Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) chuyên đề rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.06 KB, 44 trang )

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh là một yêu cầu cần thiết,
quan trọng trong hoạt động dạy học Ngữ văn. Nếu chỉ trang b ị ki ến th ức
mà bỏ qua hoạt động rèn kĩ năng thì cũng giống như việc đã vất v ả cày
xới, gieo trồng nhưng rồi lại không quan tâm đến khâu hoàn thi ện s ản
phẩm và thu hoạch. Cho dù học sinh có kiến th ức sâu r ộng, m ới m ẻ đ ến
đâu cũng là không đủ để tạo nên những bài làm t ốt. Các em sẽ lúng túng
khi làm bài, nhất là trong bối cảnh Bộ GD&ĐT chủ trương đổi mới ph ương
pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá các mơn khoa h ọc xã h ội (trong
đó có Ngữ văn) theo tinh thần “... nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tăng cường ra các câu hỏi mở, gắn với thời sự quê hương đất
nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đ ề kinh t ế,
chính trị, xã hội”. [Theo công văn Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTrH,
năm 2013].
2. Ở mơn Ngữ văn THPT, thì phần làm văn trong tất cả các kì thi đều
yêu cầu học sinh thực hiện kiểu bài nghị luận. Do đó, rèn kĩ năng làm văn
nghị luận với đặc trưng riêng của kiểu bài này hẳn là yêu cầu có ý nghĩa
quan trọng. Đặc biệt là việc rèn cho học sinh kĩ năng làm nh ững d ạng đ ề
có tính chất tích hợp, đòi hỏi khả năng lập luận sắc bén, biết kết h ợp gi ữa
vốn sống trực tiếp và vốn sống gián tiếp một cách uy ển chuy ển, nhu ần
nhị như dạng bài: Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học. Đây là một trong những dạng bài rất phù hợp với tính ch ất c ủa
các kì thi học sinh giỏi mơn Ngữ văn, vì nó có khả năng kích thích s ự sáng
tạo, khơi gợi những cách nhìn nhận đa chiều về các vấn đề văn học và đ ời
sống; dễ dàng đánh giá năng lực tư duy, năng lực diễn đạt của người vi ết.
Việc rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận về vấn đề xã h ội đ ặt ra trong tác
phẩm văn học, do đó là yêu cầu xuất phát t ừ th ực ti ễn d ạy h ọc Ng ữ văn


nói chung và cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn nói riêng.
3. Để đáp ứng được mục tiêu dạy học Ngữ văn, nhất là tính hiệu quả
khi ơn tập cho học sinh trước mỗi kì thi; chúng ta cần tập trung hình thành
cho các em hai năng lực cơ bản là: đọc hiểu văn bản và t ạo lập văn b ản.
Tuy nhiên, việc rèn hai kĩ năng đọc hiểu và làm văn cho học sinh trong th ực
tế cịn thiếu tính hệ thống, gắn kết. Trong suy nghĩ của nhiều người, đọc


văn và làm văn là hai chuyện hoàn toàn khác nhau: Đọc văn ch ủ yếu là
hoạt động tiếp nhận các văn bản văn học trong sách giáo khoa. Còn làm
văn là việc học sinh trả bài trên giấy những hiểu biết đã đ ược h ọc về các
tác phẩm văn học. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng:
- Các tác phẩm được giảng dạy có một khoảng cách lớn với người
học, trở thành “những tinh cầu xa lạ” với hiện thực cuộc sống.
- Việc đọc hiểu tác phẩm văn học chỉ để thực hiện một yêu cầu học
tập mà khơng mang lại bất cứ liên hệ hữu ích nào v ới cu ộc s ống hàng ngày
của học sinh.
- Đa phần học sinh thấy khó khăn khi gặp một tác ph ẩm ngồi
chương trình, càng lúng túng khi gặp một đề bài ra theo lối m ở - đòi h ỏi
các em phải tự xác định vấn đề, soi chiếu vấn đề ở các góc độ khác nhau…
Để khắc phục những bất cập trên, bên cạnh các giải pháp nh ư đổi
mới đồng bộ chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, ki ểm tra
đánh giá…; chúng tôi cho rằng việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghị
luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn h ọc là một việc làm
cần thiết. Việc làm này mặc dù chỉ là giải pháp để nâng cao chất l ượng
dạy học một dạng bài cụ thể nhưng lại có tác dụng khơng nh ỏ trong vi ệc
liên kết chặt chẽ hai phân môn đọc văn và làm văn; đ ưa văn h ọc v ề g ần
hơn với đời sống; giúp cho học sinh có cái nhìn bao qt, tồn diện v ề
những vấn đề văn học và đời sống.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đổi

mới kiểm tra đánh giá; xuất phát từ những đòi hỏi của th ực tiễn d ạy học…
chúng tôi xây dựng chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học với mong muốn nghiên cứu và chia sẻ
một số vấn đề có tính chất gợi mở, phần nhiều là kinh nghiệm d ạy h ọc
kiểu bài này để cùng các đồng nghiệp hướng tới mục tiêu nâng cao ch ất
lượng dạy học Ngữ văn.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Với mục tiêu mở ra một cái nhìn có ý nghĩa tổng qt về kiểu bài
nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn h ọc, đồng th ời rút ra
những kinh nghiệm rèn kĩ năng làm dạng bài này cho h ọc sinh và chia s ẻ
một số tư liệu hữu ích phục vụ cơng tác dạy học; chúng tơi chủ trương
trình bày những vấn đề sau trong chun đề:


- Giới thiệu kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học trên các cơ sở lí luận và thực tiễn.
- Đưa ra những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng thực hiện kiểu bài
nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
- Giới thiệu một số đề bài và đáp án để phục vụ việc ôn tập và th ực
hành làm kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đ ặt ra trong tác ph ẩm văn
học.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Văn nghị luận
a. Khái niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghị luận: Bàn và đánh giá cho rõ về
một vấn đề nào đó. Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để
phân tích giải quyết một vấn đề”.

Từ điển thuật ngữ văn học cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn
nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đ ời s ống
khác nhau: chính trị, xã hội, triết học, văn hố. Mục đích của văn chính lu ận
là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá tức thời m ột t ư t ưởng, m ột
quan điểm nào đó. Đặc trưng cơ bản nhất của văn chính lu ận là tính ch ất


luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục ng ười đ ọc
chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ”.
Như vậy, có thể hiểu: Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm phát
biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách tr ực
tiếp về các vấn đề văn học, chính trị, đạo đức, lối sống... và được trình bày
bằng một thứ ngơn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ,
mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là loại văn phổ biến trong nhà tr ường,
thường được lấy làm yêu cầu của phần làm văn trong các đề thi hiện nay.
Vì văn nghị luận thể hiện năng lực tư duy, lo-gic của người viết; v ừa cho
thấy khả năng diễn đạt, trình bày quan điểm riêng một cách thuyết ph ục.
Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành t ừ các
yếu tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (luận đề), luận điểm, luận
cứ và lập luận (luận chứng).
b. Phân loại:
Căn cứ vào nội dung nghị luận, có thể chia văn nghị lu ận thành hai
loại: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Theo đó: Nghị luận văn học có
nội dung bàn luận về một vấn đề văn học, còn Nghị luận xã hội lại hướng
tới bàn luận về một vấn đề nảy sinh trong xã hội.
1.2. Kiểu bài Nghị luận xã hội
- Dựa theo cách hiểu của Từ đi ển từ và ng ữ Han Vi ệt về xã hội
(“xã hội là một tập thể ng ười cùng sống, gắn bó với nhau trong quan h ệ
sản xuất và các quan hệ khác” ); chúng ta có thể hiểu Nghị lu ận xã hội là
kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đ ến các m ối

quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Ph ạm vi của nghị luận xã h ội
rất rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng nh ư: mối quan h ệ c ủa
con người với môi trường sống, mối quan hệ của cá nhân v ới cộng đ ồng,
các vấn đề về lối sống, lý tưởng sống, những hiện t ượng tích c ực ho ặc tiêu
cực của đời sống xã hội… Việc bàn luận về những vấn đề trên sẽ góp phần
làm cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi
người ý thức chăm sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối
quan hệ trong xã hội, trong cộng đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn.
Khơng chỉ vậy, nó cịn có khả năng rèn năng lực tư duy, giúp con người có thể
đối diện với các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những vấn đề ấy.
- Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng:
+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí


+ Nghị luận về một hiện tượng đời sống
+ Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Ba dạng đề này có những nét tương đồng và khác biệt:
Dạng đề

Nghị luận về một
hiện tượng đời
sống

Nghị luận về một
vấn đề xã hội đặt ra
trong TPVH

Bàn luận về một
vấn đề tư tưởng,
đạo đức, lối sống…

của con người.

Bàn luận về một
hiện tượng, một
vấn đề có tính thời
sự, được dư luận xã
hội quan tâm.

Bàn luận về một vấn
đề xã hội (một tư
tưởng, đạo đức, lối
sống hoặc một hiện
tượng đời sống) được
rút ra từ một câu/
một đoạn trích hoặc
rút ra từ nội dung của
một tác phẩm văn
học nào đó.

Mang tính khái
quát cao về những
chân lí, những bài
học đạo đức; góp
phần định hướng
cho con người có
lẽ sống tốt đẹp.

Thường đi vào
những vấn đề cụ
thể (như những

biểu hiện tích cực
hoặc tiêu cực)
trong cuộc sống. Từ
đó, gợi ý cho con
người những hành
vi và cách ứng xử
đúng đắn.

Xuất phát từ nội dung
xã hội cụ thể trong
một tác phẩm văn
học, đề bài hướng
đến mục tiêu: Hình
thành cho học sinh
năng lực khái quát
vấn đề, thể hiện
quan điểm của mình
trước những vấn đề
đời sống.

Nghị luận về một
tư tưởng, đạo lí
So sanh

Khac nhau

Giống
nhau

* Về nội dung: Cùng đề cập đến những vấn đề xã hội, góp phần

nâng cao nhận thức và định hướng về lối sống, cách ứng x ử cho
con người.
* Về phương pháp nghị luận: Để thực hiện các dạng bài trên,
người viết đều cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
như: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ để bàn


luận, trình bày quan điểm của mình xoay quanh vấn đ ề xã hội
được đề cập.
1.3. Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học
a. Cơ sở hình thành kiểu bài
- Xuất phát từ chức năng phản ánh của văn học mà hiện th ực tr ở
thành thuộc tính tất yếu của mỗi tác phẩm văn học. Trong bất kì tác ph ẩm
văn học nào, chúng ta cũng thấy hơi thở, bóng dáng của hiện th ực đ ời s ống
khách quan được nhà văn phản ánh. Cho nên, dù các tác phẩm văn học ra
đời ở giai đoạn, thời kì nào thì những vấn đề xã hội mà nó đề cập v ẫn có ý
nghĩa với cuộc sống hiện tại. Tiếp nhận một tác phẩm văn h ọc, ng ười đọc
không chỉ suy tư, chiêm nghiệm về những vấn đề xã hội ở thời đại mà tác
phẩm ra đời ; mà họ còn có cơ hội nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo
về những vấn đề của đời sống nhân sinh trên cơ sở so sánh xã h ội hôm
qua và hôm nay ; xã hội được nhà văn phản ánh và xã hội hiện tại mà mình
đang sống... Ngồi ra, do đặc trưng của hoạt động ti ếp nh ận văn h ọc nên
người đọc có thể bộc lộ quan điểm của bản thân về một nội dung nào đó,
khơng lệ thuộc vào cách nhìn của người khác. Chính đi ều này tr ở thành c ơ
sở cho sự ra đời của những đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã h ội
đặt ra trong tác phẩm văn học.
- Đề văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đ ổi m ới
phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá ở môn h ọc này.
Trong những năm học gần đây, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả việc đổi mới cách ra đề văn: từ nội dung kiểm tra đ ến hình th ức, c ấu
trúc của một đề bài. Trong đó, cách hỏi ở câu Nghị luận xã hội càng lúc
càng phong phú, đa dạng. Không dừng lại ở nh ững câu h ỏi có tính ch ất
khn mẫu như dựa vào một ý kiến hay nêu ra một hiện tượng để yêu cầu
học sinh bàn luận; mà có nhiều đề bài mở đầy sáng tạo đã ra đ ời và đ ược
dư luận đánh giá cao. Trong đó, kiểu bài nghị luận về một vấn đ ề xã h ội
đặt ra trong tác phẩm văn học được xem là cách hỏi “v ừa quen, v ừa lạ”;
vừa mô phạm, vừa kích thích sáng tạo; vừa kiểm tra đ ược năng l ực c ảm
thụ văn học; vừa đánh giá được tư duy lo-gic và kiến th ức xã hội của h ọc
sinh… Đó là lí do sự xuất hiện của kiểu bài này càng lúc càng nhi ều, nh ất là
trong xu hướng đổi mới kiểm tra môn Ngữ văn theo định h ướng năng l ực
hiện nay.
b. Đặc điểm của kiểu bài:


Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác ph ẩm văn học là
kiểu bài nghị luận xã hội chứ không phải ngh ị luận văn học. Vì đ ối t ượng
trực tiếp đề bài yêu cầu bàn luận là một vấn đề xã hội chứ không phải
một nội dung văn học; tác phẩm văn học chỉ đóng vai trị là ph ạm vi, xu ất
xứ của vấn đề xã hội được yêu cầu bàn luận trong đề bài. Về điều này,
sách giáo viên Ngữ văn 12 (Nâng cao) đã lưu ý nh ư sau: “Nhiều người
nhầm dạng đề này là nghị luận văn học, vì đề có liên quan đ ến tác ph ẩm
văn học. Đúng là dạng đề này liên quan và xuất phát t ừ tác ph ẩm văn h ọc,
những tác phẩm văn học chỉ là “cái cớ” khởi đầu. Mục đích chính của d ạng
đề này vẫn là yêu cầu người viết bàn bạc, nghị luận về một vấn đề xã hội,
đạo lí, tư tưởng, nhân sinh… Nghĩa là nhân vấn đề đặt ra trong tác ph ẩm
văn học mà luận bàn, kiến giải. Trong trường hợp này, tác ph ẩm văn h ọc
chỉ được khai thác về giá trị nội dung, tư tưởng, rút ra ý nghĩa xã h ội khái
quát của tác phẩm ấy”. [16]. Như vậy, có thể xem Nghị luận về một vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một kiểu bài đặc biệt, có tính chất

