Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) chuyên đề văn học hiện thực 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.62 KB, 22 trang )

Chuyên đề:
Văn học hiện thực 1930 – 1945

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Xuất hiện vào những năm 30 của thế kỉ XX khuynh hướng hiện th ực
ở Việt Nam đã góp thêm tiếng nói tích cực vào s ự nh ận th ức v ới tinh th ần
phân tích phê phán các mối quan hệ thối nát trong xã hội đ ương th ời, nhen
nhóm thái độ bất bình với thực tại, tỏ lịng thương cảm v ới nh ững s ố ph ận
khốn khổ. Trải qua bề dày thời gian, những tác ph ẩm của th ời kì văn h ọc
hiện thực phê phán ấy đến nay vẫn ngun giá trị và ln có s ức ám ảnh
với tương lai.
Chuyên đề: Văn học hiện thực 30 - 45 giúp học sinh hiểu về một
trào lưu văn học xuất hiện trong thời kỳ phức tạp của lịch sử dân t ộc. M ặt
khác, chuyên đề còn giúp các em biết thêm về đội ngũ nhà văn đã đ ịnh
hình thành những phong cách lớn và những sáng tác c ủa h ọ th ực s ự là
thành tựu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
II. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề Văn học hiện thực 30 - 45 tập trung tìm hiểu sâu về văn
học hiện thực giai đoạn 1930-1945 về nội dung, các thành tựu nghệ thuật
trong đó có phân tích một số tác phẩm văn xi tiêu biểu c ủa dịng văn h ọc
này.
III. Phạm vi chuyên đề
Tập trung vào mảng văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945 đi từ
những vấn đề lịch sử đến quá trình phát triển và thành tựu nổi bật.
Tập trung vào một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong chương trình
Văn học lớp 11 SGK nâng cao: “Chí Phèo”, “Đ ời th ừa” - Nam Cao; Ch ương
“Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số Đỏ) – Vũ Trọng Ph ụng
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Một số vấn đề lí thuyết về văn học hiện th ực 30 - 45



I. Giới thuyết về Văn học hiện thực:
1. Khái niệm
Về tên gọi đến nay còn nhiều tranh cãi. Trong “T ừ điển văn học”
Trần Đình Sử ( chủ biên) đã đưa ra hai cách hi ểu về thu ật ng ữ ch ủ nghĩa
hiện thực. Theo nghĩa rộng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được hiểu là
mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống bất kể đó là tác ph ẩm
thuộc trường phái, khuynh hướng văn nghệ nào. V ới ý nghĩa này, khái
niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nhất với khái niệm sự th ật đ ời
sống, vì tác phẩm văn học nào cũng mang tính hiện th ực. Tuy nhiên cách
hiểu này chưa mang màu sắc rõ nét của chủ nghĩa hiện thực để phân biệt
với chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa cổ điển…Cũng theo nhóm tác gi ả đó,
thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa hẹp chỉ một phương pháp hiện
thực, một khuynh hướng, trào lưu văn học có nội dung ch ặt chẽ, s ắc s ảo
được xác định bởi nguyên tắc mĩ học riêng.
Trong cuốn “Lí luận văn học” do nhóm tác giả Ph ương L ựu, Trần
Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, La Khắc Hòa, Lê Ngọc Trà, Thành Thế Thái
Bình mà phần chủ nghĩa hiện thực phê phán do Ph ương L ựu đ ảm nhi ệm,
sau này được dựng lại trong cuốn “Tiến trình văn h ọc” tập 3 cũng do tác
giả chủ biên thì đã đưa ra những cách hiểu khác về khái niệm này. Theo tác
giả, “chủ nghĩa hiện thực có khi được dùng không phải v ới nghĩa m ột
phương pháp sáng tác mà với nghĩa kiểu sáng tác tái hiện”. Còn n ếu hi ểu
“Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa là phương pháp sáng tác th ật ra có nhi ều
dạng. Đó là chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng, chủ nghĩa hiện th ực th ời
Khai sáng, chủ nghĩa hiện thực trong thời phong kiến mạt vận ở ph ương
Đông. Nhưng chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Tây Âu đạt đến đỉnh cao
nhất, cho nên người ta gọi là chủ nghĩa hiện th ực cổ điển, và vì cảm h ứng
chủ đạo của nó là phê phán cho nên theo ý ki ến c ủa M.Gorki ng ười ta
thường gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán”. Và trong giáo trình đó tác gi ả
khẳng định cách trình bày chủ nghĩa hiện th ực như một ph ương pháp sáng

tác.
Theo “Bách khoa toàn thư” Chủ nghĩa hiện thực là một “trào l ưu văn
học nghệ thuật, là phương pháp sáng tác lấy hiện th ực xã h ội và nh ững
vấn đề có thật của con người làm đối tượng phản ánh”.
Như vậy, các cơng trình khoa học và các nhà lí luận có uy tín đã đ ưa
ra những cách hiểu của nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa hiện th ực
nhưng tựu trung lại họ đã gặp gỡ nhau ở điểm coi ch ủ nghĩa hiện th ực là
một trào lưu văn học, một phương pháp sáng tác nhằm mơ tả thế giới nh ư
nó là, nhằm triển lãm cuộc sống trong trạng thái trung th ực của nó. Đ ồng


thời muốn thực hiện thành công phương pháp này các nhà văn c ần tuân
thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc mĩ học nhất định như:xây dựng nh ững
hình tượng điển hình và điển hình hóa các sự kiện của cuộc sống; th ừa
nhận mối quan hệ hữu cơ giữa tính cách và hồn cảnh, con người và mơi
trường sống; coi trọng chi tiết cụ thể và có độ chính xác cao.
2. Thời điểm ra đời:
Về thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện thực cho đến nay vẫn có
những ý kiến khác nhau. Trong “Từ điển thuật ngữ văn học”( Trần Đình S ử
chủ biên) đã trình bày nhiều ý kiến về dấu mốc ra đời của chủ nghĩa hi ện
thực. Có người cho rằng nguyên tắc phản ánh hiện thực chủ nghĩa hình
thành từ thời cổ đại và trải qua các giai đoạn phát triển lịch s ử nh ư C ổ đại,
Phục hưng, Ánh sáng, thế kỉ XIX…Một số khác thì cho là ch ủ nghĩa hi ện
thực xuất hiện từ thời Phục hưng. Nhiều người khẳng định chủ nghĩa hiện
thực hình thành từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XIX.
Theo “Bách khoa toàn thư” những tác phẩm có tính hiện th ực hay giá
trị hiện thực đã xuất hiện từ lâu trước khi có chủ nghĩa hi ện th ực tuy
nhiên chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào l ưu, m ột ph ương pháp
hoàn thiện chỉ xuất hiện vào thế kỉ XIX ở các nước như Anh, Pháp, Ý, Nga
sau đó lan rộng ra các nước khác trên thế giới. Và “Bách khoa toàn th ư”

khẳng định rằng bài tiểu luận đầu tiên có tính ch ất lí lu ận v ề ch ủ nghĩa
hiện thực được viết bởi nhà lí luận Pháp Săngflory vào năm 1857.
Dù rằng các ý kiến còn tranh cãi nh ưng không th ể ph ủ nh ận đ ược
rằng chủ nghĩa hiện thực có đời sống lịch sử phát triển cụ th ể và vào
những năm 40 của thế kỉ XIX trở đi chủ nghĩa hiện th ực trong văn h ọc đã
bước sang một giai đoạn phát triển hoàn chỉnh và rực r ỡ, mang cảm h ứng
phân tích mới về hiện thực đó là phê phán. T ừ đây ch ủ nghĩa hi ện th ực
mang tên mới: chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Ở Việt Nam, những tác phẩm của văn học trung đại nh ư Truy ện
Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân H ương, Nguy ễn
Khuyến…đã phơi bày hiện thực khách quan của cuộc sống. Ph ải đến H ồ
Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn…mới khơi dòng cho khuynh h ướng hiện th ực
khi các tác phẩm thể hiện màu sắc phong tục, nếp sống của một số mi ền
đất, một số người. Đến khoảng những năm 30 của th ế kỉ XX cây bút hi ện
thực phê phán Nguyễn Công Hoan là người bắt đầu đi theo khuynh h ướng
tả chân, lấy cuộc sống hiện thời, lấy cái đã và đang xảy ra làm n ội dung tác
phẩm. Và từ những năm 1930 đến trước 1945 khuynh h ướng văn học hi ện
thực phát triển rầm rộ, quy mô, nhiều cây bút tài năng đã xu ất hi ện nh ư
Ngơ Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp…và Nam Cao được đánh


