy học.
Đọc là hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ
viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc. Có thể
đọc thành tiếng hoặc đọc bằng mắt. Còn hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên
hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghãi của mối quan hệ đó. Hiểu
cịn là sự bao quát tất cả nội dung và có thể vận dụng vào đời sống. Mọi hệ quả
tốt đẹp của văn học đều bắt nguồn từ hiểu mà ra. Hiểu sai, hiểu lệch, hiểu chưa
tới, hiểu ngược với ý tác giả thì mọi hậu quả tiếp theo khơng thể hình dung hết.

Đối với văn chương mà đọc khơng hiểu thì sẽ khơng có gì cả. Một trong những
lí do làm cho học sinh ngại học văn, chưa rung cảm với văn, chưa yêu văn, chưa
chăm học văn là do chưa hiểu văn, cảm thấy văn khó hiểu, khó nắm bắt. Do đó
nhiệm vụ hàng đầu của mơn ngữ văn là dạy học sinh đọc hiểu văn. Ngồi nhà
trường, nói chung khơng đâu người ta dạy học sinh đọc hiểu văn một cách có bài
bản.
Từ đó ta có thể khái quát đọc hiểu văn bản tức là thông qua hoạt động dọc
để hình thành những năng lực giải thích, phân tích, khái quát, bình luận đúng sai
về logic, tức là kết hợp với khả năng tư duy và biểu đạt.
Khái niệm đọc hiểu không cho phép ta dạy học văn như cũ mà đòi hỏi
phải thay đổi quan niệm dạy ngữ văn và phương pháp dạy học ngữ văn. Giảng
văn chỉ mới là giải thích, phân tích văn bản, chưa bao gồm sự hiểu của học sinh.
Đọc hiểu là hoạt động của HS, là một khái niệm sâu sắc, phong phú, nhiều mặt
và chắc chắn sẽ cịn có nhiều kiến giải khác nữa. Tuy nhiên với khái niệm này,
muốn dạy đọc hiểu văn học cho học sinh, đào tạo năng lực đọc hiểu cho các em
để các em có thể tự học và tự học suốt đời nhất thiết phải nghiên cứu đổi mới
các thao tác dạy học Ngữ văn một cách thấu đáo, khoa học, hệ thống, mới mong
có hiệu quả. Các phương pháp truyền thống vẫn có thể được sử dụng, nhưng
phải đặt trong hệ thống mới, hoà với mục tiêu mới. Đó sẽ là những điều mà các
nhà nghiên cứu phương pháp dạy ngữ văn, các giáo viên văn không thể không

5


suy nghĩ để thực sự đổi mới phương pháp dạy ngữ văn hiện nay.Đọc hiểu văn
bản có các cấp độ:
- Đọc tái hiện
- Đọc giải thích
- Đọc sáng tạo
- Đọc nghiên cứu

- Đọc suy ngẫm và liên tưởng
Dựa vào kết quả q trình đọc hiểu, giáo viên có thể đánh giá năng lực
thực sự của học sinh.
1.1.2. Mục tiêu của các văn bản đọc hiểu
Mục tiêu và yêu cầu của phần đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn, thứ
nhất là kiểm tra, đánh giá kiếm thức về Tiếng Việt, kiến thức về đặc điểm tổ
chức của văn bản ngôn từ nói chung bao gồm trong đó kiến thức về ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp; kiến thức về các phong cách ngôn ngữ, các thể loại, các phương
thức biểu đạt, các phép tu từ, kiểu câu,phép liên kết, thao tác lập luận… Những
kiến thức này vừa được hình thành một cách tự nhiên từ hoạt động giao tiếp xã
hội, vừa được bồi dưỡng thường xuyên thong qua hoạt động học tập trong nhà
trường.
Thứ hai, kiểm tra, đánh giá khả năng huy động tổng hợp các kiến thức
trên để nắm bắt thong tin, thơng điệp của văn bản và đánh gía được văn bản một
cách sơ bộ.
Thứ ba, kiểm tra đánh giá khả năng chủ động tạo nên mối liên kết giữa
văn bản đọc hiểu với cuộc đời rộng lớn, khả năng triển khai được các vấn đề đặt
ra trong văn bản và vận dụng tốt những điều thu nhận được từ văn bản vào việc
điều chỉnh quan niệm, nhận thức, thái độ, hành vi của bản thân.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung đề án đổi mới chương trình và SGK
Một trong những định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đẳng
lần thứ XI đã nêu là “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và
phát triển nhanh giáo dục đào tạo”, trong đó nhấn mạnh vào việc đổi mới mãnh

6


mẽ nội dung và phương pháp, chương trình dạy và học ở tất cả cá cấp, các bậc
học.