giao thoa giữa nghị luận văn học và nghị luận xã hội, để th ực hiện nó
người viết cùng lúc cần huy động cả kiến th ức văn học và kiến th ức xã h ội,
kĩ năng đọc hiểu và kĩ năng làm văn.
Để nhận diện được các dạng đề ra cụ thể chúng tơi cho rằng: có ba
căn cứ để phân biệt các đề thuộc kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt
ra trong tác phẩm văn học. Đó là: Nội dung nghị luận; Hình thức/cách hỏi
của đề bài và Đặc điểm của tác phẩm văn học được lấy làm cơ sở để ra
đề. Cụ thể:
- Về nội dung nghị luận: Vấn đề xã hội được yêu cầu bàn luận có
thể là một tư tưởng đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống.
- Về hình thức đề ra: Đề bài có thể trực tiếp đưa ra một vấn đề xã
hội nào từ tác phẩm văn học cho học sinh bàn luận hoặc yêu cầu học sinh
tự rút ra vấn đề có ý nghĩa xã hội từ tác phẩm để luận bàn.
- Về đặc điểm của tac phẩm văn học được lấy làm cơ sở để ra
đề: Tác phẩm văn học chứa đựng vấn đề xã hội (là nội dung ngh ị luận) có
thể là một đoạn trích/ một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm đ ược h ọc
trong chương trình hoặc một đoạn trích/ một tác phẩm ngồi ch ương
trình.
Dưới đây là một số ví dụ về các dạng đề cụ thể thuộc kiểu bài Nghị
luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học :
Yêu cầu nghị luận về Qua bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu, hãy trình bày


một tư tưởng đạo lí suy nghĩ của mình về ý nghĩa của lý tưởng sống v ới
được rút ra từ tác thanh niên.
phẩm văn học.
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn
Yêu cầu nghị luận về Nguyễn Minh Châu đã đề cập đến một vấn đề có tính
một hiện tượng đời chất nhức nhối trong xã hội hiện nay, đó là: Nạn bạo
sống được được đặt ra hành gia đình.

trong tác phẩm văn
Hãy viết một bài văn ngắn để trình bày suy nghĩ, quan
học.
điểm của mình xoay quanh vấn đề trên.
Từ đoạn trích trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng
Yêu cầu nghị luận về
thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ, nghĩ về niềm hạnh
một vấn đề xã hội xác
phúc của con người khi được sống thực với mình và
định
mọi người.
Trong đoạn trích Đất Nước (trường ca Mặt đường
khát vọng) có những câu thơ:
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Yêu cầu học sinh tự Phải biết gắn bó và san sẻ
rút ra vấn đề xã hội từ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
tác phẩm văn học để
bàn luận
Làm nên đất nước muôn đời …
Theo anh/chị nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới
thế hệ trẻ thơng điệp gì qua đoạn thơ trên ? Hãy vi ết
một bài văn để trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa
của thơng điệp đó.
u cầu nghị luận về
một vấn đề xã hội đặt
ra trong một đoạn
trích/một tác phẩm
hoặc một nhóm tác
phẩm trong chương
trình.


Từ những câu chuyện gia đình trong các tác
phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
và Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn Minh Châu);
anh/chị hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của
mình về vai trị của gia đình với cuộc sống của mỗi con
người.


Mùa đơng đang đến rất gần
Các lồi chim bắt đầu thấy lạnh
Rủ nhau bay về nam lẩn tránh,
Dù suốt mùa hè ca ngợi quê hương
Yêu cầu nghị luận về
một vấn đề xã hội đặt Chỉ đại bàng vẫn ngồi im
ra trong một đoạn
trích/một tác phẩm Lặng lẽ nhìn những hàng cây trút lá
ngắn ngoài chương
Khi đất nước gặp những ngày băng giá
trình.
Đại bàng khơng bỏ bay đi
(Thơ Rasul Gamzatov, Thái Bá Tân
dịch)
Từ hình tượng của chú chim đại bàng trong bài thơ
trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn để trình bày
suy nghĩ của mình về tình yêu quê hương, tổ quốc của
mỗi con người.
2. Cơ sở thực tiễn
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng: Kiểu bài Nghị luận về vấn
đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một thử thách với số đông học

sinh. Dưới đây là một số đề thuộc kiểu bài này hoặc ít nhiều có m ối liên
quan đến nó mà chúng tôi tập hợp lại từ các đề thi trong m ột s ố năm g ần
đây:
2009

- Đề thi HSG cac trường chuyên vùng duyên hải Bắc Bộ, năm

Từ hình ảnh đồng tiền trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), anh/chị hãy bàn
về đồng tiền trong cuộc sống hôm nay.
- Đề thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2010
Đối thủ đáng sợ nhất


ông:
anh?

Khi Abraham Lincoln ra tranh cử tổng thống, một người b ạn đã h ỏi
- Anh thấy mình có hy vọng gì khơng? Ai là đối thủ đáng sợ nh ất c ủa

Và Abraham Lincoln đã đưa ra một câu trả lời tuy hài hước
nhưng rất thật:
- Tôi không ngại Breckingridge vì ơng ta là người
miền Nam nên người dân miền Bắc sẽ không ủng hộ ông ta. Tôi cũng khơng
ngại Douglas vì ơng ta là người miền Bắc nên người dân ở miền Nam sẽ
khơng nhiệt tình bỏ phiếu cho ơng ta. Nhưng có một đối thủ mà tơi r ất s ợ,
ơng ta là người duy nhất có thể khiến tôi thất cử…
Người bạn liền vội ngắt lời:
- Ai vậy?
Nhìn thẳng vào mắt bạn mình, Abraham Lincoln nói:
- Nếu lần này tôi không được bầu làm tổng thống thì anh hãy

biết rằng đó chính là lỗi của ơng ta. Ơng ta chính là Abraham Lincoln!
(Những tấm lịng cao cả, NXB Trẻ, 2004, trang 76)
Câu chuyện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
- Đề thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2012
Hai biển hồ
Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi
là biển Chết. Đúng như tên gọi, khơng có sự sống nào bên trong cũng nh ư
xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ khơng có một loại cá nào có thể
sống nổi. Ai ai cũng đều khơng muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-lilê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào
cũng trong xanh mát rượi, con người có th ể uống được mà cá cũng có th ể
sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh
tốt tươi nhờ nguồn nước này.
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn
nước từ sơng Gic-đăng. Nước sơng Gic-đăng chảy vào bi ển Ch ết. Bi ển
Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên n ước trong


biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn n ước từ
sơng Gic-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nh ờ v ậy n ước
trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con
người.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
Theo anh (chị), bài học cuộc sống rút ra từ câu chuyện trên là gì?
- Đề thi Tốt nghiệp, môn Ngữ văn 12, năm 2014
đoạn:

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có

Hồn Trương Ba : Ơng Đế Thích ạ, tơi khơng thể tiếp tục mang thân
anh hàng thịt được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế? Có gì khơng ổn đâu!
Hồn Trương Ba : Không thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo
được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn.
Đế Thích : Thế ơng ngỡ tất cả mọi người đều được là mình tồn vẹn
cả ư? Ngay cả tơi đây. Ở bên ngồi, tơi đâu có được sống theo nh ững đi ều
tơi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hồng nữa, chính người lắm khi cũng ph ải
khn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên tr ời đ ều
thế cả, nữa là ơng. Ơng đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của
ơng đã tan rữa trong bùn đất, cịn chút hình thù gì của ơng đâu!
Hồn Trương Ba : Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là
chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng
thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tơi sống, nhưng sống như th ế nào thì ơng
chẳng cần biết!
(Ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.
149)
Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đo ạn trích
trên. Từ đó, trình bày suy nghĩ của anh/ch ị về vấn đề : con ng ười cần đ ược
sống là chính mình.
* * *
Như vậy: Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học xuất hiện chủ yếu trong các đề thi dành cho học sinh gi ỏi. Bên
cạnh đó, vào năm 2014 trong đề thi tốt nghiệp đã xu ất hi ện đ ề văn tích
hợp cả hai câu: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Đây là đ ề văn đòi h ỏi
học sinh thực hiện cả hai yêu cầu nghị luận văn học và ngh ị luận xã h ội,


trong đó phân tích văn học làm cơ sở để trình bày quan đi ểm suy nghĩ v ề
vấn đề xã hội. Tuy không đơn thuần là bài văn Nghị luận về một vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học những chúng tôi cho rằng câu hỏi trong
đề thi tốt nghiệp THPT năm 2014 khá gần gũi với dạng đề này; có th ể m ở

ra nhiều đề bài yêu cầu tích hợp tương tự.
Mặc dù đã xuất hiện nhiều trong các đề thi, nh ưng dạng bài này v ề
cơ bản cịn mới và khó với các em học sinh. Bởi lẽ: Ch ương trình SGK ch ưa
chú trọng đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận về vấn đề xã h ội đặt ra
trong tác phẩm văn học cho học sinh. Khảo sát hai bộ SGK Chuẩn và Nâng
cao chúng tôi thấy: Ở chương trình Chuẩn chỉ đề cập đến hai kiểu bài
là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời
sống, mà không nhắc đến kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học. Cịn ở chương trình Nâng cao chỉ có một
tiết: Luyện tập nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học . Đó là lí
do, kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học thực tế còn
nhiều xa lạ với cả giáo viên và học sinh. Đối với việc dạy c ủa giáo viên,
vấn đề đặt ra là không biết căn cứ vào đâu để hình thành m ột ph ương
pháp rèn kĩ năng làm kiểu bài này thật hiệu quả, khoa h ọc cho h ọc sinh và
làm sao để tránh được khuynh hướng xã hội hóa dung tục khi phân tích
một tác phẩm văn học. Cịn đối với học sinh, hiện nay còn nhiều em ch ưa
phân biệt được đây là đề nghị luận văn học hay ngh ị luận xã h ội; nhi ều em
không biết cách triển khai vấn đề khi làm bài, chủ y ếu th ực hiện đ ề bài
một cách bản năng, không đáp ứng được yêu cầu chặt chẽ, thuyết ph ục, logic của một bài văn nghị luận.
Vì lẽ đó, chúng tơi cho rằng rất cần thiết tìm hiểu kiểu bài Nghị luận
về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học một cách có hệ thống để
tháo gỡ những lúng túng của giáo viên và học sinh khi cần x ử lí m ột đ ề văn
thuộc kiểu này.
II. RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA
TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề là bước đầu tiên nhưng đóng vai trị đặc bi ệt quan
trọng trong q trình làm văn; chính thao tác đ ầu tiên này sẽ quy ết đ ịnh
bài viết của học sinh có được triển khai hợp lí, hiệu quả hay không. Do đ ặc
điểm của kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn

học thường hướng tới kiểm tra năng lực phát hiện vấn đề xã hội trong tác
phẩm văn học, phân tích và luận bàn về vấn đề đó; nên trong khâu tìm
hiểu đề học sinh cần thiết trả lời được các câu hỏi: Đề bài yêu cầu nghị


luận về vấn đề gì ? Đâu là nội dung nghị luận quan trọng nh ất ? Vấn đề
nghị luận thuộc phạm vi nào ? Có bao nhiêu ý cần triển khai ? Mối quan h ệ
giữa các ý như thế nào ? Cần sử dụng những thao tác lập luận nào để thực
hiện yêu cầu của đề bài … Để học sinh thực hiện tốt bước tìm hiểu đề,
giáo viên cần chú ý rèn luyện cho các em kinh nghiệm đ ọc đ ề, phân tích và
xác định yêu cầu của đề theo trình tự hợp lí.
Việc Đọc là cơ sở để Hiểu yêu cầu của đề bài nhưng thực tế các em
học sinh thường rất qua loa khi đọc đề, dẫn đến tình tr ạng xác đ ịnh sai
vấn đề nghị luận hoặc không xác định được yêu cầu cơ bản. Giáo viên cần
lưu ý học sinh đọc kĩ đề, chú ý từ hình th ức đến n ội dung của đề (th ể hi ện
qua câu chữ, cách diễn đạt, những yêu cầu cụ th ể…). Trong đó, c ần h ướng
dẫn học sinh tìm hiểu những từ ngữ quan trọng trong đ ề bài, nh ững cách
diễn đạt nhằm nhấn mạnh ý, những cách nói bóng bẩy, nhiều nghĩa... V ới
một đề bài có nhiều thơng tin được diễn đạt bằng nhiều câu, nhi ều vế;
học sinh cần biết chia tách đối tượng để tìm hiểu t ừng n ội dung c ụ th ể,
nhìn nhận mối tương quan giữa các nội dung và khái quát đ ể th ấy đ ược
yêu cầu chung của đề.
Xét các đề bài ví dụ dưới đây:
Đề 1. Phải chăng hiện tượng người trong bao khơng chỉ có trong
truyện ngắn của Sê-khốp mà đã trở thành một hiện tượng khá ph ổ bi ến
trong xã hội ngày nay ?
Đề 2. Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn
Minh Châu, anh (chị) có cảm nghĩ và suy tư gì về m ối quan h ệ gi ữa cu ộc
sống nghèo khó và tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội hôm nay ?
Tiếp xúc với các đề bài trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh

đọc kĩ từng câu chữ, cách diễn đạt trong đề rồi rút ra nhận xét v ề hình
thức và nội dung của từng đề. Cụ thể:
Ở đề 1, cấu trúc “Phải chăng…” là một câu hỏi tu từ, mục tiêu nhấn
mạnh và khơi gợi suy ngẫm của học sinh về sự xuất hiện ngày càng nhi ều
hiện tượng người trong bao trong xã hội. Do đó, dù đề khơng trực tiếp
đưa ra yêu cầu nghị luận thì học sinh vẫn cần xác định để làm bài cần
phân tích, bình luận, thể hiện những đánh giá, kiến giải c ủa bản thân v ề
hiện tượng xã hội trên. Để luận bàn, học sinh lấy tác phẩm Người trong
bao của Sê-khốp làm cơ sở để lí giải thế nào là người trong bao; từ đó soi
chiếu vào hiện thực cuộc sống để đưa ra những đánh giá, luận bàn về l ối
sống trong bao.


