Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.18 KB, 22 trang )

Phiếu nhận xét dành cho các đơn vị, trường học trực thuộc Sở GD&ĐT
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Mẫu 2a

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRÀ VINH

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TRƯỜNG THPT DƯƠNG HÁO HỌC
PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài
: Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh.
Thời gian thực hiện: Năm học 2016 -2017
Tác giả
Chức vụ

: Bùi Thị Kiều Nhi
: Giáo Viên

Bộ phận cơng tác : Tổ Hóa – Sinh – Cơng nghệ
TỔ CHUYÊN MÔN ( TRƯỜNG )

HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG

Nhận xét:

Nhận xét:


…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………


…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

Xếp loại ………..

Xếp loại :………..

Ngày…..tháng…..năm…….
Tổ trưởng

Ngày…..tháng…..năm…….
Hiệu trưởng

1


UBND TỈNH TRÀ VINH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài

: Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh.

Thời gian thực hiện: Năm học 2015 - 2016
Tác giả
Chức vụ

: Bùi Thị Kiều Nhi
: Giáo Viên

Đơn vị công tác : Trường THPT Dương Háo Học

TỔ BỘ MÔN ( CẤP TỈNH )

HỘI ĐỒNG KHGD SỞ GD & ĐT

Nhận xét:

Nhận xét:

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………


…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

…………………………………………

Xếp loại ………..


Xếp loại :………..

Ngày…..tháng…..năm…….
Tổ trưởng

Ngày…..tháng…..năm…….
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
Giám đốc
Sở Giáo dục & Đào tạo

2


BÁO CÁO TÓM TẮT
1. Người thực hiện:
- Họ và tên: Bùi Thị Kiều Nhi
- Năm sinh: 20/10/1984
- Đơn vị công tác: Trường THPT Dương Háo Học
- Chức vụ hiện tại: Giáo viên
- Trình độ chun mơn: ĐHSP
2. Tên sáng kiến: Giáo viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học
sinh.
3. Nội dung sáng kiến:
Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, địi hỏi người GVCN phải bỏ
nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trị của mình GVCN cần biết đặt tình
thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề
nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình,
nhà trường và xã hội
Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm

rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Độ tuổi, mức độ
trưởng thành của HS, hoạt động của ban cán sự lớp, điều kiện cụ thể của trường,
lớp, gia đình HS và các tổ chức xã hội có liên quan.
Do vậy, khơng thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN.
công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, địi hỏi GVCN
phải hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm
vụ này có hiệu quả.
4. Thời gian thực hiện sáng kiến: Bắt đầu từ tháng 9/2013 đến tháng 11 năm 2016.
5. Phạm vi áp dụng:
- Áp dụng học sinh trường THPT Dương Háo Học ở tất cả các hệ.
- Là tài liệu trao đổi phương pháp giáo dục học sinh với đồng nghiệp, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường.
6. Hiệu quả:
- Chưa áp dụng đề tài:
Năm
học