Theo Đề án được phê duyệt, chương trình mới, SGK mới được xây dựng
theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả phẩm chất
và năng lực. Bên cạnh đó là chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, đạo đức, nhân cách, lối sống; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho mỗi học sinh. Đồng thời tăng cường năng lực ngoại ngữ,
tin học, kỹ năng sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Chương trình SGK mới xây dựng trên nguyên tắc lấy HS làm trung tâm,
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của HS, đồng thời
tăng cường tính tương tác trong dạy học giữa thầy và trò, trò với trò, giáo viên
với giáo viên.
1.2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn và dạy học đọc hiểu trong nhà
trường THPT hiện nay.
Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện
nay: dạy học đọc chép, dạy nhồi nhét, học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo,
thiếu hứng thú đam mê...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu
hào hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại
khoa học công nghệ, dể hiểu là đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học
tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đơng HS nghĩ
rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết
đọc, biết nói cho nên học văn khơng thiết thực. Có thể đó là lí do làm cho đa số
HS khơng cố gắng học ngữ văn.
Về phía giáo viên, xã hội ta là xã hội tư duy theo kiểu giáo điều đã lâu
năm, không biết đối thoại, không cho đối thoại, thậm chí theo lối phong kiến
xưa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe. Xã hội như
thế thì nhà trường như thế khơng sao khác được. Nếu trong giờ học mà tổ chức

7



đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì nhà trường như
vậy. Nếu khơng thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục.
Thực trạng dạy học văn như trên không phải do một lí do cục bộ nào,
khơng phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, khơng cố gắng, mà chủ yếu là
do vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chung
và dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc
biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hô
hào mà chưa thực sự có quan niệm mới về dạy học, tập trung ở mấy nguyên
nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng.
Văn học trong nhà trường được gọi là mơn “Văn học trích giảng”, “Văn học
giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”.
Việc dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”.
Giáo án soạn ra là để cho GV “giảng”, biểu diễn trên lớp. Khái niệm “đọc” chỉ
được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà khơng thấy nói là đọc hiểu. Đối
với phân mơn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm theo những
đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện
những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Đề thi ra theo dạng tái hiện kiến
thức, ghi nhớ.
Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS
phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi
vì bản chất của quá trình dạy học là quá trình “dạy” của GV và q trình “học”
của HS. Q trình học tập khơng phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp
từ ngồi vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu
mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất khơng phải là học thuộc
mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngồi và của
hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời,
học xong là quên ngay, không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không
trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.


8


Thứ ba, chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho
các em tính chủ động trong học tập. Coi HS là chủ thể của hoạt động học tập của
mình thì HS phải là người chủ thể trong các hoạt động học tập, là người chủ
động kiến tạo các kiến thức của mình mà GV chỉ là người tổ chức các hoạt động
học tập cho HS. Giáo án của GV phải là kế hoạch hoạt động của HS để tự kiến
tạo kiến thức, chứ không phải là Giáo án để GV giảng và bình ở trên lớp.
Thứ tư, chúng ta chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc
văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học
văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì HS
khơng phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu
chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới
nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội
hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học
chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức. Đọc khơng
hiểu thì khơng có gì để cảm thụ cả.
Thứ năm, do chưa có khái niệm đọc cho nên chưa có hệ thống biện pháp
dạy đọc văn hữu hiệu và hoàn chỉnh. Ngoài việc đọc thành tiếng và đọc diễn
cảm, chúng ta hầu như chỉ có các khái niệm giảng, bình, phân tích, bình chú, nêu
câu hỏi…
Thứ sáu, về dạy học làm văn nghị luận chủ yếu vẫn là dạy làm văn theo
đề sẵn và văn mẫu của bộ đề. Mà nghị luận ở đây chủ yếu là nghị luận văn học,
xoay quanh mấy bài văn học ở lớp 12, thiếu hẳn văn nghi luận xã hội. Thiếu hẳn
việc bình luận các tác phẩm chưa học nhưng tương tự như tác phẩm đã học để
buộc học sinh động não, không sử dụng trí nhớ máy móc.
Thứ bảy, chấm bài làm văn phần nhiều qua loa, chỉ cốt cho điểm là chính.
Phần nhiều coi nhẹ khâu chữa bài và hướng dẫn HS tự sửa bài để nâng cao kĩ

năng làm văn.
Thứ tám, dạy tiếng Việt thì nặng về dạy lí thuyết, ít thực hành.
Tất cả những biểu hiện nêu trên là hệ quả của sự lạc hậu về phương pháp
tổng thể, kéo dài, chậm khắc phục. Hậu quả của nó khơng chỉ làm giảm sút hiệu

9


quả giáo dục, mà hơn thế, cịn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học sinh trơ
lì , chán học, làm mịn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Vì vậy, dạng đề Đọc hiểu đưa
ra trong các kỳ thi đã phần nào hạn chế tình trạng học thụ động, ghi nhớ máy
móc của HS, giúp Gv kiểm tra, đánh giá được năng lực thực sự của các em.
1.2.3. Câu hỏi đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn những năm gần đây
Đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn năm học 2013-2014 đánh dấu bước
đổi mới trong cách ra đề, kiểm tra đánh giá của Bộ GD&ĐT. Đề thi mơn Ngữ
văn phần bắt buộc có thêm phần Đọc hiểu (chiếm 3/10 điểm toàn bài). Trong đề
thi tuyển sinh Cao đẳng, Đại học khối C, D năm 2014, phần Đọc hiểu chiếm
2/10 điểm toàn bài.
Năm 2015, kỳ thi THPT quốc gia được tổ chức với mục đích vừa xét tốt
nghiệp và vừa lấy kết quả xét tuyển Cao đẳng, Đại học, phần Đọc hiểu cũng
chiếm 3/10 điểm với 8 câu hỏi nhỏ trong 2 văn bản (thơ, văn xuôi). Năm 2016,
cấu trúc đề thi môn ngữ văn cũng khơng có gì thay đổi so với năm trước.
Kỳ thi THPT quốc gia năm 2017, nghiên cứu đề thi minh họa của Bộ
GD&ĐT có thể thấy, thời lượng thi mơn Ngữ văn rút xuống cịn 120 phút
( những năm trước là 180 phút) , cấu trúc đề thi vẫn như những năm trước
nhưng phần Đọc hiểu chỉ tập trung vào một văn bản với 4 câu hỏi nhỏ.
Như vậy, dạng câu hỏi đọc hiểu đã xuất hiện thường niên trong đề thi tốt
nghiệp, Cao đẳng, Đại học những năm gần đây. Thậm chí trong các nhà trường
phổ thong, dạng đề này cũng đã trở nên quen thuộc mà giáo viên sử dụng cho
các bài kiểm tra thường xuyên, định kì.

