Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.15 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS KIM LONG

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử
dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở Trường THCS

Tanm Dương: năm 2019


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là tập trung vào việc phát huy tính tích
cực, năng động và sáng tạo của học sinh, nhằm hình thành năng lực tự nhận biết
và giải quyết vấn đề cho người học. Để đạt được mục tiêu này, phương pháp dạy
học mới là theo định hướng lấy học sinh làm chủ thể hoạt động dạy học, khuyến
khích các hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học mơn
lịch sử? Có rất nhiều biện pháp, ví dụ như: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan, phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững và sử
dụng sách giáo khoa, vở bài tập, tiến hành cơng tác ngoại khố, … Nhưng việc
sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là
một trong những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học
sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm
cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em.
Mặt khác, nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và
phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được kiến thức bài học và


hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, …
"Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ; Lịch sử loài người mà
chúng ta học là toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện đến
nay" (SGK Lịch sử 6 - Trang 3 - NXB giáo dục năm 2002).
Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng: Việc học Lịch sử có
nét đặc trưng, có cái khó riêng. Đó là người học khơng thể tri giác trực tiếp;
khơng thể "sờ" hay làm thí nghiệm trong phịng thí nghiệm... mà buộc phải tư
duy, phải trừu tượng hoá, khái quát hoá để dựng lại những gì đã diễn ra trong
q khứ, thơng qua các sự kiện, niên đại, nhân vật lịch sử... Để làm được điều đó
ngồi việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện vật, văn tự cổ...) thì việc

1


“phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu
hỏi” có tác dụng rất lớn trong việc "dựng lại" lịch sử.
Bên cạnh đó, việc dạy và học Lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay
đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần "xa
lánh" môn Lịch sử, khơng cịn hứng thú với việc học tập mơn Lịch sử. Đây là
thực trạng đáng buồn, bởi vì, sử học ở trường phổ thơng có vai trị rất quan trọng
trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của học sinh.
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tơi có nhiều ngun nhân
(gia đình - xã hội - nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng dẫn tới
hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy mơn Lịch sử cịn để giờ dạy Lịch sử quá
khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục
hiện tượng nay, theo tơi ngồi việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng
đồ dùng trực quan… thì chúng ta nên sử dụng khéo léo việc phát huy tính tích
cực của học sinh trong quá trình sử dụng hệ thống câu hỏi trong bài học để các
em tiếp thu bài nhanh, nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự
kiện hiện tượng, nhân vật lịch sử.

Trong phát triển tư duy của học sinh, việc sử dụng các thao tác lơgic có ý
nghĩa rất quan trọng. Thơng thường giáo viên sử dụng các thao tác chủ yếu như
so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện, Phân tích
và tổng hợp (giúp học sinh khái quát các sự kiện), quy nạp, diễn dịch... Để thực
hiện những thao thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều phương tiện
khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích ....) song việc hỏi và trả lời phù
hợp với trình độ yêu cầu của học sinh, đưa lại kết quả tốt. Hỏi và trả lời chính là
đặt tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề. Hỏi và trả lời không
phải là sự đánh đố mà là giúp các em hiểu sâu sắc lịch sử hơn, phát huy được
tính tích cực của học sinh trong học tập.
Từ cơ sở đó tơi mạnh dạn xin trình bày một số kinh nghiệm về “phát huy
tính tích cực của học sinh qua sử dụng hệ thống câu hỏi” mà tôi đã áp dụng
trong giảng dạy Lịch sử có hiệu quả tốt.

2


2. Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp
sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Mộng Duyên
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Kim Long - Tam Dương Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0987465004
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Mộng Duyên – Trường THCS
Kim Long Tam Dương – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Xoay quanh một số nội dung về “Phát huy tính tích cực học sinh qua
phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung
học cơ sở” nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học môn Lịch sử