Lớp
CN

2013- 2014

11CB
1

Đầu
năm
30

Học sinh

Cuối
Tỉ lệ
năm
25
83,3%

Xếp loại học lực
G
K Tb Y

Xếp loại hạnh kiểm
G
K
Tb
Y

1

10

Học sinh
Cuối
năm
31

Tỉ lệ

Xếp loại học lực
G
K Tb Y


Xếp loại hạnh kiểm
G
K
Tb
Y

100%

7

20

4

0

28

3

0

0

100%

7

18


4

0

28

1

0

0

5

19

5

14

5

TNTHPT
SL TL

1

- Áp dụng đề tài:
Năm

học

Lớp
CN

2014- 2015

10CB
1
12B2

2015- 2016

Đầu
năm
31
29

29

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TNTHPT
SL
TL

29

100%


NGƯỜI BÁO CÁO

Bùi Thị Kiều Nhi
3


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, giáo viên là những người được đào tạo để giáo dục
học sinh trở thành những người có đầy đủ Đức - Trí - Thể - Mỹ. Vì vậy, bản thân
mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Thiết nghĩ, đã chọn
nghề giáo làm lý tưởng cho cuộc đời mình, Tơi ln tự nhủ là phải làm sao giữ cho
mình ln là một giáo viên mẫu mực, một tấm gương tận tụy, một tình cảm nhân
hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, một tấm lòng rộng lượng, bao dung.
Thậy vậy, trong nghề giáo viên có giây phút nào vui hơn, hạnh phúc hơn khi
nhìn những ánh mắt rạng ngời, say sưa của học sinh thân yêu khi nghe từng lời
giảng của mình. Có tự hào nào hơn khi đứng trên bục giảng được đón nhận những
tình cảm mến u, kính trọng từ những học trị của mình! Có sung sướng nào hơn
khi giữa phố chợ tấp nập ồn ào lại có tiếng chào “Thưa cô!” hay là một cái gật đầu
biểu hiện thái độ kính trọng.
Vì thế, vai trị của người làm công tác giáo dục là vậy, song không thể không
kể đến ngững người làm công tác giảng dạy vừa kiêm nhiệm cơng tác chủ nhiệm
lớp. Vì giáo viên chủ nhiệm là người quản lý cả một tập thể lớp với những tâm tư,
nguyện vọng, tình cảm, hồn cảnh, điều kiện, ý thức tâm sinh lý khác nhau và chỉ
đạo mọi hoạt động trong lớp. Đây là chức năng rất đặc trưng của giáo viên chủ
nhiệm so với các giáo viên bộ môn khác không làm chủ nhiệm lớp. Đồng thời là
người bị áp lực, trách nhiệm ở nhiều góc độ như: về học tập, hạnh kiểm, tham gia
các phong trào, học sinh nghĩ học, bỏ học, công tác thi đua, về phía phụ huynh học
sinh, Ban giám hiệu.
Chính vì vậy, qua nhiều năm giảng dạy, Tôi nhận thấy là một giáo viên nếu

được Ban giám hiệu tin tưởng phân công làm cơng tác chủ nhiệm thì địi hỏi người
giáo viên phải chủ nhiệm lớp bằng cả khả năng và cả một trái tim nhiệt huyết. Bởi
vai trò của người làm công tác chủ nhiệm rất quan trọng, làm tốt công tác chủ
nhiệm thì kết quả nề nếp và học tập cao và ngược lại.
Xuất phát từ những lý do, và yêu cầu thực tiễn trên, Tôi chọn đề tài: “Giáo
viên chủ nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh” làm sáng
kiến kinh nghiệm của mình nhằm đóng góp một chút kinh nghiệm làm tốt hơn
cơng tác chủ nhiệm lớp.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu vai trị, nhiệm vụ của GVCN lớp đối với công tác
giáo dục HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THPT.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, bản thân Tôi đã sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của người GVCN lớp trong
công tác giáo dục HS THPT, các bài tham luận trên Internet, một số sáng kiến có
đề cập tới cơng tác GVCN của một số đồng nghiệp, bạn bè trường bạn.
4


- Phương pháp điều tra:
+ Điều tra tình hình lớp, trước khi nhận lớp chủ nhiệm ( hồ sơ, học lực, hạnh
kiểm, chức vụ cán sự lớp, hoàn cảnh gia đình, lý lịch hs...)
+ Trị chuyện, trao đổi với GVBM, với HS.
+ Thông qua phương pháp này GVCN nắm rõ hơn tâm lý, tính cách của
từng HS, rõ về học tập của từng em để tham mưu cho các GVBM, phối hợp với
CMHS được tốt hơn trong việc phân công tổ, nhóm học tập.Đồng thời giúp GVCN

định hướng cán sự lớp thật sự có năng lực, chất lượng và làm việc có hiệu quả.
- Phương pháp phân tích số liệu:
Kết quả cụ thể qua từng học kỳ của năm học và qua tổng kết của từng năm
học sẽ có sự thay đổi . GVCN sẽ tìm ra những hạn chế, và mặt tích cực để có giải
pháp phù hợp hơn cho năm chủ nhiệm tiếp theo.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo kinh nghiệm của đồng nghiệp trường bạn, trường mình.
+ Từ kinh nghiệm của chính bản thân qua các năm làm công tác chủ nhiệm.
- phương pháp thử nghiệm:
Đã áp dụng các biện pháp vào công tác giáo dục HS Trường THPT Dương
Háo Học từ năm học 2013 n 2016.
III. Gii hn ti
Đề tài này tập trung nghiên cứu về phơng pháp giỏo dc hc
sinh
IV. K hoạch thực hiện
Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9/2013, Kết thúc tháng 11 năm
2016.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
5


Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các
trường trung học phổ thơng, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ
nhiệm. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác
nhất là hoạt động học tập của nhà trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt cơng
tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt thì sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi
dưỡng và hồn thành tốt chun mơn của mình.
Trong những năm gần đây cùng với việc thay đổi sách giáo khoa cũ bằng

sách giáo khoa mới, việc thay đổi một số phương pháp trong dạy học là rất cần
thiết.
Song song với việc đổi mới ấy, việc quản lí giáo dục học sinh cũng rất quan
trọng, đặc biệt vai trị của GVCN trong cơng tác giáo dục học sinh. GVCN được
coi như người mẹ, người cha thứ 2 của HS.
Đối với học sinh THPT, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm sinh lí khá phát triển, trí
tuệ biến đổi cả về chất và lượng. Các em biết quan sát nhạy bén và cảm nhận tinh
tế , tư duy trừu tượng ở mức cao. Nhưng lại rất dễ thay đổi tính nết, dễ sa ngã và bị
lơi kéo, lứa tuổi đang và muốn tự khẳng định mình trước mọi người.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ nhiệm vụ của
GVCN trong điều lệ trường phổ thơng.
Vì GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, ý thức đạo
đức học sinh, tạo điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực. Do đó GVCN là một trong những nhân tố thúc đẩy sự
hình thành nhân cách của học sinh, mang lại một phần kết quả rèn luyện đạo đức,
học tập của các em.
Học sinh THPT cần được trau dồi tư tưởng vững vàng, có nghị lực vượt khó
trong học tập và đời sống. mà các em cịn đóng vai trị quan trọng trong chất lượng,
tỷ lệ thi TNTHPT của nhà trường, tỷ lệ HS đỗ đại học. Vì vậy việc quản lí giáo dục
học sinh THPT không phải là dễ.
II. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay công tác chủ nhiệm mặc dù được chú ý đến nhưng chưa có phương
pháp, nhiều giáo viên chỉ chú tâm vào bồi dưỡng chuyên môn mà xem nhẹ công
tác chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm chưa thấy hết được vị trí và chức năng của mình.
Các giáo viên chủ nhiệm chưa có phương pháp tối ưu hoặc có dùng một số
phương pháp trong công tác chủ nhiệm nhưng không hiệu quả.
Trong công tác chủ nhiệm chỉ chú tâm vào việc rèn luyện, không chú ý đến
việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh. Do vậy một số lớp mặt dù là lớp tiên tiến,
được xếp thứ hạng cao trong trường nhưng lại không phải là một tập thể lớp vững

mạnh, chưa phát huy hết vai trò của tập thể.
Với những thực tế trên đã dẫn đến ở các trường hiện nay đạo đức học sinh
đang đi xuống, tác phong khơng đúng, lời nói cử chỉ chưa phù hợp với lứa tuổi của
mình. Lực học bị sa sút, các thành viên trong lớp khơng có tinh thần tập thể.
Là một giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy và tham gia làm công tác
chủ nhiệm, với mong muốn luôn làm tốt cơng tác chủ nhiệm và có thêm những
kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này. Cùng với những trăn trở về thực trạng
học sinh hiện nay, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số sáng kiến về: “Giáo viên chủ
6


nhiệm là nhân tố then chốt trong việc giáo dục học sinh” để cùng đồng nghiệp
trao đổi học hỏi thêm kinh nghiệm cho bản thân.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn
1. Thuận lợi
Được BGH tin tưởng phân công làm công tác chủ nhiệm lớp, nên mỗi năm
lại có thêm kinh nghiệm và bài học cho lớp kế theo.
Đa phần các em HS ngoan, hiền.
BGH rất quan tâm và chú trong công tác chủ nhiệm, GVCN + CMHS +
GVBM luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục HS.
Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất để HS được học hành,
vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động đoàn thể tốt.
Bản thân ngay từ đầu khi nhận chuyển giao lớp Tơi cũng tìm hiểu thơng tin
từ GVCN lớp trước để tìm hiểu, hồn cảnh gia đình, cá tính, tác phong đạo đức,
thái độ học tập của học sinh. Tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đem lại đơi nét sơ bộ về
học sinh lớp mình chủ nhiệm để kịp thời đề ra biện pháp khắc phục, bồi dưỡng,
động viên, tạo cơ sở ban đầu để đi đến thành cơng sau này.
2. Khó khăn
Sự hiểu biết giữa GVCN và học sinh chưa có, GV phải mất một khoảng thời
gian nhất định để tìm hiểu các em.