Ở đề 2, cần chú ý đến cấu trúc “Từ… anh (chị) có cảm nghị và suy tư
gì về …” để thấy đề bài đã cụ thể hóa yêu cầu: Từ tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa để luận bàn về những vấn đề xã hội cụ thể. Học sinh cũng quan
tâm đến những từ ngữ quan trọng, thể hiện yêu cầu ngh ị luận, trong đó
cần đặc biệt chú ý đến cụm từ “mối quan hệ giữa cuộc sống nghèo khó và
tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội”. Vì đề bài khơng chỉ u cầu nhìn
nhận, đánh giá về hai nội dung xã hội là “cuộc sống nghèo khó” và “tình
trạng bạo lực gia đình” trong xã hội hiện nay; mà đòi h ỏi h ọc sinh nêu
quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa hai hiện t ượng xã hội đó.
Tùy thuộc vào đặc điểm và cấu tạo của đề bài mà học sinh sẽ xác
định được mức độ nghị luận và phạm vi tư liệu sử dụng trong bài viết.
2. Rèn kĩ năng lập dàn ý
Muốn có một bài nghị luận chặt chẽ, thuyết phục, lo-gic, n ổi b ật
được yêu cầu nghị luận thì kĩ năng lập dàn ý đóng một vai trò quan tr ọng.
Lập dàn ý là lựa chọn các ý đã tìm được ở bước phân tích đề và s ắp x ếp
chúng theo một trật tự hợp lí, dự kiến được mức độ trình bày m ỗi ý sao
cho phù hợp, hiệu quả. Dàn ý sẽ giúp người viết có th ể bao quát đ ược

những nội dung của bài, cân đối các nội dung trình bày, tránh b ỏ ý ho ặc
nêu vấn đề một cách vòng vo, lộn xộn; chủ động về th ời gian làm bài. Dàn
ý cũng giúp cho người đọc/ người chấm dễ dàng theo dõi tiến trình ngh ị
luận và đánh giá được năng lực làm văn của người viết; giúp bài văn d ễ gây
thiện cảm với đối tượng tiếp nhận.
Để đáp ứng được bố cục của một bài văn nghị luận và trình bày v ề
vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học một cách khoa h ọc; chúng ta
có thể sơ đồ hóa cấu trúc thực hiện một bài văn Nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học như sau:


Cũng giống như kết cấu chung của một bài văn nghị luận, ở kiểu
bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học chúng ta
cũng phải tuân thủ việc thực hiện bài văn theo kết cấu 3 phần: Mở bài,
Thân bài và Kết bài. Trong đó, mỗi phần có một nhiệm vụ riêng.
Cụ thể:
a. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu tác phẩm, tác giả có liên quan.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong tác phẩm.
b. Thân bài
b.1. Làm rõ vấn đề xã hội được đề cập trong tác phẩm văn học
- Nếu đề bài đã chỉ rõ yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội
cụ thể đặt ra trong tac phẩm văn học thì cần sơ lược giới thiệu, phân


tích về biểu hiện của vấn đề xã hội đó trong tác phẩm văn học. Có th ể d ựa
vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Vấn đề xã hội được nhắc đến trong tác phẩm như thế nào ?
+ Tác giả đã nhìn nhận, đánh giá về vấn đề xã hội đó ra sao ?
+ Cắt nghĩa, lý giải : cơ sở nào hình thành vấn đề xã hội đó trong tác

phẩm (do bối cảnh lịch sử, do thực tế đời sống, do quan niệm của con
người... ?)
- Nếu đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội được đặt
ra trong một tac phẩm chưa được học hoặc chưa nêu cụ thể đó là
vấn đề xã hội nào; thì cần thực hiện thao tác đọc hiểu văn bản tác phẩm
văn học mà đề cho, để rút ra vấn đề xã hội cần nghị luận. Đây là m ột thao
tác không đơn giản vì một tác phẩm văn học thường mở ra nhiều h ướng
tiếp nhận, có thể mỗi học sinh lại phát hiện, nhìn nh ận, đánh giá v ề tác
phẩm một cách khác nhau. Làm sao để việc rút ra vấn đề xã hội t ừ tác
phẩm đó khơng rơi vào tình trạng phỏng đốn thiếu căn c ứ hoặc sa vào
khuynh hướng xã hội hóa, dung tục ; giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho
học sinh cách thức thực hiện khâu đọc hiểu và rút ra vấn đề xã h ội trong
tác phẩm. Có thể dựa vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Tác phẩm (câu chuyện mi-ni/ bài thơ ngắn/ đoạn trích...) nói về
nội dung gì ?
Để trả lời câu hỏi này, học sinh có thể dựa vào nhan đề của tác phẩm, các
yếu tố nghệ thuật có tác dụng làm nổi bật nội dung như từ ngữ, hình ảnh,
các biện pháp tu từ, các hình thức liên kết câu – liên kết đoạn văn ...
+ Tác phẩm/ đoạn trích đề cập đến những vấn đề xã hội nào ? Đâu
là vấn đề xã hội cơ bản, liên quan đến yêu cầu của đề bài ? Vấn đề xã hội
đó là một tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng đời sống ?
+ Tác giả có ngầm thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình về
vấn đề xã hội được nhắc đến trong tác phẩm/đoạn trích đó hay khơng ?
b.2. Nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn h ọc
(Làm rõ vấn đề trong thực tế xã hội)
Đây là phần trọng tâm của bài viết. Trên cơ sở xác định được n ội
dung xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là gì, thuộc phạm trù t ư t ưởng,
đạo lí hay hiện tượng đời sống mà người viết sẽ tiến hành bàn luận về



vấn đề đó theo trình tự nghị luận phù hợp với từng dạng bài Nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí hoặc Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tac phẩm văn học là một tư
tưởng, đạo lí; học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình t ự:
+ Giải thích (nếu cần). Với những vấn đề xã hội được diễn đạt bằng
những từ ngữ, hình ảnh ít nhiều mang nghĩa ẩn dụ, biểu tượng hoặc có
nhiều cách hiểu thì người viết cần giải thích nội dung c ủa nh ững t ừ ng ữ
đó trước khi tiến hành bàn luận vấn đề.
+ Bàn luận vấn đề: Soi chiếu vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trên các
phương diện khác nhau để nhìn nhận cả mặt đúng đắn (chính đ ề) ho ặc
chỗ chưa đầy đủ, thuyết phục của nó (phản đề).
- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tac phẩm văn học là hiện
tượng đời sống, học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình t ự:
+ Giải thích (nếu cần)
+ Bàn luận: Làm rõ về hiện tượng thông qua biểu hiện của hiện
tượng, ý nghĩa của hiện tượng (tích cực hay tiêu cực), cắt nghĩa nguyên
nhân của hiện tượng và rút ra những bài học có ý nghĩa giải pháp đ ể kh ắc
phục hiện tượng tiêu cực hoặc nhân rộng hiện tượng tích cực ...
b.3. Đánh giá, nhìn nhận nét ổn định hoặc chuyển biến của vấn đề xã
hội từ tác phẩm văn học đến cuộc sống.
Để bài viết được sâu sắc, toàn diện; sau khi bàn luận về v ấn đề xã
hội thì người viết nên có cái nhìn đối sánh về nội dung xã h ội đ ược đ ề c ập
trong tác phẩm văn học và hiện thực cuộc sống hiện nay. Ch ỉ ra nét ổn
định và biến đổi của vấn đề; lý giải nguyên nhân của nét ổn đ ịnh và bi ến
đổi đó (do hồn cảnh, điều kiện xã hội, cái nhìn riêng của tác gi ả ...)
c. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần bàn luận.
Rút ra bài học nhận thức và hành động.
3. Rèn kĩ năng diễn đạt, trình bày bài văn
Diễn đạt, trình bày, hồn thiện bài văn là bước th ực thi kế hoạch làm
bài đã được vạch ra từ dàn ý; cũng là chỗ th ể hiện rõ nh ất năng l ực ngôn