- Dùng để dạy các tiết học lịch sử ở các khối lớp 8,9 trong chương trình
bậc THCS và công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử.
- Dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy môn Lịch sử bậc
Trung học cơ sở.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 08/2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
* Thực trạng dạy và học môn Lịch sử
- Trong thực tế môn Lịch sử luôn bị coi là môn học phụ và là môn của những
người học “thuộc lịng” khơng chỉ phụ huynh - học sinh mà ngay cả nhiều thầy cô
dạy các môn tự nhiên cũng quan niệm như vậy. Và một khi đã là mơn phụ thì rất khó
để học sinh quan tâm học hành tử tế, thầy giáo cũng mất hứng thú sáng tạo trong
công tác giảng dạy sao cho tốt.
- Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ
cho các em xác định được đây là bộ mơn khoa học cần phải có sự học tập nghiêm
túc, chưa tái hiện khơng khí sinh động của các sự kiện lịch sử, tiết dạy cịn khơ khan
3


nhàm chán. Như thế học sinh không thể phát huy được tính tích cực sáng tạo tìm
tịi trong tiết học, vì vậy khả năng tiếp thu kiến thức chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ
và học thuộc lịng. Khơng phát triển kỹ năng tư duy và chưa tạo cho học sinh
các kỹ năng lịch sử quan trọng như: đọc bản đồ, phân tích các sự kiện…
- Kết quả chất lượng môn học chưa cao.
- Khảo sát học sinh trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến thu được kết
quả sau:
Loại giỏi

Loại khá


Trung bình

Yếu

Lớp

Sĩ số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

9A

35

12


34,2

15

43

8

22,8

0

0

9B

37

5

13,5

16

43,3

15

40,5


1

2,7

9C

36

6

16,6

13

36,1

15

41,7

2

5,6

9D

37

5


13,6

16

43,2

15

40,5

1

2,7

8A

45

13

28,9

21

46,7

11

24.4


0

0

8B

45

8

17,7

13

28.9

21

46,7

3

6,7

8C

45

7


15,6

16

35,6

20

44,4

2

4,4

8D

45

8

17,8

15

33,3

19

42,2


3

6,7

Nội dung sáng kiến này chỉ tập trung vào phần chính: “Phát huy tính tích
cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch
sử ở trường Trung học cơ sở” nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. Kích
thích học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng
hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội
kiến thức và phát triển kỹ năng.
* Vai trò, ý nghĩa sử dụng hệ thống câu hỏi:
Sử dụng hệ thống câu hỏi trong quá trình dạy học Lịch sử ở trường phổ
thơng có vai trị to lớn. Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận
nhóm, bổ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những học sinh
yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và

4


các bạn học sinh khá giỏi; qua đó học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn
về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử…
Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học,
khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh,
lược đồ…
Sử dụng hệ thống câu hỏi khéo léo trong giờ học Lịch sử, giúp giờ học trở
nên sinh động, hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối
với một sự kiện, một nhân vật, một hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức
lịch sử đến với học sinh.
Trong việc dạy học Lịch sử ở trường phổ thơng tuỳ vào từng khố trình,
nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các dạng

câu hỏi, do đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài giảng; với từng sự kiện,
nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào.
Nói tóm lại, việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong giờ học Lịch sử là một
trong những cách thức để giáo viên hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy
học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông.
* Các giải pháp thực hiện
Phương pháp giảng dạy:
- Phương pháp sưu tầm tài liệu, sử liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp khái quát.
Quy trình áp dụng của bản thân:
Bước 1: Xác định rõ nội dung kiến thức cụ thể, dự kiến dạng câu hỏi phù
hợp đưa vào từng mục của tiết dạy Lịch sử.
Bước 2: Tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp nhằm mục đích tìm hiểu
thăm dị, nắm bắt từng đối tượng học sinh.
Bước 3: Thảo luận, bàn bạc góp ý kiến trong việc thiết kế bài giảng có sự
tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử, quá trình tiếp thu lĩnh hội
kiến thức của học sinh.
5


Bước 4: Khảo sát chất lượng học sinh nhiều lần để kết luận, rút kinh
nghiệm khi xây dựng đề tài.
Bước 5: Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm qua sự bổ sung, góp ý kiến của
đồng nghiệp nhằm thực hiện thành công đề tài này.
Cụ thể:
1. Nêu câu hỏi đặt vấn đề:
* Đối với giáo viên:
Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng

nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động
viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh mà học sinh phải
nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ
sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được.
Ví dụ: Khi dạy bài 5 “Công xã pa-ri năm 1871” (sách giáo khoa lịch sử 8,
trang 35). Giáo viên nêu câu hỏi đầu giờ: Vì sao nói “Cơng xã Pa-ri là một hình
ảnh thu nhỏ của nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân”? Để
hiểu rõ vấn đề đó các em cần phải tự mình tìm hiểu kĩ vấn đề này, cách tốt nhất
là tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến rồi từ đó rút ra ý nghĩa của Cơng xã Pa-ri.
Hoặc khi dạy bài 7 “Các nước Mĩ La-tinh” (lịch sử lớp 9 sấch giáo khoa,
trang 29) để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học sinh chúng
ta có thể nói: Trong cơn bão táp của cách mạng Mĩ La-tinh thì hình ảnh đất nước
Cu-ba như một dãi lụa đào, đang bay lên giữa màu xanh của trời biển Ca-ri-bê
với nắng vàng rực rỡ, đó chính là Cu-ba hịn đảo của tự do - hòn đảo anh hùng.
Vậy hòn đảo anh hùng này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như
thế nào và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu-ba đạt được kết quả gì?
Chúng ta chuyển sang mục II “Cu-ba - Hịn đảo anh hùng”.
Trong q trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách
giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên.
Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu
của bài.
* Đối với học sinh:
6


Câu hỏi này là câu hỏi thường có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy
động kiến thức cơ bản của tồn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và
trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý tập trung cao độ theo dõi bài
giảng, chọn lọc sự kiện được trình bày trên lớp.
2. Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện

tượng trong bài học:
Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi
các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 – 1954)” (lịch sử 9, trang 119), chúng ta có
thể tổ chức trị chơi ơ chữ để cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch
sử lại với nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập thơng
qua các câu hỏi gợi ý.
Hệ thống câu hỏi trò chơi như sau (Giáo viên dùng bảng phụ để trình
bày):
Câu 1. Tham dự Hội nghị (8/5/1954) phái đồn Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hoà do ai làm trưởng đoàn?
Câu 2. Đợt 1 của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, ta tấn cơng tiêu diệt
tồn bộ phân khu Bắc và căn cứ nào của Pháp?
Câu 3. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh
nhất ở đâu?
Câu 4. 9/1953 với quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch, ta đã đề
ra kế hoạch tác chiến nào?
Câu 5. Kế hoạch nào của Pháp bị phá sản sau chiến dịch biên giới phía
Bắc (1950)? Trang111- sách giáo khoa.
Câu 6. Nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh, Pháp – Mĩ đã cử ai làm
Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương?
Câu 7. Tên của một tướng Pháp đầu hàng cùng tồn bộ Ban tham mưu của
mình vào 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954?

7


Câu 8. Từ Khoá: Đây là tên của một hiệp định kí kết vào ngày lập lại hồ
bình ở Đơng Dương?

Đáp án các ơ chữ:
P

H



M
Đ

V
Đ
Ơ

Đ

Ă
Ơ
N



N
N
G

C

Đ




G
X
R

D
U
Ơ

N
H
Ư
Â
V

A

N
X

A
T

G
I
Ơ
N
E
V

Ơ

M
N

L
G

A
R

I

A

M

Từ hàng dọc là: GIƠ-NE-VƠ
Từ những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên bảng phụ để các em
có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời,
tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ
chìa khố của ơ chữ và học sinh sẽ phát hiện ra chìa khố là “Giơ-ne-vơ”.
Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả
khơng chỉ về kiến thức mà cịn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo,
phát triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong tiết học.
Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ
giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản
ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em.
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp:
Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và

giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ
thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng
của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong
của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học
sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được? Vì sao khơng trả lời được?
Câu hỏi q khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời.
Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi,
những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời
8


bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ
khi soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế
nào? Đáp án ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một
nghệ thuật.
Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích
được lịng ham hiểu biết, trí thơng minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp
học sinh yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho
các em qua hệ thống câu hỏi, từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài
hơn.
Thơng thường trong q trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại
câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có
các loại câu hỏi. Cụ thể như:
* Dạng câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà
chúng ta thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự
kiện, hiện tượng lịch sử.
Dạng câu hỏi này thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém.
Ví dụ:
Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh thế giới lần thứ hai (Bài 21, sách giáo
khoa lịch sử 8, trang 105).

Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, (Bài 21, sách
giáo khoa lịch sử 9, trang 82-83).
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì
một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất
định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy
của lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.
* Dạng câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện
tượng lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc
cách mạng.
Ví dụ:

9


Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở
Pháp (Bài 16, sách lịch sử 9, trang 61).
Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 (Bài 26,
sách lịch sử lớp 9, trang 110).
Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại địi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự
kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu
hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa
các sự kiện.
* Dạng câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử,
bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử
ấy.
Dạng câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ
trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém.
Ví dụ:
Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ
đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược? (Bài 25, sách

lịch sử 8, trang 124).
Tại sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước? Hướng đi của
Người có gì mới so với các nhà yêu nước chống Pháp trước đó? (Bài 30, sách
giáo khoa lịch sử 8, trang 148).
Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ lại ở
vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”? (Bài 24, sách giáo khoa lịch sử 9, trang
96).
Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó địi hỏi các em
phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên
cần kiên trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của
mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 23-Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

10


Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng
ta quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong tồn quốc?
Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW
lần thứ VIII (tháng 5/1941) là gì? Các yếu tố nào (về thời cơ cách mạng) đầy đủ
ở nước ta lúc bấy giờ chưa?
* Dạng câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và
ý nghĩa lịch sử của sự kiện.
Với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng học sinh yếu kém để các
em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động
liên tục trong quá trình học tập.
Lịch sử chính là q trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự
kiện hoặc một hiện tượng hay một q trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh
thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và

ảnh hưởng của nó đối với q trình phát triển lịch sử.
Ví dụ:
Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp 1789-1794 (Bài 2,
sách lịch sử 8, trang 17).
Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2/1930
(Bài 18, sách lịch sử 9, trang 71).
Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn,
Nam Kì (Bài 21, sách lịch sử 9, trang 82).
Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 (Bài 23, sách lịch sử 9, trang 94).
Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào sách giáo khoa để trả lời
bằng ngôn ngữ của mình chứ khơng lặp lại sách giáo khoa.
* Dạng câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này
với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học.
Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh Trung học cơ sở. Ưu điểm
của loại câu hỏi này là vừa giúp học sinh củng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp

11


nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ
kiến thức cho nhau và cùng giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
So sánh hồn cảnh, nội dung, tác dụng của chính sách cộng sản thời chiến
với chính sách kinh tế mới của Lê-nin và Đảng Bơn-sê-vích (Bài 16, sách lịch sử
8, trang 82).
Khi dạy bài 9 “Nhật Bản” (Lịch sử 9, trang 36).
Có câu hỏi: So sánh sự giống nhau và khác nhau trong chính sách đối ngoại
của Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai?
Khi học bài 29 “Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (19651973) (Lịch sử 9, trang 142).

Có câu hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Chiến tranh đặc biệt” của
Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?
Tóm lại: Các dạng câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hồn
chỉnh, giúp cho học sinh trong q trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên
nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một q trình lịch sử.
Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ
cho các em biết được các sự kiện đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó khơng chỉ
địi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu
sắc bản chất của sự kiện lịch sử.
4. Vận dụng hệ thống câu hỏi vào một mục dạy thực tế:
Ví dụ:
Dạy mục IV: Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và tạm ước Việt - Pháp (14-91946) ở bài 24 “Cuộc đấu tranh và bảo vệ xây dựng chính quyền dân chủ
nhân dân (1945-1946)” - Lịch sử 9, tiết 2 ).
Đối với mục này để học sinh có thể hiểu được nội dung bài học nhanh và
sâu hơn. Giáo viên cần thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức,
nhằm khắc sâu kiến thức của bài học tới học sinh một cách tốt nhất đảm bảo tính
khoa học và lơ gíc của các mục kiến thức tiếp theo, cụ thể:

12


Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hồ hỗn giữa Tưởng
và Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường
cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển
hàng hóa qua cảng Hải Phịng vào Hoa Nam khơng phải đóng thuế. Ngược lại,
Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp khí giới
quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, chúng coi
Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương,
sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức:


CÂU HỎI NHẬN THỨC

Vì sao Đảng, Chính
phủ ta Hồ Chủ Tịch lại
kí với thực dân Pháp
Hiệp định sơ bộ 6-31946?

Một là: Đánh Pháp
trước khi Pháp đưa
quân ra miền Bắc.
Như vậy cùng một lúc
phải đánh cả Pháp lẫn
Tưởng.

DỰ KIẾN TRẢ LỜI

CÂU HỎI GỢI MỞ

Vì Pháp và Tưởng kí
thỏa hiệp chính trị (282-1946). Việc làm này
buộc Đảng ta phải lựa
chọn một trong hai
con đuờng hành động.