giá là người có cơng đưa văn học hiện thực lên một trình độ m ới, trình đ ộ
miêu tả tâm lý, khái quát hiện thực.
3. Đặc trưng điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực.
Trong các nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa hiện thực thì điển hình
hóa là đặc trưng cơ bản để phân biệt chủ nghĩa hiện th ực phê phán v ới
chủ nghĩa lãng mạn như X.M.Petorop đã khẳng định “Phạm trù đi ển hình
là phạm trù quan trọng nhất của mĩ học hiện thực”. Điển hình là nh ững
nét mang tính bản chất, quy luật, những tính cách quan tr ọng nh ất, n ổi
bật nhất trong đời sống con người được thể hiện qua sáng tạo c ủa ng ười

nghệ sĩ. “Điển hình là một sự khái quát cao của sáng tạo ngh ệ thu ật” (Tr ần
Đình Sử). Chỉ khi nào nhà văn sáng tạo được hình tượng mang màu sắc cái
riêng thật sắc nét cá tính, sinh động, là “con người này”, và cái chung l ại
phải thật khái quát, hơn nữa phải hài hịa cao đ ộ thì m ới có đi ển hình. Nó
là kết quả của sự xun thấm nhuần nhuyễn giữa cá thể hóa và khái quát
hóa ở mức độ cao. Tính điển hình là hình thức biểu hiện ở trình độ cao c ủa
hình tượng trong tác phẩm văn học. Trong bức th ư gửi nhà văn Hacnet,
Enghen có một câu nổi tiếng “Theo ý tơi, đã nói đến ch ủ nghĩa hi ện th ực,
thì ngồi sự chính xác của các chi tiết, cịn phải nói đến s ự th ể hiện nh ững
tính cách điển hình trong những hồn cảnh điển hình”. Nh ư vậy v ấn đ ề
điển hình khơng chỉ gắn với chủ nghĩa hiện thực mà cịn th ể hiện trên hai
bình diện: tính cách điển hình và hồn cảnh điển hình. Tính cách đi ển hình
là sự thống nhất hữu cơ giữa những đặc tính phổ biến và nh ững đặc tính
cá biệt, đặc thù trong một nhân vật.
Do đó, nhân vật điển hình của văn học theo nhà phê bình Belinxki là
“người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành danh từ chung”,
cịn Lỗ Tấn phát biểu hóm hỉnh rằng “Nhân vật của ơng có tà áo Nam Kinh,
cái cúc Chiết Giang, cái miệng Thượng Hải và đơi mắt Phúc Kiến”.
Tính khái qt của hình tượng nhân vật, tính chung của đi ển hình
mà các nhà văn hiện thực từng quan niệm là ”con người lắp ghép, vai chắp
vá” đã được Lỗ Tấn phát biểu trong ”Tạp văn tuy ển tập” ”L ấy ở m ỗi ng ười
một nét, cho nên trong số những người liên quan đ ến tác gi ả, khơng th ể
tìm ra ai giống như thế. Nhưng vì lấy ở mỗi người một nét, nhiều ng ười
thấy phần nào lại giống mình, và cũng dễ làm cho nhi ều ng ười phát cáu”.
Trong ”Phòng trưng bày vật cổ” Banzac đã cho rằng ”Muốn vẽ m ột hình
tượng đẹp thì mượn dùng cánh tay của người mẫu này, chân của ng ười
mẫu kia, ngực của người mẫu nọ và đôi vai của người mẫu khác n ữa”. Nh ờ
sự khái quát hóa ấy, tính cách nhân vật sẽ ”tiêu biểu cho các giai c ấp và các
trào lưu nhất định, do đó, tiêu biểu nhất định cho các tư t ưởng nh ất đ ịnh
của thời đại”. (Angghen).



Bên cạnh tính chung, khái qt hóa, nhân vật điển hình ph ải có tính
riêng, cá thể hóa cao độ, khiến nhân vật vừa quen vừa lạ. Cá th ể hóa nhân
vật khơng phải là để nhân vật làm những việc độc đáo kì l ạ mà b ản ch ất,
tính cách riêng của nhân vật vẫn được bộc lộ thông qua cách làm đ ộc đáo
đối với những sự việc bình thường. Khi có tính cá thể hóa nhân v ật t ự thân
trở nên sinh động, hấp dẫn, chẳng thế mà các nhà hiện th ực nổi tiếng ln
ám ảnh về nhân vật của mình, như Nguyễn Cơng Hoan kh ắc kho ải v ề
người nông dân điêu đứng vì nạn tranh cướp ruộng đất của bọn c ường
hào ác bá, cịn Ngơ Tất Tố day dứt với số kiếp long đong l ận đ ận vì n ạn
sưu thuế của người nông dân. Đến Nam Cao – đại diện xuất s ắc cho ch ủ
nghĩa hiện thực phê phán giai đoạn 30-45 ám ảnh về người nông dân
khơng chỉ rơi vào cảnh bần cùng hóa mà đau đ ớn h ơn khi b ị l ưu manh hóa,
tha hóa về nhân cách. Như vậy, nếu như tính chung địi hỏi nhà văn dám
xơng vào giữa cuộc đời để nắm bắt thì tính riêng địi h ỏi nhà văn có kh ả
năng phân tích, xử lý những biến thái tinh vi trong tâm lý nhân v ật. Đ ể hình
tượng mang tính khái qt hóa nhà văn cần có vốn sống phong phú nh ưng
để hình tượng độc đáo, sinh động thì địi hỏi nhà văn ph ải có kh ả năng
sáng tạo.
Để xây dựng được chân dung điển hình vừa mang cái riêng sắc nét,
vừa mang cái chung khái quát cao, là sự thống nhất của tính cá th ể hóa và
khái qt hóa, nhà văn ln có ý th ức đặt nhân v ật trong quan h ệ nhi ều
chiều, trong hoàn cảnh cụ thể, trong cái nhìn vừa tương ph ản, v ừa t ương
đồng tạo ra tính đối thoại sâu sắc.
II. Văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1930-1945.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933: Th ực dân Pháp ra s ức v ơ
vét, bóc lột để bù đắp cho những thiệt hại của chúng: chúng tăng thu ế, b ắt
phu, bắt lính, lạm phát giấy bạc. Đơng Dương tr ở thành m ột th ị tr ường

tiêu thụ của Pháp. Ngày 9/2/1930 cách mạng tư sản thất bại. Giai c ấp t ư
sản một mặt mâu thuẫn với đế quốc phong kiến, một mặt lại ph ụ thu ộc
vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu khiến tư sản dân tộc mất hết kh ả năng
chiến đấu. Đường lối chính trị chủ yếu của họ là cải lương. T ư sản dân tộc
phần lớn do địa chủ chuyển thành hoặc gắn liền với địa chủ thành th ứ t ư
sản địa chủ khiến cho thái độ chống phong kiến khơng d ứt khốt. H ọ đã
tiến hành bạo động nhưng thất bại, trí thức tiểu tư sản tr ở nên hoang
mang, tìm đường thoả hiệp với thực dân, một số thực hiện nhiệm v ụ giải
phóng dân tộc bằng con đường văn chương.


Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, mặt trận dân ch ủ
tan vỡ, bọn thống trị ở Đông Dương thủ tiêu mọi quy ền tự do dân ch ủ mà
nhân dân ta vừa giành được, Đảng phải rút vào bí mật. Th ời kỳ này phong
trào cách mạng lên cao, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang kh ởi nghĩa.
Tháng 8/1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam giành
được thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
2. Những chặng đường phát triển
2.1. Chặng đường từ 1930 đến 1935:
Văn học hiện thực với những sáng tác của Nguyễn Công Hoan, tập
truyện “Kép Tư Bền”; Vũ Trọng Phụng – các phóng sự “Cạm bẫy người” và
“Kĩ nghệ lấy Tây”… đã thể hiện tinh thần phê phán tính chất bất cơng, vơ
nhân đạo của xã hội đương thời, đồng th ời bộc lộ sự cảm thơng th ương
xót đối với những nạn nhân của xã hội đó.
2.2. Chặng đường từ 1936 đến 1939:
Do tình hình xã hội có nhiều thuận lợi cho sự phát triển c ủa văn h ọc
hiện thực, các cây bút hiện thực chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Ngơ Tất Tố… đã đạt tới độ chín tài năng, liên ti ếp cho ra đ ời
những tác phẩm xuất sắc. Hàng loạt các tác phẩm của Vũ Tr ọng Ph ụng
như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê…., nhiều truyện ngắn xuất sắc và ti ểu thuy ết

như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan… đều tập trung phê phán
tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, gi ả
dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi th ống khổ của nhân dân
với thái độ cảm thông sâu sắc. Cảm hứng phê phán đã h ướng ngòi bút Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố vào việc kh ắc hoạ nh ững
nhân vật điển hình phản diện có ý nghĩa phê phán quyết liệt.
2.3. Chặng đường từ 1940 đến 1945:
Cảm hứng phê phán vẫn là chủ đạo song có thêm nh ững nét đ ặc s ắc
mới được thể hiện nổi bật nhất trong những sáng tác của Nam Cao. N ếu
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố thiên về tả th ực ph ản
ánh xã hội đương thời thì Nam Cao khơng chỉ miêu tả mà cịn phân tích lí
giải những hiện tượng, những vấn đề của hiện thực đó. Ngịi bút Nam Cao
ln có xu hướng phân tích xã hội qua việc phân tích tâm lý nhân v ật. Có
thể nói, đến Nam Cao, cảm hứng phê phán đã trở thành cảm h ứng phân
tích phê phán.


Như vậy, văn học hiện thực phê phán Việt Nam trải qua ba chặng
đường phát triển và đã đạt được thành tựu xuất sắc ở giai đoạn cu ối.
Dòng văn học này thực sự đã góp phần khơng nhỏ vào cơng cuộc hiện đ ại
hố nền văn học dân tộc.
3. Những thành tựu nổi bật của văn học hiện thực 1930 – 1945
3.1. Thành tựu về nội dung
Chủ nghĩa hiện thực phát triển trong khoảng mười lăm năm nh ưng
đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Công Hoan, Ngô T ất T ố, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… Tác phẩm của họ là nh ững b ức
tranh đậm nét về đời sống xã hội đem lại giá trị nhận th ức cao cho ng ười
đọc. Khi nhắc đến những tác phẩm: Bước đường cùng, T ắt đèn, Bỉ v ỏ, S ố
đỏ, Chí Phèo… Nguyễn Khải đánh giá là những tác ph ẩm có th ể làm vinh
dự cho mọi nền văn học. Bức tranh xã hội lúc đó ảm đ ạm, nhi ều bi k ịch,

nhiều tệ nạn xã hội, làng quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị đẩy đến
đường cùng để rồi liều lĩnh, biến chất, trở thành nạn nhân của xã h ội. Ở
thành thị, các phong trào do thực dân đề xướng nh ư: “Âu hoá”, “Vui v ẻ trẻ
trung”, thi thể thao, cải cách y phục…. ngày càng lộ rõ chân t ướng và tạo ra
nhiều nghịch cảnh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã phanh phui, bóc
trần bộ mặt xã hội đó.
Các nhà văn hiện thực, lớp trí thức mới vốn xuất thân từ tầng lớp
trung lưu, thậm chí trong những gia đình nghèo, vất vả kiếm s ống. Vì th ế
mà họ gần gũi, thấu hiểu và đứng về phía người lao đ ộng đ ể miêu t ả qua
những trang viết.
Về quan hệ giữa văn học và cuộc sống, Nam Cao đã có nh ững lu ận
điểm sâu sắc. Trong tác phẩm “Trăng sáng” nhân vật Điền đã đi t ừ quan
điểm nghệ thuật lãng mạn đến quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện
thực: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh
trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ nh ững
kiếp lầm than”. Còn trong “Đời thừa”, qua nhân vật Hộ, Nam Cao kh ẳng
định thiên chức nhà văn. Hộ hiểu rất rõ trách nhiệm c ủa ng ười c ầm bút,
Hộ có lương tâm nghề nghiệp nhưng vì miếng cơm manh áo mà anh ph ải
đi ngược lại nhưng sau đó anh tự cảm thấy tủi nhục vì phải sống đ ời th ừa.
3.2. Thành tựu nghệ thuật
Văn học hiện thực 1930 – 1945 đã tạo dựng được nh ững chân dung
nhân vật có tầm khái quát cao, lại rất chân thực và sinh động, v ừa mang ý
nghĩa xã hội vừa có giá trị thẩm mĩ độc đáo, đó là nhân vật đi ển hình.


Bên cạnh những thành công trong việc xây d ựng đi ển hình s ắc nét,
văn học hiện thực phê phán cịn đạt đến chiều sâu phân tích tâm lí nhân
vật. Các nhà văn tiêu biểu như Nam Cao, Tô Hồi, Kim Lân…
Nhà văn đạt tới thành cơng hơn cả ở nét nghệ thuật này là Nam Cao.
Nhân vật trong truyện của ơng có chiều sâu tâm trạng, có dịng tâm lí, có

đối thoại nội tâm. Nhiều tác phẩm có cấu trúc tâm lí độc đáo nh ư “S ống
mịn”, “Đời thừa”, “Chí Phèo”.
Nhìn chung, các nhà văn hiện thực trong giai đoạn này đã hiểu rõ
thiên chức của mình. Họ chủ động trên những trang viết, có v ốn s ống
phong phú. Kiến thức rộng để có thể tạo được hiệu quả ngh ệ thu ật cao
nhất.
4. Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945
Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát tri ển c ủa
thời cuộc. Sống và viết trong giai đoạn có nhiều biến động về l ịch s ử, các
nhà văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuy ển biến xã h ội.
Hiện thực phong phú của đời sống đã làm nảy sinh c ảm h ứng sáng t ạo ở
người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn nhận thức và phản ánh hiện thực theo một
cách cảm hứng riêng.
Cảm hứng trào phúng được xem là chủ đạo trong nhiều tác phẩm c ủa
Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, cảm h ứng ch ủ đ ạo
trong các sáng tác hai nhà văn này cũng có nét khác nhau.
Với Nguyễn Cơng Hoan, cảm hứng ấy là sự phê phán kịch liệt xã h ội
thực dân phong kiến đương thời với những sản phẩm thối nát c ủa nó.
Đồng thời là thái độ bênh vực những người nghèo khổ. Qua nh ững truy ện
ngắn trào phúng của mình tác giả làm nổi bật thực trạng xã hội Vi ệt Nam
trước cách mạng xây dựng trên sự bóc lột của người giàu đối v ới người
nghèo, phơi bày tất cả sự giả dối, những mâu thuẫn trớ trêu, nghịch cảnh
phi đạo lí. Tiếng cười trào phúng đã đánh trúng vào bọn th ực dân t ư, t ư
sản và bọn nhà giàu ở thành thị, bọn cường hào ác bá ở nông thôn, bọn
quan lại ở các phủ huyện. Ông đặc biệt căm ghét bọn quan lại ôm chân đế
quốc để kiếm ăn trên lưng những kẻ nghèo hèn. Nh ững truy ện ng ắn trào
phúng có tính đả kích sâu cay của Nguy ễn Cơng Hoan nh ư: “Đ ồng hào có
ma”, “Tinh thần thể dục”
Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc
đời như một tấn bi hài kịch. Ở tiểu thuyết “Số đỏ”, nghệ thuật trào phúng