ngữ của học sinh, quyết định chất lượng của bài viết. V ới b ất kì d ạng đ ề
văn nào, giáo viên cũng cần chú ý đến khâu rèn kĩ năng diễn đ ạt, trình bày


cho học sinh. Từ việc rèn kĩ năng thực hiện bài văn theo b ố c ục ba
phần: Mở, Thân, Kết với yêu cầu về nội dung, hình thức của từng phần;
đến việc rèn những thao tác, kĩ năng cụ thể như viết câu, d ựng đo ạn, liên
kết – chuyển ý giữa các câu, các đoạn; cách mở rộng, nâng cao vấn đ ề…
Trong phạm vi của chuyên đề này, chúng tơi khơng có đi ều ki ện c ụ
thể hóa phương pháp rèn luyện từng kĩ năng để diễn đạt và hoàn thiện
một bài văn; mà chỉ nêu lên một số kinh nghiệm rèn diễn đạt có ý nghĩa
thiết thực trong việc thực hiện kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội được
đặt ra trong tác phẩm văn học.
Với dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm
văn học, cái khó không chỉ nằm ở chỗ cần xác định được vấn đề xã hội và
lập ý sao cho chặt chẽ, khoa học; mà còn ở khâu diễn đ ạt. Đ ể có m ột bài
nghị luận thuyết phục, học sinh cần biết cách sử dụng câu ch ữ, hành văn
để kết nối các nội dung về văn học và đời sống một cách uy ển chuy ển,
nhuần nhuyễn. Cần tránh tình trạng chia bài viết thành hai phần đ ộc l ập
(phần thứ nhất là nghị luận văn học, phần th ứ hai là nghị luận xã h ội);
hoặc lan man, sa đà phân tích tác phẩm văn học, h ời h ợt khi bàn lu ận v ề
vấn đề xã hội. Với học sinh giỏi, càng cần có khả năng nhấn - l ướt phù
hợp, chọn lọc ý khi trình bày; biết cách để th ể hiện quan đi ểm, ch ủ ki ến
của mình về vấn đề bàn luận một cách tinh tường, sắc sảo. Do đó, khi th ực
hiện rèn kĩ năng làm văn cho học sinh; chúng tôi đặc biệt quan tâm đ ến kĩ
năng diễn đạt mở bài, thân bài, kết bài và kĩ năng chuy ển ý, chuy ển đo ạn.
3.1. Rèn kĩ năng viết mở bài
Giống như các dạng đề nghị luận khác, phần mở bài của bài văn nghị
luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học có thể thực
hiện trực tiếp hoặc gian tiếp; và dù làm theo cách nào cũng cần đảm bảo

hai yêu cầu: vừa dẫn dắt, khơi gợi ấn tượng cho người đọc; v ừa gi ới thi ệu
khái quát về vấn đề nghị luận sẽ được triển khai trong bài văn (n ội dung
nghị luận, phạm vi tư liệu, tầm quan trọng của vấn đề…).
Tuy nhiên, nếu những kiểu bài nghị luận khác như nghị luận xã hội
về một hiện tượng đời sống, nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị lu ận
về vấn đề văn học… rất dễ để giới thiệu vấn đề nghị luận (thơng thường
học sinh chỉ cần trích xuất thơng tin trong đề là đã hồn thành khâu gi ới
thiệu khái quát vấn đề nghị luận) thì ở kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội
được đặt ra trong tác phẩm văn học việc giới thiệu vấn đề nghị luận gặp
nhiều khó khăn hơn. Vì: Học sinh vừa cần dẫn dắt, giới thiệu v ề tác ph ẩm
văn học có liên quan; vừa phải nêu được vấn đề có ý nghĩa xã h ội rút ra t ừ
tác phẩm đó làm cơ sở để bàn luận. Làm sao để việc dẫn d ắt và nêu hai


loại thông tin cần thiết này không khiến cho phần m ở bài dài dòng, c ứng
nhắc là một thử thách với học sinh.
Trong quá trình rèn kĩ năng mở bài cho một bài văn nghị luận về vấn
đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học , chúng tôi thường hướng
dẫn học sinh thực hiện một trong hai cách:
- Cách 1. Giới thiệu vấn đề cần bàn luận rồi kh ẳng đ ịnh vấn đ ề đó
khơng chỉ là câu chuyện/ tình tiết được đề cập trong một tác ph ẩm văn
học cụ thể mà còn là một vấn đề có ý nghĩa với xã h ội hiện nay.
- Cách 2. Giới thiệu về tác phẩm văn học có liên quan, kh ẳng đ ịnh
một phương diện quan trọng làm nên giá trị nội dung của tác ph ẩm chính
là vấn đề có ý nghĩa xã hội được tác giả đề cập. Sau đó nêu rõ v ấn đ ề xã
hội đó là gì.
Ví dụ xét đề bài dưới đây:
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), nhân
vật Trương Ba đã nói: Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo
được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn. Câu nói của Trương Ba, gợi cho anh

(chị) suy nghĩ gì về tình trạng con người khơng được sống là mình ?
Mở bài theo cách 1
Trong cuộc sống, nhiều khi vì hồn cảnh mà con người khơng được
sống là chính mình. Hiện tượng con người phải sống “bên trong một đ ằng,
bên ngoài một nẻo” không chỉ là bi kịch của nhân vật Tr ương Ba trong v ở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, mà còn là một thực
trạng đau lịng trong xã hội hiện nay.
(Trích: Bài làm của học sinh)
Mở bài theo cách 2
Nhờ có Hồn Trương Ba, da hàng thịt mà Lưu Quang Vũ đã trở
thành cây bút xuất sắc nhất của sân khấu kịch Việt Nam (không ch ỉ trong
những năm 80 của thế kỉ trước). Tuy nhà văn đã đi về thế giới của Hồn
Trương Ba, ẩn mình trong từng vịm cây, khóm lá… nhưng tấm lòng và
những suy tư, trăn trở về cuộc đời của ơng trong vở k ịch ấy v ẫn cịn mãi
trong lòng bạn đọc. Một trong số những phương diện làm nên thành cơng
của vở kịch chính là nội dung xã hội sâu sắc của nó; nh ất là khát v ọng v ề
một cuộc sống thực sự đã được nhà văn gửi gắm qua lời của nhân v ật
Trương Ba: “Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một n ẻo được. Tôi


muốn được là tơi tồn vẹn”. Phải chăng chuyện con người khơng được sống
là chính mình khơng chỉ là hồn cảnh riêng của Trương Ba, mà đã thành bi
kịch đau đớn của bao người trong xã hội hiện đại ?
(Trích: Bài làm của học sinh)
Ngoài yêu cầu về một mở bài đúng, đáp ứng được yêu cầu về nội
dung; giáo viên cịn cần khuyến khích học sinh sáng tạo khi th ực hi ện m ở
bài với những cách diễn đạt giàu hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc... T ất nhiên,
đây là chuyện lâu dài, cần có cả một quá trình rèn luy ện, bồi d ưỡng và có
khi cịn phụ thuộc cả vào năng khiếu của từng học sinh. Vì v ậy trong
chun đề này, chúng tơi chỉ dừng lại ở kinh nghiệm rèn kĩ năng vi ết m ở