Với HS khối GDTX nói chung và HS của Trung tâm GDTX&DN Tam
Đảo nói riêng, năng lực đọc hiểu văn bản văn học còn rất kém. Nguyên nhân
xuất phát từ hai phía: người dạy (GV) và người học (HS). Học sinh đa phần có
xuất phát điểm, mặt bằng kiến thức, năng lực tự học yếu kém. Về phía người
dạy cịn thiếu kỹ năng, phương pháp. Trong kì thi THPT quốc gia, phần Đọc
hiểu chiếm 3,0 điểm, nếu GV có kỹ năng, phương pháp tốt thì sẽ giúp HS đạt
điểm một cách dễ dàng. Vì vậy, vấn đề đặt ra làm làm sao nâng cao năng lực đọc

10


điểu cho học sinh phục vụ cho các kỳ thi mà còn giúp các em rèn luyện năng lực
của bản thân: giao tiếp, hợp tác...
Chương II: GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN, NÂNG CAO NĂNG LỰC
ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH TRUNG TÂM GDTX&DN TAM ĐẢO
2.1. Xác định được đặc điểm chung của các văn bản đọc hiểu
Văn bản đọc hiểu trong đề thi THPT quốc gia được lấy từ nhiều nguồn
khác nhau, thuộc nhiều thể loại, phong cách ngôn ngữ khác nhau và nội dung
cũng vô cùng đa dạng. Về cơ bản, trước hết, văn bản đọc hiểu không quá dài,
làm cơ sở cho việc đánh giá phản ứng trực tiếp của học sinh trước một đối tượng
hiện hữu, có thể là chưa từng gặp.
Văn bản đọc hiểu phải đạt chuẩn về cả nội dung và hình thức nhưng
khơng nhất thiết phải là một sáng tác xuất sắc, bởi phần Đọc hiểu không đặt ra
hoặc không chú trọng yêu cầu thưởng thức nghẹ thuật.
Văn bản đọc hiểu phải tạo ra cơ sở thuận lợi cho việc kiểm tra, đánh giá
khả năng thu thập thơng tin, phân tích, kí giải văn bản; phản hồi và đánh giá của
HS. Đồng thời, văn bản đọc hiểu tất yếu phải được xuất hiện cùng với hệ thống
câu hỏi đa dạng với độ khó khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận
dụng cao).
2.2. Xác định cấu trúc của phần Đọc hiểu

Phần Đọc hiểu của đề thi THPT quốc gia năm 2015:
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Chúng tôi đứng đây trần trụi giữa trời
Cho biển cả không còn hoang lạnh
Đứa ở đồng chua
Đứa vùng đất mặn
Chia nhau nỗi nhớ nhà
Hồng hơn tím ngát xa khơi
Chia nhau tin vui
Về một cô gái làng khểnh răng, hay hát
Vầng trăng lặn dưới chân lều bạt

11


Hắt lên chúng tơi nhếnh nhống vàng
Chúng tơi coi thường gian nan
Dù đồng đội tơi, có người ngã trước miệng cá mập
Có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn
Ngày mai đảo sẽ nhô lên
Tổ quốc Việt Nam, một lần nữa nối liền
Hoàng Sa, Trường Sa
Những quần đảo long lanh như ngọc dát
Nói chẳng đủ đâu, tơi phải hát
Một bài ca bằng nhịp trái tim tôi
Đảo à, đảo ơi!
Đảo Thuyền Chài, 4 - 1982 (Trích Hát về một
hịn đảo - Trần Đăng Khoa, Trường Sa, NXB Văn học, 2014, tr.51)
Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy trên đảo của người lính được miêu tả

qua những từ ngữ, hình ảnh nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ:
Những quần đảo long lanh như ngọc dát.
Câu 4. Đoạn thơ đã gợi cho anh/chị tình cảm gì đối với những người lính đảo?
(Trình bày khoảng 5 đến 7 dịng)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
Hội chứng vơ cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm
vui, nhất là nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu
trúc bản chất Con - Người của mỗi sinh thể người. Tính “con” và tính “người”
ln ln hình thành, phát triển ở mỗi con người từ khi lọt lịng mẹ cho đến khi
nhắm mắt xi tay. Cái thiện và cái ác luôn luôn song hành theo từng bước đi,
qua từng cử chỉ, hành vi của mỗi con người trong mối quan hệ với cộng đồng,
với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, bà con làng xóm, đồng bào, đồng loại. Trong
cuộc hành trình lâu dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái được không
phải đã được nhận ra một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn, mất