Học sinh bỡ ngỡ trước GVCN mới nên ngại giao tiếp, bày tỏ tâm tư nguyện
vọng hồn cảnh của mình.
Thời gian nghỉ hè các em thường mãi mê vui chơi hoặc phụ giúp gia đình
mà ít khi xem lại kiến thức cũ để bước vào năm học mới hoặc là do tác động của
môi trường xã hội như: Chơi game, bida...mà xao lãng với việc học.
Trong thời gian nghỉ hè do tác động của môi trường xã hội, bạn bè cùng
trang lứa lôi kéo, tác động phụ huynh và học sinh thấy lợi trước mắt mà chưa nghĩ
đến tầm quan trọng của việc học sau này.
Một bộ phận học sinh nhà xa trường, điều kiện đi lại khó khăn cũng là điều
trăn trở của bản thân khi đảm nhiệm công tác chủ nhiệm.
IV. Biện pháp giải quyết vấn đề
1. Một số kinh nghiệm của bản thân trong công tác chủ nhiệm thời gian
qua:
- Trước hết Tôi thu thập một số thông tin như: Số lượng học sinh, tên, tuổi,
gia đình, học lực và hạnh kiểm,..
- Tổ chức đội tự quản bao gồm: Ban cán sự, tổ trưởng, tổ phó,......Để phát
huy vai trị cố vấn Tôi phải biết khen, gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc
đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động học tập cũng như
các hoạt động khác phù hợp với mỗi tuần, tháng, học kỳ, năm.
- Tổ chức đại hội phụ huynh lớp bầu ra ban đại diện PHHS để tạo sự gắn bó
giữa GVCN với gia đình từng học sinh, hiểu được gia đình, cá tính của học sinh
khi ở nhà để cùng với ban đại diện PHHS có kế hoạch hợp lý giải quyết những tình
huống xảy ra sau này.

7


- Điều lưu ý là xây dựng đội tự quản (Lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng,...) có
uy tín được tập thể tín nhiệm, học giỏi, đạo đức tốt, năng lực hoạt động, sáng tạo,
đặc biệt là có tinh thần yêu thương, giúp đở bạn bè, là cầu nối của khối đại đồn

kết trong lớp, khơng phân biệt các bạn có hồn cảnh gia đình khó khăn, dân tộc,
các bạn chậm tiến, học yếu,...
Sau khi đã có được một lượng thơng tin cơ bản Tôi tiến hành xây dựng kế
hoạch cho bản thân như sau:
- Triển khai nội quy nhà trường.
- Kế hoạch năm, học kỳ, tháng, tuần đảm bảo đầy đủ các đề mục văn hóa,
đạo đức, hoạt động văn nghệ, TDTT, ngoại khóa,...
- Hàng tuần có sơ kết đánh giá nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục
những tồn tại từng cá nhân, nhóm, tổ và cả tập thể lớp.
- Xây dựng kế hoạch thi đua tổ.
- Liên hệ với GVBM để có kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu, học sinh giỏi.
- Lập sổ liên lạc là cầu nối những thông tin cần thiết từ trường, GVCN và
PHHS.
- Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh
- Xây dựng nhóm, đơi bạn cùng tiến giúp nhau vượt qua khó khăn.
- Kết hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn trong nhà trường trao đổi, cung cấp
những thơng tin về hồn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm để có hướng hỗ trợ, giúp
đỡ hợp lý tránh gây sự mặc cảm trong lòng học sinh và cũng cho học sinh thấy
được sự quan tâm chia sẻ tận tình của cả cộng đồng, tạo động lực thúc đẩy cho các
em cố gắng vươn lên. Tổ chức các phong trào vui chơi lành mạnh để học sinh có
dịp giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với nhau.
- Tham mưu, đề xuất với Ban giám hiệu, các ban ngành Đồn thể, chính
quyền địa phương để có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện xấu xâm nhập học
đường. Khen thưởng những tấm gương tiêu biểu, điển hình để tập thể học sinh noi
theo.
Ngồi ra, sự nhạy bén xử lý tình huống sư phạm của người GVCN là biện
pháp quan trọng bởi nó là ranh giới giữa sự buông trôi, bất cần trước hành vi vi
phạm của học sinh hoặc là niềm an ủi động viên giúp học sinh nhận ra sai trái để
phấn đấu vươn lên.
Bản thân là một GVCN Tôi luôn:

- Gương mẫu, chuẩn mực cho học sinh noi theo.
- Gần gũi, lắng nghe ý kiến học sinh, chia sẻ mọi tâm tư nguyện vọng với
học sinh.
- Quan tâm đến học sinh hơn. Bao dung, bình đẳng trong đối xử với các em.
- Khơng phân biệt đối xử, không trù dập, không thành kiến với học sinh.
- Có trách nhiệm ln giữ chữ tín với học sinh
- Tự học, tự rèn, tự nâng cao tri thức và năng lực tổ chức quản lí lớp.
- Đặc biệt, là tạo uy tín của mình trong phụ huynh cũng như học sinh bằng
phương châm: “Nói đi đơi với làm”. Ví dụ như: Khi phát động phong trào làm Báo
8


tường chào mừng ngày 26/3. Tôi cũng như học sinh lớp tham gia làm báo cùng các
em nên học sinh rất vui vẻ và ủng hộ phong trào này hoặc hoạt động cắm trại xuân,
Tôi cũng tham gia hùn tiền cùng học sinh như một thành viên của lớp.
- Khi học sinh khơng hiểu bài Tơi ln nhiệt tình giảng lại.
- Khi học sinh phạm lỗi lầm Tôi không dùng hình phạt, Tơi khun răn
hướng dẫn học sinh sửa chữa.
- Tạo khơng khí cởi mở, hịa nhã khơng căng thẳng.
- Bản thân ln u nghề, mến trẻ, có tâm quyết với công tác giáo dục
- Quan tâm sâu sát với học sinh trong mọi hồn cảnh, ln là tấm gương
trong cách cư xử.
- Biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến học sinh.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy giúp học sinh học tốt nhất.
- Tổ chức nhiều hoạt động trong lớp để học sinh vui đến trường.
- Tạo mọi điều kiện để học sinh tham gia các hoạt động.
- Luôn gương mẫu, yêu nghề, đối xử công bằng với học sinh.
2. Bạo lực học đường và tình trạng học sinh bỏ học:
Trong bối cảnh xã hội của cuộc sống sôi động như hiện nay với sự bùng nổ
thông tin, sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, tác động của kinh tế thị

trường,...có quá nhiều tiêu cực tác động đến các em từ nhiều phía. Khi bước vào
lứa tuổi học sinh trung học, các em vị thành niên cũng bắt đầu một thời kì hết sức
có ý nghĩa trong cuộc đời. Đó là giai đoạn “Chuyển đổi” từ trẻ em thành người lớn,
dần dần trưởng thành cả thể chất lẫn tinh thần. Các em đối mặt với những thay đổi
mạnh mẽ về cảm xúc, nhu cầu, các mối quan hệ,...GVCN giúp học sinh nhận thức
là đặc biệt quan trọng trong thời kì này, bởi các em chưa đủ năng lực để hiểu được
mình, chưa biết điều chỉnh và kiểm soát bản thân, các em dễ rơi vào những mâu
thuẫn, xung đột trong quan hệ với chính mình và với người khác. Đây là một áp
lực của người làm công tác chủ nhiệm, địi hỏi người GVCN phải có kĩ năng và
nghệ thuật sư phạm, làm cho học sinh chịu tác động chi phối mình một cách tuyệt
đối. Ta cần xác định đây là tuổi giao thoa (Lớn không ra lớn, nhỏ khơng ra nhỏ).
GVCN phải biết tâm lí lứa tuổi để làm cố vấn cho các em, ta chỉ cần một sai sót
nhỏ về cố vấn sẽ dẫn đến sự hụt hẫng ở các em.
Hầu hết ở lứa tuổi này, các em rất đua địi, có một bộ phận học sinh ăn mặc,
đầu tóc, nói tục, chửi thề, vơ lễ,...đôi khi dị dạng, làm mất đi sự hồn nhiên của lứa
tuổi mới lớn. Đặc biệt là các em thích được xem mình đã lớn và muốn chứng tỏ
mình trước bạn bè. Có khi các em dỡn qua lại rồi nổi nóng, rồi chửi nhau và dẫn
đến đánh nhau hoặc ganh ghét nhau trong học tập rồi hẹn một địa điểm để thanh
toán hoặc chặn xe giữa đường để đánh nhau. Có khi do bị khêu khích, do tranh
chấp chuyện nào đó nhỏ cũng đánh nhau, có trường hợp đánh nhau, Tơi hỏi lý do,
các em nói thấy bạn thấy ghét, em kiếm chuyện đánh cho bỏ ghét,...Có em muốn
được nổi tiếng, ta đây, muốn làm đại ca để được bạn bè nể phục, khi nhắc đến danh
mình thì bạn bè sợ hãi, không dám đụng vào,...Hiện tượng học sinh đánh nhau
9