đã chứng tỏ ở Vũ Trọng Phụng một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, m ột tài


năng nghệ thuật độc đáo. Cảm hứng ấy chính là lòng căm thù mãnh li ệt
đối với bọn thực dân, quan lại, địa chủ, tư sản… những loại người đểu giả
và lố lăng. Mặt khác, còn là niềm say mê khám phá các thói tật, các m ặt
xấu, những cái vô nghĩa lý đáng cười ở con người. Với tài nghệ bậc th ầy Vũ
Trọng Phụng đã làm bùng lên trên sân khấu đại hài kịch “Số đ ỏ” tiếng c ười
mỉa mai, hài hước, khi châm biếm, đả kích, khi căm ph ẫn hằn h ọc cái xã
hội bẩn thỉu, giả dối, vơ ln. Có thể nói lịng căm thù chính là s ức m ạnh
nghệ thuật của tài năng văn chương ở nhà văn mệnh yểu này.
Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 cùng v ới c ảm h ứng trào
phúng cịn có cảm hứng bi kịch cũng được xem là c ảm h ứng ch ủ đ ạo. C ảm
hứng ấy thấm nhuần trong các sáng tác của Ngô Tất T ố, Nguyên H ồng,
Nam Cao. Trong “Tắt đèn”, nhà văn không chỉ quan tâm tới nỗi kh ổ lớn của
người nông dân về mặt vật chất mà còn đặc biệt quan tâm t ới nỗi khổ về
tinh thần của họ. Cảm hứng bi kịch thấm đẫm trong từng trang vi ết c ủa
nhà văn. Ngịi bút nhân đạo của Ngơ Tất Tố tập trung th ể hiện tấn bi kịch
tâm hồn với những tình cảm phong phú, sâu sắc của chị Dậu, ng ười ph ụ
nữ giàu lòng vị tha, yêu chồng, thương con hết mực bị đẩy vào hồn cảnh
éo le. Để có tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi hồn cảnh cùm trói ch ị đã d ứt
ruột bán đứa con mình. Khơng có nỗi đau nào l ớn h ơn nh ư th ế nh ưng ch ị
đã không thể làm khác. Cảm hứng bi kịch khiến Ngô Tất T ố đã xốy sâu
vào cảnh bán con…Chính lúc này chị Dậu mới phát hiện ra ở đứa con của
mình đức tính mà lúc thường chưa bộc lộ hết. Cịn cái Tí càng th ương cha,
càng quyến luyến lũ em, nó càng nhận ra tình thế khơng sao tránh kh ỏi b ị
đem bán của mình. Ban đầu nó van xin, khóc lóc rồi khi hi ểu ra nó c ắn răng
chịu đựng, chấp nhận để mẹ bán cho nhà Nghị Quế. Tác giả đã sử dụng
thủ pháp kéo căng thời gian nghệ thuật để làm dậy lên những tình cảm xót
thương trong lòng người đọc.

Nguyên Hồng vốn là một nhà văn hay đa sầu đa cảm. Trong sáng tác
của mình ơng đã thể hiện sâu sắc nỗi đau khổ u ất ức c ủa ng ười dân lao
động nghèo, trước hết là người phụ nữ và trẻ em bất h ạnh. Ở Ngun
Hồng có một tình cảm vừa nồng nàn, sơi nổi, vừa mãnh li ệt, th ống thi ết
đối với người cùng khổ, qua đó thể hiện niềm tin của mình vào ph ẩm chất
tốt đẹp ở người lao động. Có thể nói, trên những trang viết của Nguyên
Hồng nồng nàn hơi thở của đời sống cần lao.
Viết văn bằng sự tỉnh táo của lí trí và sự yêu thương tha thiết của trái
tim, cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nam Cao là niềm khát khao đến
cháy bỏng làm sao để con người được sống xứng đáng với hai ch ữ CON
NGƯỜI. Đó là được sống lương thiện, được phát huy khả năng c ủa loài
người chứa đựng trong mỗi con người. Mong muốn này đã dẫn đến n ỗi


đau khơn ngi trước tình trạng con người bị xúc phạm về nhân phẩm, bị
huỷ hoại về nhân tính, bị bóp chết những ước m ơ, bị đ ẩy vào tình tr ạng
sống mịn, khơng lối thốt. Từ khát vọng v ề m ột cuộc s ống có ý nghĩa mà
dưới cái nhìn của Nam Cao nhân loại đang lâm vào tình tr ạng hu ỷ ho ại v ề
nhân tính, chết ngay khi đang sống. Cảm hứng chủ đạo này đã chi ph ối c ả
thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn.
Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực 1930 – 1945 khá đa d ạng.
Trong sáng tác của mỗi nhà văn hiện thực, cảm hứng chủ đạo cũng có
những tính chất, đặc điểm khác nhau. Tất cả đều hướng đến tập trung
thể hiện bản chất thối nát,tính chất vơ nhân đạo của xã hội Vi ệt Nam
trước cách mạng, thái độ phê phán xã hội dẫn tới yêu cầu khách quan ph ải
thay đổi. Điều này cho thấy mặt tích cực, tiến bộ của trào l ưu văn học này.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát tri ển c ủa
thời cuộc. Sống và viết trong một giai đoạn có nhiều biến động, các nhà
văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuy ển biến của xã hội.

Nhưng dù xã hội có thay đổi như thế nào thì những trang viết về cuộc đ ời
vẫn sống mãi vì nó có tiếng nói riêng.
Dịng văn học hiện thực với sự xuất hiện của những nhà văn m ới nh ư
Nam Cao, Tơ Hồi, Kim Lân càng làm cho văn h ọc có thêm nh ững ph ẩm
chất và giá trị mới. Khi nào ở đâu trong xã hội vẫn cịn nh ững bất cơng, đau
khổ, cịn có buồn chán và bế tắc thì ở đó cịn cần phải đ ược phê phán. S ự
xuất hiện những tác phẩm mang màu sắc tự truyện của một số cây bút
tiêu biểu đã góp phần làm cho văn học trở nên chân th ực và gần gũi.
Nhìn chung văn học giai đoạn này đã phản ánh đúng đ ặc tr ưng c ủa
thời đại góp phần khơng nhỏ vào cơng cuộc hiện đại hoá n ền văn h ọc
nước nhà.
Chương II: Một số đề thực hành luyện tập

Đề bài 1: Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết:
“Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, không nên là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau kh ổ kia, thoát ra t ừ
những kiếp lầm than…”và ở truyện ngắn Đời th ừa ông cho r ằng một tác
phẩm có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa


đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng th ương, tình bác ái, s ự cơng
bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đồn,
đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuy ết. Tôi và các nhà văn
cùng chí hướng như tơi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.
Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên.
Gợi ý
I. Mở bài:
- Là một hình thái ý thức xã hội, văn học nghệ thuật bám ch ặt l ấy s ự s ống
để lớn lên và với tư cách là đứa con tinh thần, nó lại trở về noi sinh ra nó

để góp phần khám phá, hiểu biết và sáng tạo đời sống. Nghĩ về văn h ọc và
hiện thực đời sống, trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi!
Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng l ừa dối, nghệ thu ật có th ể là ti ếng
đau khổ kia, thốt ra từ những kiếp lầm than…”Khi đáp lời báo Ngày
nay của Tự lực văn đồn, Vũ Trọng Phụng đã nói: “Các ông muốn ti ểu
thuyết cứ là tiểu thuyết. tôi và các nhà văn cùng chí h ướng nh ưng tôi mu ốn
tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Và ở tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cho r ằng:
Một tác phẩm có giá trị khi tác phẩm ấy “chứa đựng một cái gì l ớn lao,
mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng th ương, tình
bác ái, sự cơng bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
- Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Nh ư nh ững con ong c ần
mẫn đi tìm mật cho đời, nhà văn không ch ỉ đem đến cho ng ười đ ọc m ột
nội dung có tính thơng điệp mà cịn mong muốn tác ph ẩm c ủa mình có s ức
mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta
tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đ ơn giản đ ể Nam Cao
cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng l ừa d ối”. Ánh
trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có th ể l ại là s ự
phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và b ất cơng? Có
người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm
nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở
đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm nh ư vậy làm sao có th ể rung đ ộng
được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thốt ấy đâu có ph ải là
cuộc sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống g ần t ầng l ớp


cùng đinh, Nam Cao hiểu sâu sắc thế nào là hiện th ực đ ời sống, hiện th ực
của những ngày thuế thúc, trống dồn, những kiếp người méo mó, tội
nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh viết về ai, viết v ề

cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái th ực tế đau
khổ và lầm than.
- Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống th ật, văn h ọc m ới bền
vững và tồn tại được. M.Gorki cho rằng: “Người tạo nên tác phẩm là tác
giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả”. Ng ười
đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt đẹp cho những tác phẩm chân chính
một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện th ực đời sống đích th ực là
của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuy ết là “s ự th ực ở
đời” đến một tác phẩm có sức mạnh cịn tuỳ thuộc vào một điều ki ện hết
sức quan trọng nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống m ột cách sâu xa
của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ ph ải
sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với những nỗi đau c ủa thân ph ận
con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà nhiều người
khơng nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã h ội,…bằng
tồn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, nh ư A.
Muytxê nói: Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: t ừ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến th ực
tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức hiện thực.
2. Bình luận, chứng minh:
a. Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần c ải t ạo con ng ười,
cải tạo xã hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, m ạnh mẽ, v ừa đau đ ớn
lại vừa phấn khởi.
* Hiện thực trong văn học phải là muối của bi ển. Nó phải đ ược g ạn
lọc từ hiện thực xô bồ của đời sống xã hội với biết bao hiện tượng đan cài,
chồng chéo nhau giữa bao cái có nghĩa và vơ nghĩa, tất y ếu và ngẫu nhiên,
bản chất và hiện tượng. Nhà văn phải biết chọn lọc nh ững cái gì tinh tuý
nhất, cốt lõi nhất, cái thần của sự vật, mang tính khái qt và đi ển hình
cao độ, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được nh ững nét
bản chất của đời sống, để có thể rút ra được những bài học về triết lí, đạo
đức và nhân sinh. Văn học khơng sao chép thụ động nh ững m ảng tủn mủn,

nhỏ nhặt của đời sống. Ngược lại, nhìn vào tác phẩm, ta thấy được bản
chất cuộc đời ở một điểm sáng hội tụ, nó tiêu biểu và chân th ực h ơn c ả
trạng thái tự nhiên và hồn tàon có thật ở cuộc sống ngoài đ ời. Ng ười đ ọc
thấy rõ đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thông qua nh ững xung đ ột
văn học trong tác phẩm. Và đó chính là th ước đo giá tr ị và s ự tr ường t ồn
của tác phẩm văn chương.


* Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận n ơi sâu kín,
tiềm ẩn trong con người. Những giọt nước mắt khóc th ương cho cuộc đ ời
đau khổ, cho mỗi số phận bị biến dạng,…sẽ làm cho tâm h ồn ng ười dân
trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được nâng cao lên về ch ất, đ ể có
thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà nhập được
với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chi ến đ ấu cho
sự hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là
chức năng nhân đạo hoá con người của tác phẩm ngh ệ thuật.
* Đương nhiên văn học khơng chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, l ớn
lao; khơng chỉ nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó khơng né tránh vi ệc bi ểu
hiện những mất mát, hi sinh, những bi kịch của đ ời s ống, s ự đê ti ện,ngu
dốt và phản bội của con người trên tư cách công dân cũng nh ư trong cu ộc
sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan h ệ b ạn bè, v ợ
chồng, trong tình yêu,…Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thơng
qua tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự cơng bình, kêu g ọi tình th ương
và lịng bác ái,…Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác ph ẩm.
b. Sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống c ủa nhà
văn.
- Ơng khơng chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà
cịn thấy được thảm trạng sự tha hoá của con người, nh ững cuộc đ ời bị
méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả những cuộc sống “sống mòn” hay ch ết
mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời của m ột Chí Phèo, m ột

Thị Nở khái quát lên thành cả một “hiện tượng Chí Phèo”, Nam Cao khơng
chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nơng dân, mà t ừ đây kh ơi lên
lịng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu g ọi
mọi người hãy đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri cịn
le lói, cịn chưa tắt hẳn trong cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha
hoá, để giữ cho con người không bị biến thành thú vật, để con người đúng
là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.
Tơi có đọc được ở một tác phẩm lí luận kinh điển đại ý nh ư thế này:
Vũ khí phê phán dĩ nhiên không thể thay th ế được sự phê phán b ằng vũ
khí; chỉ có lực lượng vật chất mới đánh đỗ được lực lượng vật chất; nh ưng
lí luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó đã thâm nh ập vào
quần chúng. Văn học với sức mạnh lớn lao của nó trong việc khám phá,
nhận thức và sáng tạo thực tại, luôn được xem là một vũ khí đấu tranh giai
cấp. Các lực lượng tiến bộ và phản tiến bộ đều sử dụng văn học làm công
cụ để tuyên truyền tập hợp quần chúng. Các nhà văn, nhà th ơ c ủa chúng ta
cần nâng cao trình độ tư tưởng và năng lực biểu hiện cũng như thái độ
trung thực và dũng cảm trong việc phản ánh hiện th ực đ ể nâng cao h ơn


nữa giá trị của tác phẩm. Văn học phải cố gắng phản ánh nh ững “s ự th ực ở
đời” với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó, có c ả n ỗi đau và ni ềm vui,
có cả cái thấp hèn và cao thượng, chứ khơng phải là những tác phẩm tụng
ca xuôi chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh nh ững nỗi đ ớn đau c ủa
đồng bào, đồng chí. Tác phẩm văn học cùng cần góp ph ần kiến gi ải nh ững
vấn đề của hiện thực đời sống, đồng thời là tiếng nói d ự báo cho nh ững
vấn đề của hiện thực xã hội rộng lớn trong tương lai. Nh ư vậy văn học
mới làm được chức năng giáo dục con người bằng con đường tình cảm,
mới góp phần làm cho con người với đúng nghĩa của nó: khơng là thánh
cũng không trở thành thú. Những tác phẩm văn h ọc bắt nguồn t ừ nh ững
ánh trăng mờ ảo, thơ mộng và dối lừa, những tiểu thuyết chỉ là tiểu

thuyết, quay lưng hay bàng quan trước sự th ực cuộc đời thì nh ững tác
phẩm ấy hồn tồn khơng có ích cho đời sống, con người.
- Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hi ện th ực
trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời khơng phải là hai bàn tay úp kít
vào nhau mà đan cài vào nhau. Ở đây mọi sự đơn giản hố và mơ hình hố,
mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng “đeo chân cho v ừa giày” đều là
những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác c ủa
những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách bi ểu
hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng ph ương pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện đ ược cuộc
sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau; nh ững tác ph ẩm đã
khơng nói được thực trạng của hiện thực đương th ời, càng khơng th ể có
chức năng dự báo.
- Aimatơp cho rằng: chân lí trong nghệ thuật khơng chỉ là s ự ph ơi
bày những thiếu sót và khó khăn, những mặt tốt của cuộc sống chúng ta;
mà quan trọng hơn, tác phẩm nghệ thuật phải có kh ả năng thôi thúc con
người suy tư sâu sắc, bắt con người phải xúc động tận đáy lòng.
Văn học làm cho con người nhận rõ diện mạo của mình h ơn, v ạch rõ đâu
là tốt, xấu, đâu là cao cả, thấp hèn, thấy hết để có th ể tự điều chỉnh: “Hãy
nhìn xem ngay tại đây, ngay tại chỗ này nh ững gì mà con ng ười cịn ch ưa
nhận ra vì một lí do nào đó” (Lời giới thiệu Đoạn đầu đài của Aimatôp).
III. Kết bài:
Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm th ật
nặng nề. Cuộc sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khi ển ta
nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy, chúng ta cần biết bao nh ững tác ph ẩm văn
học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng nói cải tạo cuộc sống.