1. Việc Pháp và Tưởng
kí hiệp định chính trị
(28-2-1946) đặt ra cho
Đảng ta lựa chọn một
trong hai con đường
nào?

2. Đảng ta đã lựa chọn
con đường nào?

Hai là: Hoà với Pháp
mượn tay Pháp đuổi
Tưởng về nước, loại
bớt một kẻ thù nguy
hiểm, kéo dài thời gian
hịa bình đẻ chuẩn bị
lực lượng về mọi mặt
chống Pháp sau này.

Đảng ta đã lựa chọn
con đường thứ hai vì
đất nước ta lúc này vơ
cùng khó khăn khơng
thể một lúc đánh nhau
với nhiều kẻ thù, hơn
nữa lúc này Pháp đưa
quân ra miền Bắc với
danh nghĩa chính
thống.

13


7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Giải pháp có thể áp dụng:
- Cho đối tượng học sinh đại trà, học sinh giỏi toàn cấp bậc THCS.
- Cho các cơ quan tổ chức: các trường THCS trong toàn huyện.

- Qua đề tài tơi có một số giải pháp sau:
+ Thâu tóm các dạng câu hỏi phù hợp với nội dung bài giảng, phải có sự
suy nghĩ, sáng tạo trong việc thiết kế bài giảng. Xác định rõ nội dung chuẩn kiến
thức, kĩ năng của từng bài, từng phần để truyền thụ cho học sinh dễ tiếp thu và
hiểu bài sâu hơn trên cơ sở kiến thức cơ bản từ sách giáo khoa.
+ Nghiên cứu một số phương pháp phù hợp đối tượng học sinh (giỏi, khá,
trung bình, yếu) để đưa dạng câu hỏi vào nội dung bài giảng một cách hợp lí,
lơgíc; phù hợp đối tượng học sinh, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng. cả giá trị
giáo dưỡng, giáo dục.
+ Đổi mới phương pháp dạy học: “Hướng tích cực hoá hoạt động của học
sinh” tạo điều kiện cho học sinh tìm tịi, khai thác kiến thức và biết điều khiển
hoạt động nhận thức của mình. Khuyến khích học sinh tìm hiểu những tài liệu
kiến thức liên quan đến lịch sử.
+ Giao nhiệm vụ và định hướng học sinh về nhà tìm hiểu nội dung cần
tìm hểu ở tiết học hôm sau.
+ Coi trọng kết quả, đánh giá học sinh theo tinh thần đổi mới, theo hướng
phát triển năng lực người học, học lý thuyết gắn liền với ứng dụng vào đời sống.
+ Qua thực hiện đề tài tôi thấy học sinh có nhiều tiến bộ, các em hứng thú
với nội dung bài học và u thích bộ mơn hơn, bước đầu có thể vận dụng vào
thực tế trong một số tình huống thực tế.
+ Đề tài đã khắc phục được hạn chế mà từ lâu các em không thích học bộ
mơn và coi mơn Lịch sử mơn học phụ.
8. Những thông tin cần được bảo mật: không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Nhà trường tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, sách tham khảo để
thực hiện sáng kiến.
14


- Động viên khen thưởng kịp thời với những em có tiến bộ trong học tập.

- Học sinh chuẩn bị tốt tâm thế trước mỗi giờ học, say mê, hứng thú trong
học tập. Phát huy hết khả năng sáng tạo vận dụng linh hoạt các đơn vị kiến thức.
- Giáo viên có sự tìm tịi sáng tạo, vận dụng kiến thức các mơn học trong
chương trình giáo dục phổ thơng. Tham khảo tài liệu sử học được tải từ
mạng Internet và tiếp thu những góp ý của đồng nghiệp.
- Áp dụng sáng kiến vào những tiết dạy Lịch sử trên lớp trong chương
trình giáo dục phổ thơng hiện hành.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu theo các nội dung sau:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
- Hiệu quả của việc phát huy tính tích cự của học sinh qua phương pháp
sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở đã
giúp cho các em tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng hiểu biết, lĩnh hội kiến
thức và phát triển kỹ năng.
- Sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy học sinh đều hứng thú với nội
dung bài học, số lượng học sinh có ý thức tham gia phát biểu xây dựng bài tăng
trội hơn trước, có ý thức chuẩn bị bài ở nhà hơn.
- Giờ dạy trên lớp hứng khởi, sơi nổi hơn, tạo khơng khí hào hứng, tránh
được sự căng thẳng hay nhàm chán giúp học sinh giải quyết tình huống linh hoạt
trong cuộc sống, số chất lượng dạy học bộ môn tăng.
- Số học sinh tham gia học đội tuyển môn Lịch sử nhiều hơn.
* Kết quả cụ thể:
- Khảo sát học sinh trước và sau khi thực hiện sáng kiến trong giảng dạy
ở trường THCS Kim Long – Tam Dương –Vĩnh Phúc:
Loại giỏi