đang là nổi bức xúc, đáng cảnh báo và đáng lo ngại nhất trong học đường hiện nay.
Báo động hơn cả là phong trào học sinh nữ đánh nhau đang nhen nhóm lên, thấy
bạn khác đẹp hơn mình, chảnh, thấy ghét kiếm chuyện đánh để thể hiện sức mạnh
của mình bằng cách làm cho người khác bị tổn thương, đau khổ. Tình trạng học

sinh đánh nhau, có thể là do mâu thuẫn một phần, phần lớn nhất là do ảnh hưởng
của mạng internet và ghê gớm hơn cả là các em đánh nhau còn quay phin để đăng
lên mạng,... làm mất phẩm chất của học sinh, rõ ràng các em như bị cuốn theo
vịng xốy của cuộc sống. Những hành vi này đang làm xơn xao dư luận, thay vì
các em giải quyết mâu thuẫn bằng đánh nhau thì các em hãy dùng lời nói. Chúng ta
phải làm cho học sinh ý thức rằng đánh nhau như vậy là không tốt, khơng những
hại chính bản thân mình mà gia đình xấu hổ, chúng ta phải có giải pháp ngăn chặn
tình trạng đánh nhau của học sinh và cho học sinh hiểu hậu quả của nó để các em
nhận ra việc học là quan trọng hơn cả.
* Sau đây, Tôi đưa ra một số biện pháp thực hiện trong phạm vi là
người GVCN nhằm ngăn chặn tình trang học sinh đánh nhau và dẫn đến tình
trạng bỏ học:
- Trước hết, chúng ta là người cha, người mẹ thứ 2, yêu thương, quan tâm và
thấu hiểu mọi tâm tư, nguyện vọng và là chỗ dựa tinh tưởng nhất để các em giải
bày mọi khúc mắc. Đơi khi GVCN rất mệt mỏi vì nói hồi mà các em khơng nghe,
càng phạt càng lì hơn hoặc các em sẽ phá phách, chống đối ngầm, điều này ảnh
hưởng khơng nhỏ đến thành tích chung của lớp. Thông thường, ta nghĩ rằng, các
em học sinh phải trật tự và “cung kính” nghe lời dạy của thầy cô, tuy nhiên trong
giáo dục ở đây, chúng ta cũng cần thu thập thơng tin phản hồi từ phía học sinh,
phải lắng nghe và thấu hiểu, lắng nghe bằng cả trái tim cũng như bằng đôi tai để tư
vấn cho các em. Sự gần gũi của chúng ta đối với các em rất quan trọng, đặc biệt là
các em đã từng bị nhiều thầy cô la rầy, quở trách nên đôi khi rất bất mãn khi nghe
những lời không vui tai, Do đó, Tơi trị chuyện với các em và chỉ ra một số điểm
yếu mà các em đã từng mắc phải và phân tích cho học sinh thấy tai hại của những
biểu hiện bước đầu mà nếu không nhanh chống khắc phục thì lâu dài trở thành bản
chất khó thay đổi, đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập và hạnh kiểm của
các em. Từ đó định hướng cho các em rèn luyện đạo đức và học tập tốt. Đa số,
chúng ta khi thấy học sinh vi phạm là xử lý trên hành động do học sinh gây ra mà
quên là cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Không phải tự nhiên mà học sinh trở
thành cá biệt, đánh nhau như thế, có khi đó là hậu quả của các vết thương tâm lý

mà vơ tình người lớn đã gieo vào đầu óc non nớt của các em khi sống trong gia
đình mà cha mẹ khơng hịa thuận, li thân, li dị, cha mẹ nng chìu con, cha mẹ
bênh vực con, chưa kể đến có phụ huynh tỏ ra bất lực trước con em mình,...điều
này ảnh hưởng đến đặc điểm tâm, sinh lí của các em.