12


một phần cơ thể, mất một vật sở hữu, con người nhận biết ngay. Nhưng có
những cái mất, cái được nhiều khi lại khơng dễ gì cảm nhận được ngay. Nhường
bước cho một cụ già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe
chật chội, biếu một vài đồng cho người hành khất,... có mất có được nhưng
khơng phải ai cũng đã nhận ra cái gì mình đã thu được; có khi là sự thăng hoa
trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói như một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi
tiền rỗng đi nhưng lại khơng biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần.
Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sự báo động những hiểm họa trông thấy, cần
báo động cả hiểm họa khơng trơng thấy hay khó trơng thấy. Hiện nay đã có quá
nhiều dấu hiệu và sự kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất
là trong tuổi trẻ. 1/2 Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng ngày gần đây

báo hiệu nguồn gốc sâu xa ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh
vơ cảm.
(Trích Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa, Bài tập Ngữ văn 12, Tập
một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr.36-37)
Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 6. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?
Câu 7. Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội
hiện nay?
Câu 8. Anh/Chị suy nghĩ như thế nào khi có những người “chỉ lo túi tiền rỗng đi
nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khơ héo dần”? (Trình bày
khoảng 5 đến 7 dịng)
Nhìn vào đề thi THPT quốc gia 2015, có thể thấy, dạng bài đọc hiểu được
chia thành hai phần nhỏ: Nêu văn bản và nêu yêu cầu đọc hiểu với một hệ thống
câu hỏi mang nhiều tính chất, thuộc tính khác nhau, hướng tới kiểm tra mức độ
nhận biết, thông hiểu, vận dụng của HS. Số lượng câu hỏi tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể, độ phức tạp của văn bản.
Văn bản được đưa ra có thể là thơ, văn xi (gồm cả văn bản hồn chỉnh,
đoạn văn, đoạn thơ) lấy từ những nguồn khác nhau trong hoặc ngồi chương
trình SGK ( thường là ngồi chương trình SGK) như sách báo, Internet… nội

13


dung bàn về một vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật,khoa
học…;thuộc hai dạng:văn bản văn học và văn bản thông tin; được viết theo
phong cách ngôn ngữ mà HS THPT đã học.
2.3. Xác định được những dạng câu hỏi thường gặp ở phần Đọc hiểu
Hiện nay, đọc hiểu văn học trong nhà trường THPT thường hướng tới các
vấn đề:
- Nhận biết đúng, chính xác về văn bản

+ Thể loại của văn bản (các PCNN)
+ Đề tài, nhan đề, chủ đề, tóm tắt nội dung chính của văn bản
+ Nhận diện cac phương thức biểu đạt, thao tác lập luận…
- Thông hiểu, đánh giá đúng văn bản
+ Cảm nhận được những đặc sắc, nổi bật của văn bản: từ ngữ, chi tiết,
hình ảnh, biện pháp tu từ…
+ Hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của văn bản, đánh giá nội dung, ý nghĩa của
văn bản bằng kiến thức, kinh nghiệm của mình.
- Vận dụng văn bản để giải quyết một vấn đề cụ thể
+ Liên hệ mở rộng một vấn đề nào đó từ văn bản bằng suy nghĩ, ý kiến
của mình.
+ Vận dụng văn bản để trình bày phương hướng, biện pháp giải quyết một
vấn đề cụ thể của cuộc sống, xã hội.
Như vậy có thể khái quát phần Đọc hiểu tập trung vào ba dạng câu hỏi
chủ yếu:
- Câu hỏi nêu nội dung chính (chủ đề, thông điệp, sự kiện…) của văn bản.
- Câu hỏi kiểm tra kiến thức tiếng Việt, làm văn: Câu hỏi yêu cầu nhận
diện, nêu, làm sáng tỏ một đặc điểm hình thức nào đó (phong cách ngơn ngữ,
phương thức biểu đạt, biện pháp tu từ, thao tác lập luận, phép liên kết, kiểu câu,
thể loại…)
- Câu hỏi yêu cầu bày tỏ thái độ, cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề được gợi
lên từ văn bản.

14


2.4. Hệ thống một số kiến thức trọng tâm và định hướng kỹ năng làm bài
đọc hiểu
2.4.1. Dạng câu hỏi nêu nội dung chính, các thơng tin quan trọng của văn
bản