Trước khi


Loại khá

Trung bình

Yếu

Lớp

Sĩ số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

9A

35


12

34,2

15

43

8

22,8

0

0
15


áp dụng
9B

37

5

13,5

16

43,3


15

40,5

1

2,7

9C

36

6

16,6

13

36,1

15

41,7

2

5,6

9D


37

5

13,6

16

43,2

15

40,5

1

2,7

8A

45

13

28,9

21

46,7


11

24.4

0

0

8B

45

8

17,7

13

28.9

21

46,7

3

6,7

8C


45

7

15,6

16

35,6

20

44,4

2

4,4

8D

45

8

17,8

15

33,3


19

42,2

3

6,7

Sau khi áp

9A

35

17

48,6

14

40

4

11,4

0

0


dụng

9B

37

6

16,3

16

43,2

15

40,5

0

0

9C

36

7

19,5


16

44,4

13

36,1

0

0

9D

37

6

16,2

16

43,3

15

40,5

0


0

8A

45

17 37,8

23

51,1

5

0

0

8B

45

8

17,8 21

46,6

16


35,6

0

0

8C

45

7

15,6

51,1

15

33,3

0

0

23

11,1

8D

45
8 17,8 21
46,6
16 35,6
0
+ Về kết quả thi học sinh giỏi môn Lịch sử và môn khoa học xã hội
Năm học
Trước khi
áp dụng
Sau khi áp
dụng

2016 - 2017

2017 - 2018
2018 - 2019

Cuộc thi
Cấp huyện
HSG lớp 9
1 giải kk
HSG môn Khoa học 2 giải kk
xã hội lớp 8
HSG lớp 9
1 giải ba, 2kk
HSG môn Khoa học 4 giải kk
xã hội lớp 8
HSG lớp 9
1 giải nhất, 1
giải kk

HSG môn KHXH 8 Chưa thi

0

Cấp tỉnh
3 giải kk
2 giải kk
1 giải ba,
3 giải kk
2 giải kk

10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
- Đề tài áp dụng có hiệu quả trong năm học 2017-2018 và đạt được kết
quả cao ở các kì thi học sinh giỏi.
- Có thể áp dụng rộng rãi ra các trường Trung học cơ sở trong toàn huyện,
vào giảng dạy môn Lịch sử.
16


- Các học sinh hứng thú và say mê học Lịch sử tăng trội hơn trước, số chất
lượng dạy học bộ mơn tăng. Nhiều em đã tích cực tham gia ôn tập và dự thi học
sinh giỏi môn Lịch sử cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh.
Có thể thấy, với việc áp dụng sáng kiến “phát huy tính tích cực của học
sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở tường
Trung học sơ sở” vào thực tế giảng dạy Lịch sử thì kết quả được cao hơn nhiều.
Điều đó đã thúc đẩy tơi khơng ngừng phấn đấu để đạt được kết quả tốt hơn nữa.
Cùng với việc áp dụng phương pháp này vào tiết dạy cụ thể. Tôi đã thành công
trong giờ thao giảng cấp trường, và kết quả đạt loại giỏi.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc

áp dụng sáng kiến lần đầu:
STT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực

1

áp dụng sáng kiến
Học sinh lớp 9A, 9B, Trường THCS Kim Dùng để dạy các tiết
9C, 9D, 8A, 8B, 8C, Long – Tam Dương học Lịch sử trong

2

8D của trường THCS – Vĩnh Phúc

chương

Kim Long

hành

trình

hiện

Học sinh học giỏi Trường THCS Kim Dùng làm tài liệu bồi

môn Lịch sử khối 8,9 Long - Tam Dương - dưỡng học sinh giỏi
của trường THCS Vĩnh Phúc
môn Lịch sử 8,9
Kim Long

Kim Long, ngày 23 tháng 01 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị

Đỗ Thị Minh Phượng

Kim Long, ngày 22 tháng 01 năm 2019
Tác giả sáng kiến

Trần Thị Mộng Duyên

17



×