Đề bài 2: có ý kiến cho rằng “truyện có khả năng ph ản ánh hi ện th ực
rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn bi ến sâu xa

trong tâm hồn con người”. Hãy phân tích hai truyện ngắn “Hai Đ ứa Trẻ”
của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao để làm sáng tỏ ý ki ến trên.
Gợi ý
I. Mở bài:
Nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm “đối với tôi, văn ch ương
khơng phải đem đến cho người đọc sự thốt ly, hay s ự quên. Trái l ại văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta, có th ể v ừa t ố
cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đ ược
thêm trong sạch và phong phú hơn”. Đúng như vậy! Văn ch ương nghệ
thuật luôn hướng tới cuộc sống con người, từ đó đưa đ ến cho chính con
người những giá trị cao đẹp, những bài học “trơng nhìn và th ưởng th ức”.
Điều đó lại càng đúng đắn hơn với thể loại truy ện ngắn, bởi nói nh ư nhà
văn Nguyễn Kiên nó “vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân m ột
chân lý giản dị của mọi thời”. Bàn về vấn đề này, đã có ý kiến cho rằng
“truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào nh ững mảnh
đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con ng ười”. Minh
chứng rõ nhất cho quan niệm đó chính là truy ện ngắn “Hai Đ ứa Tr ẻ” c ủa
Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
- Mỗi loại hình văn nghệ ra đời đều có những tác động riêng đ ến v ới
con người. Mĩ thuật tạo ra cái đẹp từ những nét vẽ, mảng m ầu, âm nh ạc
đem đến cái hay từ tiếng hát, lời ca. Kiến trúc, ấy gây ấn tượng bởi nh ững
thiết kế đến tinh vi… còn văn chương hay cụ thể hơn chính là chuy ện đã
“có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn”. Điều đó kh ẳng đ ịnh, chuy ện
phản ánh được hiện thực thời đại với những vấn đề nổi c ộm, bức thi ết
nhất trên một phạm vi rộng. Khơng chỉ vậy, “chuyện cịn đi sâu vào nh ững
mảnh đời cụ thể”.
- Truyện phản ánh hiện thực nhưng thường khơng hời h ợt, phó qt
một cách chung chung, mà luôn hướng đến những mảnh đ ời, nh ững s ố

phận cụ thể để phản ánh hiện thực. Và ở chuyện còn mang một đặc tr ưng
mà ít tìm thấy ở các thể loại khác, đó là h ướng đến, “có nh ững di ễn bi ến


sâu xa trong tâm hồn con người”. Truyện th ường đi sâu vào thế gi ới n ội
tâm để cảm nhận được hết mọi diễn biến trong tình cảm và nh ận th ức
của con người, từ đó khái quát nên giá trị của tác phẩm và kh ẳng đ ịnh tài
năng của nhà văn. Như vậy, quan niệm về truyện của ý kiến trên đã nêu
lên được vai trò cũng như yêu cầu quan trọng với nội dung truy ện ng ắn.
Truyện ngắn là một thể loại ngắn gọn, dung l ượng nh ỏ nh ưng ch ứa đ ựng
một nội dung sâu rộng. Vì thế nhà văn cần biết n ắm bắt, l ựa ch ọn, ph ản
ánh những vấn đề bản chất tiêu biểu, nhưng phải mang tính rộng lớn, phổ
cập của hiện thực thơng qua những số phận cụ thể, thậm chí cần đào sâu
vào nội tâm để biến những trang văn thành trang đời.
- “Truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào
những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm h ồn con
người”. Quan niệm trên hồn tồn chính xác, bởi nó đã dựa trên cơ sở lý
luận của truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung. Chuy ện th ường
hướng tới khắc họa một hiện tượng đời sống, một khoảnh khắc nhân
sinh, hay một lát cắt hiện thực. Do vậy, chuy ện th ường có ít nhân v ật đ ể
nhà văn đi sâu vào khám phá cụ thể. Kết cấu của truy ện th ường khơng
phức tạp, có chuyện diễn ra trong một thời gian, không gian h ạn ch ế và
xoay quanh một tình huống có tính chất chủ đạo. Bởi vậy, tác giả có c ơ h ội
đi sâu vào đời sống nội tâm con người để khám phá. Hơn nữa truyện ch ứa
nhiều những chi tiết cô đúc, lối hành văn mang nhiều ẩn ý cũng góp ph ần
giúp nó biểu thị được tâm lý con người. Truyện ngắn gọn, cơ đ ọng nh ưng
thể loại truyện có những phẩm chất thẩm mỹ đặc trưng, tập trung vào
khoảnh khắc mà ý nghĩa cuộc sống đậm đà nhất, ng ắn g ọn, hàm xúc mà có
khả năng khái quát cao về hiện thực. Phản ánh được bê sâu của đ ời s ống
đề sâu tư tưởng và tấm lòng của nhà văn về sâu, về tài năng của người

nghệ sĩ ngôn từ. Không chỉ vậy, quan niệm về chuyện trên còn d ựa trên t ừ
thiên chức văn học. Dù có những đặc trưng riêng nh ưng chuy ện v ẫn ph ải
hướng đến sứ mệnh của văn học, phản ánh hiện th ực nói đ ược nh ững v ấn
đề nhức nhối của con người, trân trọng những mơ ước, khát vọng, trân
trọng vẻ đẹp nội tâm ẩn sâu trong tâm hồn họ. Có th ể nói, truy ện ng ắn
“Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao chính là hai tác
phẩm thể hiện rõ cho đặc trưng của truyện, cũng nh ư minh ch ứng cho
quan niệm trên.
2. Bình luận, chứng minh:
* Bàn về văn học Standal đã viết “văn học là tấm gương đ ời sống xã
hội”. Đúng như vậy! Một tác phẩm văn học chân chính ln bắt nguồn t ừ
hiện thực đời sống con người. Hiểu được quy luật đó, nên mặc dù là nhà
văn lãng mạn hay hiện thực thì Thạch Lam và Nam Cao cùng đề cao y ếu tố


này trong quá trình sáng tác. Đến với truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của
Thạch Lam ta đã bắt gặp hình ảnh của một phố huy ện, một miền đất,
miền đời bị quên lãng. Trên cái nền khổ đau, nghèo đói lần l ượt hiện ra
những kiếp người sống lay lắt, mịn mỏi đến đáng sợ. Đó là chị Tý v ới gánh
hàng nước, đó là bác siêu với những bát phở ế hàng, đó là bác X ẩm v ới
tiếng đàn run lên bần bật, hay đó là ch ị em Liên v ới gian hàng ế khách…
Kiếp sống của họ diễn ra đều đều, họ chỉ tồn tại chứ không phải là s ống,
họ như bị bắt sống chứ không phải tự nguyện để sống. Cuộc sống của h ọ
như một màn kịch khơng có sự thay đổi, người thay đổi cảnh, ngày nào h ọ
cũng hiện ra buồn bã, thiếu sức sống và lặp lại y nguyên hành động ngày
hôm trước. Sống trong cái “ao đời phẳng lặng”, đó đã có bi ết bao m ơ ước,
bao suy nghĩ bị dìm chết, con người dần dần cũng bị chai sạn, vơ cảm d ẫn
đến
lãng
qn

mịt

trước
cuộc
đời.
Hãy đến với “Chí Phèo: của nhà văn Nam Cao, nhà văn ph ản ánh toàn di ện
bộ mặt ăn thịt người của xã hội thực dân, với những mối quan hệ trong
làng Vũ Đại. Xã hội đó đã đẩy những người lao động chân ch ất, vào con
đường lưu manh hóa dẫn đến bi kịch đau đớn, bị c ự tuy ệt quy ền làm
người. Đầu tiên là các mối quan hệ phức tạp ở cái đất “quần Ngư tranh
thực”. đứng đầu là cụ Bá Kiến, sau đó là bọn cường hào ác bá và cu ối cùng
là người dân nghèo khổ ấy, người dân bị những mối quan hệ chi phối. Khi
cần lũ cường hào, Ác bá liên kết với nhau, áp bức trong làng, nh ưng lúc
khơng cần đến nhau thì “ngấm ngầm cho nhau ăn bàn”. Đó là nguyên nhân
dẫn đến nỗi khó khăn, nhọc nhằn của dân làng. H ơn n ữa c ậy quy ền, c ậy
thế bọn người có thế lực tiêu biểu là cụ Bá Kiến đã đẩy ng ười nông dân
vào con đường lưu manh tha hóa mà tiêu biểu là Chí Phèo. Sinh ra v ốn là
một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự chăm sóc của dân làng Vũ Đ ại, Chí
trở thành một người hiền lành và có lịng t ự trọng cao. Nh ưng ch ỉ vì m ột
cơn ghen vơ cớ, Chí Phèo đã bị bá kiến để vào tù. Sau 7, 8 năm ra tù, h ắn
dần dần là một kẻ lưu manh, một thằng răng đá, một con v ật l ạ, con qu ỷ
dữ mà ai cũng xa lánh. Gặp Thị Nở khao khát hoàn l ương nh ưng cu ối cùng
bị từ chối hắn đau đớn, tự vẫn. Hiện thực cuộc sống trong Chí Phèo đ ược
Nam Cao phản ánh rất rõ, hình ảnh làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nh ỏ
của nơng thơn Việt Nam trước Cách mạng. Đọc Chí Phèo, ta nh ư đ ược tr ở
về với xã hội với số phận của những con người thời đó vậy.
* Chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, nh ưng do h ạn
chế về dung lượng nên chuyện thường “đi sâu vào nh ững m ảnh đ ời c ụ
thể”. Điều đó vừa giúp tư tưởng, chủ đề được sáng rõ, v ừa th ể hiện t ấm
lòng của nhà văn đối với con người. Đến với “hai đ ứa tr ẻ”, Th ạch Lam đã đi