10


- GVCN cần có nề nếp, kĩ cương để học sinh tự nhận thức, tự khép mình
trong những nội quy, quy chế chặt chẽ. Mục đích của quy chế là vì lợi ích của tập
thể, trong đó có lợi ích của cá nhân học sinh nhưng luôn được dân chủ, bàn bạc,
trao đổi, thầy trị cùng thảo luận, ai có ý kiến gì đều phát biểu, dân chủ nhưng phải
kính thầy, thầy phải q trị.
Ví dụ: Trong lớp Tơi chủ nhiệm năm học 12014 – 2015, có thơng tin cho
biết: Một số em thành lập băng nhóm có tên “Ve Sầu”. Với những biểu hiện là ăn
mặc lố lăng, đầu tóc vàng đỏ bù xù, thường xuyên gây gổ đánh nhâu, tụ tập tại
quán cà phê vào ban đêm. Trước tình huống trên Tơi xử lý như sau:
* Tơi tìm hiểu và nắm chắc thông tin (các em tham gia, mục đích của nhóm,
hoạt động của nhóm …)
* Khi có đầy đủ thơng tin tổ chức gặp nhóm nói rõ:
+ Nhiệm vụ của người học sinh trong nhà trường, ngoài nhà trường.
+ Chuẩn mực đạo đức, lối sống của người học sinh.
+ Chỉ cho phép hình thành các nhóm bạn cùng chung sở thích để giúp nhau
học tập và rèn luyện tốt.
+ Nhóm nào thì cũng phải hịa đồng trong tập thể lớp, trường.
Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học
tập.
- Thuyết phục các em bằng lời lẽ có lí có tình, bằng tình cảm và phép tắc tác
động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: trị chuyện, nêu gương tốt,
thưởng việc tốt.

- Khơng được nóng tính khi xử lý học sinh, luôn biết tha thứ cho những
khuyết điểm mà học sinh mắc phải. Đặc biệt không nên nhắc lại khuyết điểm mà
học sinh đã hối hận và tự mình biết sửa chữa khuyết điểm. Với học sinh dạng này,
ta không nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ ngay sau vài lần nhắc nhở và xử phạt
của GVCN, có khi vẫn tiếp tục phạm lỗi lầm với mức độ liên tục hơn, nghiêm
trọng hơn, như một thách thức, một cách khẳng định mình với bạn bè, với thầy cơ,
với mọi người. Chính ở những khoảnh khắc này, người GVCN cần thể hiện rõ bản
lĩnh và năng lực sư phạm, trong đó có cả năng lực chịu đựng của mình, chịu đựng
những vi phạm cố tình, những thách thức nông nổi và cả những nổi bực bội, tức
giận đang phải dồn nén trong người. Cần phải tạo được ở các em trước hết là sự
tôn trọng, sau đó là sự cảm thơng.
Ví dụ: Trong giờ sinh hoạt lớp, để nhấn mạnh vai trò của sự học, Tơi nói
với HS của mình rằng: “Ngày nay, học vấn đóng vai trị hết sức quan trọng. Sau
này, muốn tìm được một cơng việc phù hợp, có thu nhập cao thì địi hỏi phải có
học vấn, có trình độ tay nghề …” nhưng ngay lúc đó, có một HS phát biểu rằng
“Ba em chỉ mới học đến lớp 9 nhưng vẫn làm giám đốc của một công ty, đi về có
xe ơ tơ đưa đón.....Trước tình huống Trên Tơi xử lý như sau:
Ngay lúc đó, Tơi khơng nóng nãy, Tơi cười vì em đó nói hồn tồn chính
xác. Ta cũng không thể áp dụng bất kỳ một biện pháp thuyết giảng đạo đức nào
11