bài nhằm giúp học sinh thực hiện một cách có hiệu quả nh ất.
3.2. Rèn kĩ năng viết thân bài
Thân bài là phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài
là triển khai đầy đủ và chi tiết hệ thống luận điểm, luận c ứ, lu ận ch ứng
để làm sáng tỏ luận đề. Khi thực hiện thân bài, học sinh cần biết cách chia
tách thành nhiều đoạn văn và sắp xếp chúng theo trình tự h ợp lí. Trong đó,
mỗi đoạn văn là sự triển khai hoàn chỉnh một nội dung đã đ ược xác đ ịnh
từ khi lập dàn ý. Bám sát dàn ý để viết thân bài là kĩ năng học sinh đã đ ược
rèn luyện khá nhiều, do đó chúng tơi chỉ tập trung trình bày v ề cách cách
liên kết (chuyển ý, chuyển đoạn) trong khi h ọc sinh th ực hiện vi ết ph ần
thân bài và việc tổ chức điểm nhìn phù hợp trong quá trình viết bài.
a. Cách chuyển ý, chuyển đoạn:
Bài văn là một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên b ởi các
phần, các đoạn, các câu. Do đó giữa các ph ần, các đoạn, các câu c ần có s ự
kết dính với nhau vì nếu khơng có s ự kết dính ấy bài văn sẽ tr ở nên r ời
rạc, thiếu thống nhất. Sự kết dính ấy được gọi là liên k ết. Trong đó liên
kết các câu văn/ đoạn văn là một thao tác quan trọng. Trong khi rèn kĩ
năng làm văn nghị luận nói chung và dạng bài nghị luận về vấn đề văn học
đặt ra trong tác phẩm văn học , chúng tôi thường dành khá nhiều thời gian
để hướng dẫn học sinh cách thức liên kết câu văn/ đoạn văn.
Để rèn khả năng liên kết các câu trong đoạn văn của bài văn nghị
luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác phẩm văn học , trên cơ sở bồi
dưỡng kiến thức về các phép liên kết câu (phép thế, phép n ối, phép l ặp,
phép liên tưởng…) chúng tôi thường ra các đề bài luy ện t ập đ ể h ọc sinh
thực hành, nhất là yêu cầu chữa lỗi về liên kết câu.


Bên cạnh đó, liên kết các đoạn trong bài nghị luận về vấn đề văn học
đặt ra trong tác phẩm văn học cũng là kĩ năng đòi hỏi học sinh rèn luy ện
nhiều. Trong bài văn, vị trí quan trọng cần liên kết th ường tập trung ở vị

trí: giữa 3 phần bố cục của bài là Mở - Thân - Kết và giữa các đoạn (các
luận điểm) trong phần thân bài.
như:

Chúng tôi thường hướng dẫn học sinh các cách liên kết đoạn văn
- Dùng từ ngữ để liên kết:

Tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn, các phần mà h ọc sinh có th ể
dùng các từ nối thích hợp.
+ Nếu muốn nối các đoạn có quan hệ thứ tự để làm rõ tính hệ th ống
của việc sắp xếp ý trong bài, ta có các từ ngữ liên kết nh ư: trước tiên,
trước hết, thoạt nhiên, tiếp theo, sau đó, cuối cùng, một là, hai là, b ắt đ ầu
là…
+ Nếu cần nối các đoạn văn được triển khai theo quan hệ song song
(có điểm tương đồng về vai trị trong bài văn) ta có th ể dùng các t ừ liên
kết như: một mặt, mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó, cũng vậy,…
+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ tăng tiến (đoạn sau nh ấn
mạnh, phát triển nội dung của đoạn trước) ta có th ể s ử dụng các t ừ liên
kết như: hơn nữa, thậm chí, khơng chỉ/ mà cịn…
+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ t ương ph ản (đ ể làm rõ
những luận điểm có nội dung khác nhau, nhất là việc chuy ển ý từ chính đ ề
sang phản đề trong bài nghị luận xã hội) ta có th ể sử d ụng nh ững t ừ n ối
kết như: nhưng, tuy nhiên, tuy vậy, thế nhưng, trái lại, ngược lại, …
+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ nhân quả, ta có th ể sử dụng
các từ liên kết như: bởi vậy, do đó, vì thế cho nên…
+ Nếu cần chuyển ý sang một đoạn văn có ý nghĩa tổng kết ý nghĩa
của các đoạn trước đó; ta có thể dùng các từ liên kết nh ư: tóm lạị, chung
quy, tổng kết lại, tựu trung lại, có thể khẳng định…
- Dùng câu để liên kết:
Trong một số trường hợp, học sinh có thể sử dụng các câu văn có

chức năng liên kết hai đoạn văn với nhau. Các câu văn n ối th ường đ ứng ở
đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn nhằm mục đích liên kết đo ạn có ch ứa


nó với đoạn khác. Nội dung thơng tin chứa trong câu n ối này ho ặc đã đ ược
đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình bày kĩ ở đoạn văn sau. Giáo
viên có thể hướng dẫn cho học sinh viết các dạng câu n ối khác nhau, đ ựa
ra những ví dụ cụ thể để học sinh dễ hình dung về việc sử dụng câu n ối.
Dưới đây là một vài ví dụ về câu nối các đoạn trong bài văn ngh ị lu ận
(những câu gạch chân đóng vai trị phần nối kết với đoạn văn tr ước hoặc
sau đó):
+ … Như trên đã nói, tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thực sự
là một bài ca của lịng nhân ái. Điều đó sẽ khơi lên bao suy tư trong lòng
bạn đọc về cuộc đời. Phải chăng: Chỉ có tình người mới cứu v ớt đ ược con
người trong những hồn cảnh khó khăn và cũng chỉ có tình ng ười m ới đ ủ
khả năng để che chở, bảo vệ cho những hạt ngọc thiện tính lấp lánh trong
tâm hồn mỗi con người ?...
(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ tác phẩm Vợ
nhặt của Kim Lân hãy trình bày suy nghĩ của mình về vẻ
đẹp của tình người trong cuộc sống)
+ Nếu tình bạn trong bài thơ Khóc Dương Kh (Nguyễn Khuyến)
được khẳng định qua hành trình dài gắn bó, song hành của hai ng ười b ạn;
thì tình bạn trong cuộc sống hơm nay có biết bao biểu hiện phong phú. Ta
có thể nhận ra vẻ đẹp của tình bạn trong một cái nắm tay động viên, m ột
ánh mắt tin tưởng, một khoảnh khắc bên nhau để cùng chia sẻ niềm vui
hay những nỗi buồn…
(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ bài thơ Khóc Dương
Khuê của Nguyễn Khuyến nghĩ về tình bạn trong cuộc
sống hơm nay)
Nhìn chung có nhiều cách chuyển ý/ chuy ển đoạn khác nhau; s ự đa

dạng này tạo cơ hội chọn lọc cách diễn đạt phù hợp với văn phong c ủa
từng người.
b. Tổ chức điểm nhìn cho bài văn:
Điểm nhìn trong bài văn nghị luận tất nhiên không th ể phong phú đa
dạng như điểm nhìn trong tác phẩm văn chương. Việc l ựa chọn đi ểm nhìn
có liên quan tới việc thể hiện thái độ, bày tỏ cảm xúc làm nên s ức h ấp dẫn
cho bài văn. Trong văn nghị luận, thường thì người viết ln kết h ợp đi ểm
nhìn bên ngồi (để tạo tính chất khách quan, khoa học) v ới đi ểm nhìn bên
trong (để thể hiện sự đồng cảm và sự tâm huyết, say mê) đối v ới v ấn đề
cần bàn luận. Điểm nhìn bên ngồi thường được lựa ch ọn khi lí gi ải, phát
biểu cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề. Khi thể hiện điểm nhìn bên ngồi,