sâu khám phá cuộc sống con người, mà tiêu bi ểu là liên một đ ứa trẻ nghèo.
Khi còn nhỏ Liên sống ở Hà Nội, dù khơng phải giàu có nh ưng cũng đ ược
sung sướng “được đi chơi bờ Hồ, uống những cốc n ước xanh đỏ”. Đó là
những kí ức đẹp đẽ của Liên mà cô không th ể nào quên đ ược. Nh ưng do


thầy mất việc Liên phải về một Phố huyện nghèo nàn để sinh sống. Điều
đó cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống tuổi th ơ sung sướng của Liên gi ờ
đã chấm dứt. Cái nghèo đã cướp đi niềm vui và quyền lợi của một đ ứa trẻ
như Liên. Cuộc sống cơm áo gạo tiền đã trói buộc tiên vào với những hàng
tre, từ sáng sớm tới đêm khuya. Liên sống mịn mỏi, trơng ch ờ, đ ợi đ ến
một bát phở trong phố huyện nghèo cũng không dám m ơ ước. Nh ưng bên
cạnh đó, Liên cũng là một đứa trẻ biết yêu thương, cảm động đối với cuộc
sống của người khác, mặc dù mình chẳng khá giả gì. Tuy không đ ược miêu
tả nhiều như Liên nhưng những mảnh đời như chị tí, bác siêu, bác xẩm, C ụ
Phi… cũng góp phần thể hiện được con mắt yêu thương của Thạch Lam.
* Cịn đến với Chí Phèo của Nam Cao, những mảnh đời mà ông chú ý
đến nhiều chính là người nơng dân, với một cuộc sống nghèo khổ đ ến tận
cùng. Nhưng ông khác đặc biệt ở chỗ, ông không đi quá sâu vào cu ộc s ống
ấy, mà ơng đi sâu vào q trình tha hóa của Chí Phèo, là một ví dụ điển
hình. Sinh ra bị bỏ rơi ở trước lò gạch cũ, được anh th ả ống l ươn nh ặt v ề
nuôi dưỡng. Chí lớn lên vì được dân làng Vũ Đại ni n ấng. Tuy tu ổi th ơ
bất hạnh, nhưng chí phèo khơng xấu xa mà cịn rất chăm ch ỉ, hiền lành và
giàu lịng tự trọng. Chỉ vì cơn ghen vơ lý bác Kiến, đã đ ẩy Chí Phèo vào tù.
Với sự nhào mặn của nhà tù, Chí Phèo trơng khác hẳn. Bề ngồi nhìn nh ư
thằng rặng đá “cái đầu trọc lóc, cái răng cao trắng h ơn, cái m ặt đen mà r ất
cong cong…”. Không chỉ thay đổi về nhân hình mà chí cịn bị nhuộm đen về
nhân tính. Hắn chìm trong những cơn say, từ đây hắn đã làm biết bao t ội ác
với những con người đã ni nấng hắn. Chí cứ vậy cho đến khi gặp Th ị N ở.
Thị đã dẫn Chí về với cuộc sống, nhưng do định kiến từ chối Chí Phèo

tuyệt vọng giết chết kẻ thù của cuộc đời mình và cũng t ự kết liễu đ ời
mình. Cuộc đời của Chí Phèo là một mảnh đời cụ th ể, nh ưng đã bao quát
được con đường mà những mảnh đời khác thường đi ph ải nh ư Binh Ch ức,
Năm Thọ… đó chính là cái Q cái hay mà chỉ có thể loại truyện đó đ ược.
* Mang trong mình những đặc trưng riêng nên chuy ện cịn có kh ả
năng đi sâu vào “diễn biến sâu xa trong tâm hồn con ng ười”. Đến v ới
truyện ngắn, yếu tố này rất được chú trọng bởi “th ước đo tài năng ng ười
nghệ sĩ chính là khả năng miêu tả tâm lí nhân vật”. Đọc “hai đ ứa trẻ” c ủa
Thạch Lam. Người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng của nhân vật liên đ ược
tác giả chú trọng miêu tả rất chi tiết và tinh tế. Tâm trạng đó đ ược bi ểu
hiện trước hết ở cảnh ngày tàn. Trước những cảnh sác đất tr ời thay đổi,
liên có tâm trạng buồn man mác “rồi mắt chị bóng tối ngập đày d ần”.
Dường như Liên cảm nhận được cuộc sống đang chậm lại với nh ững
chuyển biến tinh tế của tạo hóa. Khi nhìn về con người, Liên động lòng
thương những đứa trẻ con nhà nghèo, tuy sợ nhưng vẫn th ấy tội cho C ụ
Phi và biết chia sẻ với chị tí. Màn đêm bng xuống v ới sự chi ến th ắng c ủa


bóng tối, Liên dường như lại thấy buồn thấm thía. Th ấy đ ứa nh ững đ ứa
trẻ con khác vui chơi liên thèm thuồng, Nhớ về ngày xưa. T ừ ch ỗ buồn
man mác trước giờ khắc của ngày tàn, giờ đây là nh ững quan sát đ ợi ch ờ
hoài niệm, nuối tiếc và khát khao nhưng đã hoàn toàn bị tàn l ụi. Hi ện t ại
và quá khứ như những đợt sóng vỗ vào tâm hồn, để rồi buồn h ơn da gi ết
hơn. Để an ủi mình Liên chỉ cịn cách nhìn lên bầu trời với ông th ần nông,
con vịt trời, giải ngân hà… với thế giới cổ tích nhiệm m ầu.
Khi đồn tàu đêm về, cũng là lúc tâm trạng của Liên đ ược b ộc l ộ rõ nh ất.
Liên háo hức đợi chờ đoàn tàu như đợi chờ Phút Giao th ừa thiêng liêng. Khi
nhìn đồn tàu, Liên khơng trả lời câu hỏi của em trong tâm h ồn cơ cịn xúc
động vẫn chưa lắng xuống “Liên lặng lẽ mơ tưởng Hà Nội xa xăm Hà N ội
sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Những câu chữ gieo vui nh ư n ốt nh ạc. Có