Loại đề này địi hỏi HS kỹ năng tóm tắt văn bản, trình bày mạch lạc, bám
sát văn bản gốc. Đồng thời, phải hiểu được ý nghĩa của những khái niệm quan
trọng trong ngữ liệu.
Ví dụ: Văn bản sau nói về vấn đề gì ? Đặt tên cho văn bản…
“Ở người lớn tuổi ít vận động cơ bắp, nếu chế độ ăn giàu chất colesteron
(thịt, trứng, sữa...) sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này,
colesteron ngấm vào thành mạch kèm theo các ion canxi làm cho mạch bị hẹp
lại, khơng cịn nhẵn như trước, xơ cứng và vữa ra.
Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch khó khăn, tiểu
cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đơng gây tắc mạch. Động mạch xơ vữa còn
dễ bị vỡ gây các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm
chí gây chết người”. (Sinh học - lớp 8. NXB Giáo Dục 2007)
- Đối với ví dụ trên, ta thấy: đoạn văn nói đến căn bệnh xơ vữa động mạch
và nguyên nhân dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch. Vì vậy ta có thể đặt tên cho
đoạn văn bản đó là: “Bệnh xơ vữa động mạch và hậu quả của nó” hoặc “Đề
phịng với xơ vữa động mạch”.
Cách đọc và nhận biết văn bản đối với dạng câu hỏi này:
+ Đọc kỹ đoạn văn bản của đề ra.
+ Tìm và gạch dưới những từ /cụm từ nào được lặp đi lặp lại nhiều lần
văn bản ( đây là những từ mà người viết có ý nhấn mạnh thơng tin muốn nói).
Tiếp đó cần tìm ra mối liên hệ giữa các nhóm từ/cụm từ đó để đưa ra xét đoán về
chủ đề, nội dung văn bản.
+ Nếu gặp những văn bản có cách tổ chức khác với văn bản kể trên, HS
cần chú ý đặc biệt đến những câu mở đầu hoặc những câu nằm ở phần kết thúc.
Chúng có thể là những câu chủ đề hoặc là những câu có ý thâu tóm vấn đề được
trình bày.

15



+ HS cũng cần quan tâm tới phần ghi xuất xứ của văn bản. Trong phần ấy,
người ta cũng có thể nêu tên văn bản gốc chứa đựng đoạn văn được dẫn trong
đề.


Từ đó xác định được nội dung chính của đoạn văn bản và đề xuất cách đặt

tên cho văn bản.
2.4.2. Dạng câu hỏi kiểm tra kiến thức tiếng Việt, làm văn.
2.4.2.1. Nhận diện các lỗi sai trong văn bản :
- Lỗi về câu (lỗi cấu tạo câu; lỗi dấu câu; lỗi liên kết câu)
- Lỗi về từ (lặp từ; từ không đúng nghĩa; từ không phù hợp phong cách)
- Lỗi đoạn văn (lỗi về nỗi dung; lỗi về hình thức )
- Lỗi chính tả (lỗi do phát âm; lỗi do khơng nắm vững quy tắc chính tả )
Trong một văn bản khơng chỉ có một loại lỗi mà thường xuất hiện đồng
thời nhiều loại lỗi.
* Kỹ năng xác định lỗi trong đoạn văn bản:
- Đọc kỹ văn bản. Xác định nội dung và thể loại, phong cách văn bản .
- Phân tích cấu tạo câu (các thành phần của câu)
- Xem xét vị trí các câu và sự liên kết câu trong văn bản.
- Xem xét về lỗi chính tả và cách sử dụng từ ngữ.
Ví dụ: Đọc đoạn văn bản sau đồng thời anh, chị hãy chỉ ra những sai sót
về ngữ pháp, chính tả, cách dùng từ, tính logic...trong đoạn văn đó :
“... cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có linh
hồn với những tính cách đối địch: vừa hung bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân
cách hóa những đặc điểm vốn có của giịng sơng thiên nhiên mà chực quan có
thể nhìn thấy”.
- Cách phát hiện lỗi sai :Với hình thức hỏi như trên, sau khi đã đọc kỹ
văn bản, xác định được cấu tạo câu và sự liên kết câu cũng như thể loại, phong
cách ngôn ngữ và hình thức chính tả và cách trình bày,cách dùng từ ,chữ viết.. ta

có thể trả lời như sau:
+ Sai ngữ pháp: Câu thứ nhất trong đoạn văn. Sai chính tả: dữ rằn; giịng
sơng; chực quan
16


+ Dùng từ sai: đối địch. Sai logic: vừa hung bạo, vừa dữ dằn.
2.4.2.2. Phong cách ngôn ngữ (PCNN)
Trong chương trình Ngữ văn THPT có đề cập tới phong cách ngôn ngữ:
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn 10);
phong cách ngôn ngữ báo chí, phong cách ngơn ngữ chính luận ( Ngữ văn 11);
Phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính ( Ngữ văn 12)
Ví dụ : Văn bản sau đây được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
“Dịch bệnh E-bơ-la ngày càng trở thành “thách thức” khó hóa giải.
Hiện đã có hơn 4000 người tử vong trong tổng số hơn 8000 ca nhiễm vi rút Ebô-la. Ở năm quốc gia Tây Phi. Hàng nghìn trẻ em rơi vào cảnh mồ cơi vì E-bơla. Tại sao Li-bê-ri-a, cuộc bầu cử thượng viện phải hủy do E-bô-la “tác quái”
Với tinh thần sẻ chia và giúp đỡ năm nước Tây Phi đang chìm trong
hoạn noạn, nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã gửi những nguồn lực quý
báu với vùng dịch để giúp đẩy lùi “bóng ma” E-bơ-là, bất chấp nhưng nguy cơ
có thể xảy ra.
Mĩ đã quyết định gửi 4000 binh sĩ, gồm các kĩ sư, chuyên gia y tế, hàng
loạt nước ở Châu Âu, Châu Á và Mĩ-la-tinh gửi trang thiết bị và hàng nghìn
nhân viên y tế tới khu vực Tây Phi. Cu-ba cũng gửi hàng trăm chuyên gia y tế
tới đây.
Trong bối cảnh chưa có vắc xin điều trị căn bệnh E-bô-la, việc cộng đồng
quốc tế không “quay lưng” với vùng lõi dịch ở Tây Phi, tiếp tục gửi chuyên gia
và thiết bị tới đây để dập dịch khơng chỉ là hành động mang tính nhân văn, mà
còn thắp lên tia hi vọng cho hàng triệu người Phi ở khu vực này”.
(Dẫn theo nhân dân.com.vn)
- Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí)
* Kỹ năng phán đốn nhanh phong cách ngơn ngữ của văn bản:

Cần chú ý mấy điểm sau:
- Nếu văn bản là một bài/ 1 đoạn thơ hay đoạn trích văn xi lấy từ một
truyện ngắn, tiểu thuyết… nào đó, có thể phán đốn ngay rằng văn bản
ấy mang PCNN nghệ thuật.

17


- Nên chú ý đến tác giả của văn bản. Nếu biết về nghề nghiệp,vị trí xã
hội của họ, ta có thể xác định khá chính xác về PCNN của văn bản:
+ Phát ngơn của một nhà chính trị - PCNN chính luận
+ Tác phẩm của một nhà báo – PCNN báo chí
+ Tiểu luận của một nhà khoa học – PCNN khoa học

- Quan tâm tới xuất xứ của văn bản, vì nó có thể giúp ta ít nhiều, ví dụ, nếu văn
bản được trích dẫn từ một tờ báo nào đó (báo in hay báo mạng), ta có thể nghĩ
ngay tới PCNN báo chí… Trên đây là một số “mẹo nhỏ”, chúng không thể thay
thế cho kiến thức cơ bản, phải nắm chắc đặc điểm của từng PCNN thì mới có
căn cứ xác đáng để xét đốn PCNN của một văn bản.
2.4.2.3. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận
Trong chương trình THPT, SGK Ngữ văn tập trung giới thiệu 4 thao tác
lập luận cơ bản thường gặp: phân tích, bình luận, so sánh, bác bỏ. Ở bậc THCS,
học sinh đã được học các thao tác lập luận: chứng minh, giải thích. Vì vậy, để
nhận ra các thao tác lập luận này một cách nhanh chóng thì cần phải nắm vững
những đặc điểm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi nghị luận về vấn đề nào đó, các
tác giả hay sử dụng phối hợp các thao tác lập luân trên nhưng thường có 1 thao
tác luận luận chủ yếu.
T Các thao tác
TT


lập luận
1 Giải thích

Nhận diện
Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận
một cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của

2 Phân tích

mình.
Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành
nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội

dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng.
3 Chứng minh Chứng minh là đưa ra những cứ liệu - dẫn chứng xác đáng
để làm sáng tỏ một lí lẽ một ý kiến để thuyết phục người
đọc người nghe tin tưởng vào vấn đề. ( Đưa lí lẽ trước Chọn dẫn chứng và đưa dẫn chứng. Cần thiết phải phân
18


tích dẫn chứng để lập luận CM thuyết phục hơn. Đơi khi
4 Bác bỏ

thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau.)
Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa
ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng

5 Bình luận

đắn của mình.

Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện
tượng… đúng hay sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để
nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và có phương

6 So sánh

châm hành động đúng.
So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay
nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để
chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy
được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan
tâm.
Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so
sánh tương đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so

sánh tương phản.
Ví dụ: Thao tác giải thích
“Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta khơng háo hức cái tráng lệ, huy
hồng, khơng say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh
nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao
tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều khơng
chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên
dáng và có quy mơ vừa phải”.
( Trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc – Trần Đình Hượu)
2.4.2.4. Kiến thức về các phương thức biểu đạt
Q trình học tập mơn ngữ văn từ chương trình THCS, người học đã được
làm quen với 6 phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết
minh, hành chính – cơng vụ. Chương trình Ngữ văn THPT khơng có bài học
riêng mà kiến thức tồn tại dưới dang luyện tập trong các giờ làm văn, đọc văn.


19


Cần lưu ý, khi xây dựng một văn bản hay sáng tác một tác phẩm, các tác
giả thường phối hợp sử dụng các phương thức biểu đạt. Bởi vậy, cần tinh ý và
tránh vội vàng khi trả lời những câu hỏi liên quan đến vấn đề này. Nêú văn bản
là một bài hoặc một đoạn thơ trữ tình thì phương thức biểu đạt đầu tiên cần chỉ
ra là biểu cảm , sau đó mới xem xét tới khả năng hiện diện của các phương thức
khác: miêu tả, tự sự…
Để xác định được chính xác phương thức biểu đạt chính thì cần phải nắm
được đặc điểm của các phương thức biểu đạt qua mục đích giao tiếp.
Phương thức biểu đạt
1 Tự sự
2 Miêu tả
3 Biểu cảm
4 Nghị luận
5 Thuyết minh
6 Hành chính – cơng vụ

Nhận diện qua mục đích giao tiếp
Trình bày diễn biến sự việc
Tái hiện trạng thái, sự vật, con người
Bày tỏ tình cảm, cảm xúc
Trình bày ý kiến đánh giá, bàn luận…
Trình bày đặc điểm, tính chất, phương pháp…
Trình bày ý muốn, quyết định nào đó, thể hiện

quyền hạn, trách nhiệm giữa người với người
Ví dụ : Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đò lên Thach Hãn ơi chèo nhẹ