người viết là người đi tìm hiểu, khi thể hiện điểm nhìn bên trong, ng ười
viết là người cảm nhận như một người trong cuộc.
Chẳng hạn, trong bài viết về đề bài: Từ một số câu hát ru hãy trình
bày cảm nhận của mình về tình mẫu tử, người viết có thể lựa chọn điểm
nhìn bên trong hoặc bên ngồi để trình bày vấn đề:
- Điểm nhìn bên trong: Viết bằng cảm xúc, ấn tượng của bản thân –
người đang chiêm nghiệm về lời ru và tình mẫu tử thiêng liêng.
Ở tuổi 17, có lẽ điều ý nghĩa nhất mà tơi chiêm nghi ệm đ ược là: Ch ỉ
có những mái nhà tồi tàn chứ khơng có những gia đình rách rưới. Bởi
lẽ, mái nhà có thể chỉ là những vách lá liêu xiêu, những đồ dùng sứt m ẻ; cịn
hai chữ gia đình thì bao giờ cũng được vun đắp bằng tình yêu, kiên cố bằng
tình thương của từng thành viên một. Với tơi, gia đình trở thành mái ấm vì
có ngọn lửa hồng trong trái tim của mẹ và những tiếng hát m ẹ ru t ự thu ở
nào đã ken đầy trong kí ức của tơi.
(Trích: Bài làm của học sinh)
- Điểm nhìn bên ngồi: Người viết đóng vai một người đang tìm hiểu
để phân tích, đánh giá về vấn đề cần nghị luận một cách khách quan.

Lời ru mang tình cảm mẹ dành cho con. Đó là tình yêu thương, ni ềm
hy vọng, sự tự hào của mẹ gửi gắm qua giai điệu êm đềm. Tuy nhiên, khơng
đơn thuần chỉ là tình u mà ẩn sâu trong tình yêu ấy là nh ững bài h ọc v ề
cuộc đời. Lời hát ru cũng là lời mẹ răn dặy con về cách s ống, cách yêu
thương. Đó là lí do khiến những câu hát ru có sức lay động lâu dài trong tâm
trí mỗi con người.
(Trích: Bài làm của học sinh)
Một bài văn nghị luận, nếu chỉ toàn cảm xúc, suy nghĩ cá nhân sẽ trở
nên cảm tính, thiếu sức thuyết phục; ngược lại nếu chỉ thiên về phân tích,
đánh giá thì bài làm dễ khơ khan, thiếu chất văn. S ự kết h ợp ch ủ quan và
khách quan, cảm xúc và tư duy luôn là điều cần thiết trong bài văn ngh ị
luận. Khi tổ chức được một cách hợp lí điểm nhìn, l ời văn sẽ có đ ược
“giọng điệu riêng”, gây được ấn tượng tốt với người đọc.
Tóm lại:
Phần thân bài là phần phải cần đầu tư, dành nhiều thời gian th ực
hiện nhất trong ba phần. Vì vậy, ngồi những kĩ năng nh ư vi ết câu, d ựng


đoạn, liên kết, sử dụng hành văn hợp lí; giáo viên còn cần l ưu ý h ọc sinh
chú ý phân phối thời gian hợp lí khi làm bài.
3.3. Rèn kĩ năng viết kết bài
Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở m ở bài
và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hồn ch ỉnh, tr ọn
vẹn cho bài văn. Về cơ bản kết bài trong bài văn nghị luận về vấn đề văn
học đặt ra trong tác phẩm văn học cũng giống như cách kết bài trong các
bài nghị luận khác. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một
trong các cách kết bài sau đây:
- Kết bài bằng cách tóm lược: Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm
tắt quan điểm, tổng hợp những ý chính đã nêu ở thân bài. Cách kết bài này
dễ viết hơn và thường được sử dụng nhiều hơn.

- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài
trên cơ sở quan điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận d ụng, ng ười
viết phát triển, mở rộng nâng cao vấn đề.
III. PHẦN VẬN DỤNG
Từ những vấn đề lý luận cùng kinh nghiệm thực tiễn khi rèn cho học
sinh kĩ năng làm bài văn Nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác
phẩm văn học, trong phần tiếp theo của chuyên đề chúng tôi giới thiệu
một số đề và định hướng làm bài cụ thể. Trong phạm vi một chun đề
nhỏ, chúng tơi chỉ có điều kiện trình bày số lượng đề nhất định.
1. Giới thiệu một số đề bài và hướng dẫn làm bài
1.1. Đề 1
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Chuyện Quạt nồng, ấp lạnh của Thuý Kiều gợi cho anh (chị) suy nghĩ
gì về cách cư xử của con cái với cha mẹ trong xã h ội ngày nay.
Hướng dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề


- Yêu cầu về nội dung: Đối tượng nghị luận là một vấn đề đạo lí đặt
ra trong tác phẩm văn học: Cách ứng xử của con cái v ới cha m ẹ.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Sử dụng các thao tác: gi ải thích, bình
luận, phân tích, chứng minh, kết hợp với phương th ức biểu cảm...
* Gợi ý lập dàn bài.
a. Mở bài
Du.

- Giới thiệu, trích dẫn hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn


- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: cách cư xử của con cái đối với cha
mẹ trong xã hội hiện nay.
b. Thân bài
b.1. Tấm lòng hiếu nghĩa của Thuý Kiều với cha mẹ trong Truyện
Kiều (Nguyễn Du)
* Giải thích: Quạt nồng, ấp lạnh (Tức: Hạ Sảnh, Đơng Ơn). Sách Hiếu
kinh nói: “Hiếu tử đơng ơn, hạ sảnh” nghĩa là người con hiếu thờ cha mẹ,
mùa lạnh ấp chăn cho nóng để cha mẹ vào nằm khỏi giá rét, mùa hạ quạt
màn cho mát để cha mẹ vào nghỉ khỏi nóng bức. Nghĩa bóng: nói sự thờ
phụng, báo hiếu cha mẹ.
* Khái quát nội dung hai câu th ơ: nói v ề tâm tr ạng nh ớ th ương
cha mẹ của Thuý Kiều. Vi ệc bán mình chu ộc cha c ủa Thuý Ki ều cũng đã
nói lên đầy đủ tấm lòng hiếu th ảo của Kiều: Nàng quy ết hi sinh ch ữ tình
để làm trịn chữ hiếu. Trong su ốt th ời gian l ưu l ạc, “ Hết nạn nọ đến nạn
kia, thanh lâu hai lượt, thanh y hai l ần ”, bản thân luôn sống trong đau
khổ, buồn rầu nhưng Thuý Kiều v ẫn luôn nh ớ th ương cha m ẹ. Ki ều
tưởng tượng đến cảnh cha m ẹ già đau bu ồn t ựa c ửa mong ngóng mình.
Nàng lo lắng liệu có ai thay mình ph ụng d ưỡng m ẹ cha?
=> Thuý Kiều là một người con hiếu thảo, đúng nh ư lời nh ận xét c ủa
Nguyễn Du: Người sao hiếu nghĩa đủ đường.
nay.

b.2. Bàn luận về cách cư xử của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện

* Hành động hiếu nghĩa của Th Ki ều có cịn phù h ợp v ới xã h ội
ngày nay ?


×