thể trong phút giây ấy khát vọng đổi đời đã được đánh th ức trong m ột tâm
hồn cịn vơ tư ngây thơ “tàu đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. M ột
thế giới khác hẳn đối với Liên khác hẳn với ánh sáng ngọn đèn ch ỉ Tí và
ánh lửa bác siêu”. Dù biết Tàu hôm nay không đông, nh ưng không sao miễn
là họ ở Hà Nội về. Và khi tàu đi Liên vẫn cịn đ ứng nhìn, “th ấy mình s ống
giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con c ủa ch ị tí ch ỉ chi ếu
sáng một vùng đất nhỏ”.
* Nếu như “hai đứa trẻ” là tâm trạng của Liên trước m ột th ời kh ắc
ngắn ngủi, thì chí phèo diễn ra rất rõ tâm trạng của Chí Phèo khi đã đ ược
Thị Nở dẫn về cuộc đời. Sau cái đêm say rượu, Ăn n ằm v ới Th ị N ở. Sáng
hôm sau tỉnh dậy, Chí Phèo giường như khác hẳn. Hắn c ảm nh ận đ ược
mọi diễn biến, mọi sắc thái bên ngoài cái túp lều ẩm th ấp của h ắn. H ắn
nghe được tiếng chim hót, nghe được tiếng Anh thuy ển chài đuổi cá trên
sông, tiếng người đi chợ bán vải về. Hắn nghĩ về quá kh ứ, hiện tại và
tương lai. Hắn dường như đang sợ rượu, sợ chính mình và sợ t ương lai của
mình. Chí Phèo nghĩ đến cái đói, cái rét rồi ốm đau, nh ưng cịn đáng s ợ h ơn
điều đó chính là cơ độc. Và trong cơn suy nghĩ ấy thì ch ị n ở ch ạy sang v ới
liều thuốc giải cảm và giải rượu, bát cháo hành. Chí cảm đ ộng đến r ưng
rưng nước mắt và ăn cháo hành. Hắn nghĩ chắc nh ững ai đã ăn m ới bi ết
cháo hành ngon. Đối với hắn, bát cháo hành đó cịn là h ương v ị tình th ương
dẫn hắn về với quãng đời lương thiện. Hắn lại trở về với ước mơ ngày
xưa, có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn cày thuê v ợ d ệt v ải”. Chao
ôi! đọc xong ta mới hiểu Chí Phèo tâm tình biết bao. Nh ưng khi bị Th ị N ở
từ chối, lúc đầu không hiểu nhưng sau hắn nhận ra, Chí Phèo ơm mặt khóc
rưng rức. Chí Phèo hiểu được bi kịch của cuộc đời mình. Hắn nh ư c ứ ng ửi
thấy hương cháo hành thoang thoảng, hắn tìm đến r ượu mong quên đi
mọi thứ, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng tỉnh càng đau đ ớn, tuy ệt vọng.
Chỉ định tìm đến giết chết “con đĩ nở” và con “khọm già” nhà nó nh ưng
bước chân lại đưa chí đến nhà Bá Kiến. Chí Phèo rút dao gi ết lão Bá Ki ến



và cũng kết liễu ln đời mình. Chính chân lý đã đưa Chí Phèo hi ểu ra đ ược
cuộc đời mình, nên tuy Chí Phèo có chết cũng là minh ch ứng cho s ự tr ở v ề
với lương thiện, không muốn làm kiếp thú vật.
* Hai nhà văn, với hai phong cách và xu h ướng khác nhau, nh ưng
Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện được những đặc tr ưng của truy ện
qua các sáng tác của mình. Quan niệm chuy ện có kh ả năng ph ản ánh hi ện
thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả nh ững diễn bi ến
sâu xa trong tâm hồn con người, không chỉ nêu lên đ ặc tr ưng của truy ện,
mà còn đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và Tiếp nh ận văn ch ương.
Đối với người cầm bút, phải không ngừng mài dũa tài năng kh ổ luy ện
trong lao động chữ nghĩa, gắn bó sâu sắc v ới cuộc đ ời và con ng ười. Đ ối
với độc giả, để có thể tiếp nhận, khám phá được bề sâu của tác ph ẩm, đ ộc
giả phải sống hết mình với tác phẩm. Tích cực đồng sáng tạo cùng v ới nhà
văn.
III. Kết bài:
Thanh Thảo đã từng cho rằng “văn chương giúp ta tr ải nghi ệm cu ộc
sống ở những tầng và chiều sâu đáng kinh ngạc”. Văn chương nói chung và
thể loại truyện nói riêng của thật đã làm được điều đó. Bởi vì, nó đã ph ản
ánh hiện thực đi sâu vào mảnh đời cụ thể và cả những chuyển biến sâu xa
trong tâm hồn con người, từ đó thể hiện tấm lịng cao cả của m ỗi nhà văn.
Chính vì vậy nên “hai đứa trẻ”, của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao
xứng đáng là hai truyện ngắn đặc sắc, sống mãi với th ời gian, đến v ới b ạn
đọc cả hôm nay và mai sau.

Đề bài 3:
Nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki định nghĩa: điển hình nghệ thu ật
như là “một người lạ mặt quen biết”.
Anh (chị) hiểu điều đó như thế nào?
Bằng một số điển hình văn học trong các tác phẩm văn h ọc hiện th ực

giai đoạn 30 - 45, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
HƯỚNG DẪN
1.

YÊU CẦU CHUNG:
– Nắm vững phương pháp, kĩ năng làm bài nghị luận văn học.
– Biết vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải thích v ấn đề m ột cách
chính xác, rõ ràng.


– Chọn được những điển hình văn học tiêu biểu để phân tích, lám sáng t ỏ
vấn đề một cách thuyết phục.
2.

YÊU CẦU CỤ THỂ:

Một số ý cần đạt :
a. Giải thích vấn đề :
*. Ý nghĩa câu nói :Định nghĩa của Biêlinxki th ực ch ất nêu lên nét chung và
nét riêng, tính phổ quát và tính cá biệt của điển hình nói chung và đi ển
hình văn học nói riêng.
+ “Người lạ mặt”: là nét riêng ,nét cá biệt, nét độc đáo mà nhìn vào đó ta
có thể phân biệt đươc với nhân vật khác- đó là “con người này”(Hêghen).
+”Người lạ mặt” nhưng “quen biết” là do những nét chung, nét ph ổ quát
của điển hình nghệ thuật. Điểm chung đó giúp ta nhận ra m ột loại ng ười,
một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc với nh ững đặc đi ểm, ph ẩm ch ất
đặc
trưng.
* Giải thích lí do:
– Điển hình nghệ thuật là hình ảnh chủ quan c ủa hiện th ực khách quan.

Bước
vào tác phẩm, hiện thực ấy mang đậm dấu ấn sáng tạo, qua lăng kính chủ
quan của người nghệ sĩ. Như vậy, do yêu cầu của tính riêng v ề phong cách
cá nhân, mỗi điển hình nghệ thuật phải thể hiện được nét đ ộc đáo, m ới
mẻ,từ nội dung đến hình thức, để phân biệt với hình t ượng khác.
– Sự sáng tạo của người nghệ sĩ vô cùng quan trọng, song hình tượng
nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo khơng phải chỉ để cho riêng mình, mà cịn
là để nói
hộ người khác. Do đó, điển hình nghệ thuật bao gi ờcũng ph ải mang tính
khái qt cao, nó phải phản ánh được đặc điểm, tâm lí, tính cách, t ư t ưởng
và nguyện vọng của một tầng lớp xã hội, một giai cấp hay một loại ng ười
nào đó. Điển hình nghệ thuật là người “quen biết”, khi m ỗi ng ười đều có
thể thấy hình bóng mình trong đó.
– Điển hình nghệ thuật phải hài hồ giữa tính chung và tính riêng, c ụ th ể
và khái quát, cá biệt và phổ quát. Nếu chỉ chú ý tính chung thì hình t ượng
mất đi tính sinh động, cụ thể, thủ tiêu cá tính sáng tạo c ủa nhà văn, xố
nhồ phong cách riêng độc đáo của nhà văn. Ng ược lại, n ếu ch ỉ chú ý tính


riêng thì hình tượng sẽ trở nên xa lạ, tính phổ quát sẽ m ất, hình t ượng sẽ
thiếu sức truyền cảm, không tạo được sự đồng điệu, đ ồng cảm v ới b ạn
đọc.
b. Phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ vấn đề:
Học sinh có thể chọn lựa phân tích một số điển hình văn học trong và
ngoài nhà trường, cả VHVN và VHNN, miễn sao các hình t ượng th ực s ự là
điển hình, có tính cá biệt nhưng cũng mang tầm khái quát cao. (Ví d ụ: Chí
Phèo,
Bá Kiến (“Chí Phèo”- Nam Cao), Xn Tóc Đỏ (“Số đỏ”-Vũ Trọng Ph ụng),
Hồng(“Đơi mắt”-Nam Cao)…




×