Đáy sơng cịn đó bạn tơi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.
(Lê Bá Dương, Lời người bên sông)
Phương thức biểu đạt chủ yếu trong đoạn thơ là phương thức nào?
(Phương thức biểu đạt chủ yếu trong đoạn thơ là biểu cảm)
2.4.2.5. Kiến thức về các biện pháp tu từ
Với dạng câu hỏi này HS cần:
- Ôn lại kiến thức về các biện pháp tu từ từ , tu từ về câu và tác dụng của
các biện pháp tu từ khi được sử dụng trong văn bản như: So sánh, ẩn dụ,nhân
hóa, hốn dụ, nói q, nói giảm nói tránh, điệp ngữ, liệt kê, chơi chữ, câu hỏi tu
từ, đảo ngữ…
Biện pháp tu từ
So sánh

Hiệu quả nghệ thuật (Tác dụng nghệ thuật)
Giúp sự vật, sự việc được miêu tả sinh động, cụ thể

20


tác động đến trí tưởng tượng, gợi hình dung và cảm
Ẩn dụ

xúc
Cách diễn đạt mang tính hàm súc, cơ đọng, giá trị

Nhân hóa

biểu đạt cao, gợi những liên tưởng ý nhị, sâu sắc.

Làm cho đối tượng hiện ra sinh động, gần gũi, có

Hốn dụ

tâm trạng và có hồn hơn.
Diễn tả sinh động nội dung thông báo và gợi những

Điệp từ/ngữ/cấu trúc
Nói giảm

liên tưởng ý vị, sâu sắc
Nhấn mạnh, tơ đậm ấn tượng – tăng giá trị biểu cẳm
Làm giảm nhẹ đi ý đau thương, mất mát nhằm thể

hiện sự trân trọng
Thậm xưng (phóng đại) Tơ đậm ấn tượng về…
Câu hỏi tu từ
Bộc lộ cảm xúc
Đảo ngữ
Nhấn mạnh, gây ấn tượng về
Đối
Tạo sự cân đối
Im lặng (…)
Tạo điểm nhấn, gợi sự lắng đọng cảm xúc
Liệt kê
Diễn tả cụ thể, toàn điện
- Nắm vững các đặc điểm về cách cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp …
trong văn bản văn học.
Ví dụ: Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của những
biện pháp nghệ thuật ấy trong đoạn thơ sau:

“Chúng đem bom ngàn cân
Dội lên trang giấy trắng
Mỏng như một ánh trăng ngần
Hiền như lá mọc mùa xuân”
(Trang giấy học trị - Chính Hữu)
- Căn cứ vào những kiến thức về các phương tiện biểu đạt trong thơ, ta có thể trả
lời :
+ Các biện pháp nghệ thuật trong đoạn thơ: Ẩn dụ, đối lập và so sánh
( hình ảnh trang giấy trắng : chỉ sự ngây thơ trong sáng của trẻ nhỏ; đối lập: bom
nghìn cân với trang giấy mỏng manh; so sánh: trang giấy mỏng như…, hiền
như…)

21


+ Tác dụng của việc sử dụng phối hợp những biện pháp nghệ thuật này :
khắc họa sự tàn khốc của chiến tranh và tội ác của kẻ thù; lòng căm giận và
thương cảm của nhà thơ với trẻ thơ .
2.4.2.6. Kiến thức về một số phương tiện và phép liên kết trong văn bản
Các phép liên kết
Đặc điểm nhận diện
Phép lặp từ ngữ
Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước
Phép
liên
tưởng Sử dụng ở câu đứng sau những từ ngữ đồng nghĩa/ trái
(đồng nghĩa / trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở
nghĩa)
Phép thế


câu trước
Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay

Phép nối

thế các từ ngữ đã có ở câu trước
Sử dụng ở câu sau các từ ngữ biểu thị quan hệ (nối

kết)với câu trước
Ví dụ: Đọc kỹ đoạn văn sau và xác định các phép liên kết được sử dụng:
“Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân,
nhằm mục đích đào tạo những cơng dân và cán bộ tốt, những người chủ tương
lai của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường
học của thực dân phong kiến.
Muốn được như thế thì thầy giáo, học trò và cán bộ phải cố gắng hơn nữa
để tiến bộ hơn nữa” .

(Hồ Chí Minh – Về vấn đề giáo dục)

( Trả lời: Các phép liên kết được sử dụng là:
- Phép lặp: “Trường học của chúng ta”
- Phép thế: “Muốn được như thế”… thay thế cho tồn bộ nội dung của đoạn
trước đó.)
2.4.2.7. Kiến thức về kiểu câu
* Câu theo mục đích nói:
- Câu tường thuật (câu kể)
- Câu cảm thán (câu cảm)
- Câu nghi vấn ( câu hỏi)
- Câu khẳng định
- Câu phủ định.

* Câu theo cấu trúc ngữ pháp
22


- Câu đơn
- Câu ghép ( câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ)/ Câu phức
- Câu đặc biệt.
- Câu rút gọn ( câu tỉnh lược).
Ví dụ : Sáng ngày 16/5, hơn 1.300 học sinh trường THPT Phan Huy
Chú, Hà Nội tham gia buổi học ngoại khóa mang tên Chủ quyền biển đảo, khát
vọng hịa bình. Buổi học được tổ chức với ý nghĩa thể hiện tình yêu đất nước,
một lịng hướng về biển Đơng.
Nhà trường cho rằng buổi ngoại khố như thế này rất cần thiết, giúp
ni dưỡng lịng tự hào dân tộc cho các em học sinh, đồng thời nâng cao hiểu
biết về chủ quyền lãnh thổ và ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương,
đất nước.
Trong buổi ngoại khoá này, các học sinh trong trường đã xếp hình, tạo
thành dải chữ S bản đồ đất nước Việt Nam cùng hai quần đảo Trường Sa và
Hồng Sa. Hoạt động xếp hình diễn ra khá sớm vào lúc 6h30 nhưng các học
sinh tham gia đều rất hào hứng, sơi nổi. Vừa xếp hình, các học sinh trường
Phan Huy Chú cịn được nghe kể về chiến cơng của cha ông trong việc bảo vệ
đất nước, được nâng cao và tự ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với Tổ
quốc. (Theo Dân trí)
Đọc đoạn trích trên và cho biết kiểu câu nổi bật nhất mà văn bản sử dụng
là gì? Tác dụng của kiểu câu đó trong việc thể hiện nội dung văn bản?
( Trả lời: - Kiểu câu sử dụng nhiều nhất là câu tường thuật, câu phức.
- Tác dụng: Cung cấp cụ thể, đầy đủ và chính xác các thơng tin hoạt động
ngoại khóa của học sinh trường THPT Phan Huy Chú.)
2.4.2.8. Thể thơ
Đặc trưng của các thể loại thơ:

+ Thơ truyền thống:

Lục bát; Song thất lục bát; Thất ngôn Đường

luật;Thơ ngũ ngôn Đường luật
+ Thơ hiện đại: Thơ tự do, thơ 5 chữ, Thơ 8 chữ…

23


2.4.2.9. Kiến thức về các hình thức ngơn ngữ, phương thức trần thuật
* Các hình thức ngơn ngữ:
- Ngơn ngữ trực tiếp :
+ Ngôn ngữ của nhân vật ( đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm)
+ Ngôn ngữ của người kể chuyện ( trần thuật)
- Ngôn ngữ nửa trực tiếp ( đan xen lời nhân vật và lời người kể chuyện):
trần thuật nửa trực tiếp
* Các phương thức trần thuật
- Lời trực tiếp: Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện (Tôi)
- Lời kể gián tiếp: Trần thuật từ ngôi thứ ba – người kể chuyện giấu mặt.
-Lời kể nửa trực tiếp: Trần thuật từ ngơi thứ ba – người kể chuyện tự giấu mình
nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật trong tác phẩm.
2.4.3. Dạng câu hỏi yêu cầu bày tỏ thái độ, cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề được
gợi lên từ văn bản
Đoạn văn mà đề thi phần Đọc hiểu của cầu thí sinh viết có dung lượng rất
ngắn (khoảng 5-7 dòng). Tuy nhiên yêu cầu về số dịng hoặc số câu chỉ mang
tính giới hạn vì vậy khơng cần phải q máy móc xem mình đã viết được bao
nhiêu dòng ( hoặc câu), dù sao cũng không thể viết dài như khi viết bài văn nghị
luận xã hội hay nghị luận văn học. Khi viết cần lưu ý:
- Câu đầu tiên của đoạn văn cần nhắc lại vấn đề mà câu hỏi yêu cầu phải

viết.
- Những câu kế tiếp phải trực tiếp bộc lộ thái độ, cảm xúc, suy nghĩ của
bản than về vấn đề đó. Khơng nên nêu nhiều dẫn chứng dài dịng.
- Câu cuối của đoạn văn pahir tổng hợp, khái quát, thâu tóm lại ý của
những câu vừa viết.
2.5. Cho học sinh ôn luyện các dạng đề đọc hiểu
Một trong những thao tác không thể thiếu nhằm rèn luyện và nâng cao kỹ
năng làm bài đọc hiểu cho HS là phải chăm chỉ luyện tập. Giáo viên nên các em
luyện tập nhiều dạng văn bản với nhiều dạng câu hỏi. Đi từ mức độ cho HS làm

24


quan các văn bản quen thuộc trong chương trình đến các văn bản ngồi chương
trình, văn bản nhật dụng, văn bản báo chí… Dưới đây là một số đề ví dụ:
Đề số 1:
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hơi hám úa tàn
Nhà mình sát đường, họ đến
Có cho thì có là bao
Con khơng bao giờ được hỏi
Q hương họ ở nơi nào
Con chó nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu khơng thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này
(Dặn con - Trần Nhuận Minh, Nhà thơ và hoa cỏ)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt của bài thơ?
Câu 2. Chỉ ra các từ ngữ được dùng theo nghĩa chuyển trong khổ thơ thứ
nhất và giải thích ngắn gọn ý nghĩa của từ ngữ đó gắn với ngữ cảnh trong bài
thơ?
Câu 3. Tại sao tác giả lại dặn: “Con không bao giờ được hỏi/Quê hương
họ ở nơi nào”?
Câu 4. Bài thơ đã gợi cho anh chị suy nghĩ gì về cách ứng xử của con
người đối với con người? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dịng)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ 5 đến 8

25


×