cho trường hợp này được, chỉ có cách đánh động vào lịng tự ái, vào tính hiếu
thắng của tuổi trẻ qua các hình thức sau:
+ Có thể hỏi em đó “Nhưng đến thời của em, vị trí của ba em hiện tại và
những người làm việc xung quanh vị trí đó sẽ là những người thế nào?”. Hoặc có
thể nói: “Con hơn cha, nhà có phúc: em phải chứng tỏ mình hơn ba mẹ…
+ Nêu gương những người học giỏi thành đạt, thu nhập cao trong số con
của đồng nghiệp xung quanh mình để cho HS ngẫm nghĩ.
+ Kể chuyện về các trọc phú ngày xưa.

Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học
tập.
- Khuyến khích học sinh bằng việc khen, chê đúng mục đích, đúng việc,
đúng thời điểm và tế nhị. Một câu động viên, một ánh mắt khích lệ đối với học
sinh, hãy sử dụng nó thường xuyên như một món q tinh thần vơ giá trong mơi
trường sư phạm. Vì chúng sẽ là những động lực lớn lao để các em có thể làm tốt
hơn nữa. Đừng nhìn bằng con mắt của người lớn mà phải đứng ở phía học sinh để
nhìn nhận. Một câu nói vơ tình, một trách phạt nơn nóng, một hành xử thiếu cân
nhắc, đơi khi gây tổn thương và có thể là một ám ảnh không nguôi! Nếu học sinh
vi phạm một lỗi nào đó nhưng khơng làm ảnh hưởng đến tập thể lớp thì chỉ nên
nhắc nhở nhẹ nhàng. Trước mọi sai lầm, vi phạm của học sinh, GVCN cần hết sức
bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét, giải quyết, xử lý có lý có tình, phải
kiên trì, chịu khó và kiên quyết trong việc giáo dục các em.
Ví dụ: Trong giờ ra chơi, bất chợt có 2 học sinh nam trong lớp Tôi chủ
nhiệm năm 2015 - 2016, do dành nhau bạn gái nên đã đánh nhau trong lớp. Trong
tình huống này Tơi giải quyết tình huống như sau:
Trong tình huống này Tơi nghiêm nghị, mời riêng 2 em lên làm việc riêng
và đề nghị từng em đưa ra lý do vì sao đánh nhau trong giờ ra chơi. Sau đó Tơi sẽ
phân tích những điểm sai, đúng của từng em (Nếu như các em thích bạn thì hãy
giữa tình bạn trong sáng, giúp nhau cùng tiến bộ trong học tập. Vì lứa tuổi các em
lo học tập là chính) và có thể cảnh báo sẽ thơng báo cho phụ huynh nếu lần sau
cịn có hành động tương tự.
Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học
tập.
- Người GVCN nắm vững, vận dụng mọi phương pháp giáo dục học sinh và
biết kết hợp chúng trong mọi hoàn cảnh cụ thể.
Ví dụ: Cùng một biểu hiện hư như nhau, nhưng có em phải phê bình nghiêm
khắc, có em thì nhắc nhẹ, có em chỉ nhắc chung hoặc có em phải trực tiếp bằng
chính những lời tâm sự như mẹ, con, có em phải thơng qua bạn bè, gia đình, tập
thể.


12


- Tuyệt đối, GVCN không nên biến giờ sinh hoạt chủ nhiệm thành giờ tra tấn
học sinh, làm cho các em ln lo sợ, phập phồng và có cảm giác nặng nề, căng
thẳng, chán nản.
- Nếu GVCN không đo được mức độ của hành vi, sử dụng không tương ứng,
dẫn tới phản tác dụng giáo dục.
Ví dụ: khơng đáng khen mà khen quá lời cũng không tốt hoặc chỉ đáng nhắc
nhở mà vì lẽ gì GVCN cảnh cáo, phê bình thì sẽ làm cho học sinh hậm hực, bi
quan, mất lòng tin.
- Khi uốn nắn, giáo dục học sinh vi phạm chúng ta cũng nên khéo léo, làm từ
từ, tìm hiểu sự việc cho cặn kẽ, rõ ràng, xử lý nghiêm khắc nhưng cũng mền dẻo,
tránh trường hợp dồn các em đến bước đường cùng.
Ví dụ: Giờ ra tiết, một học sinh lớp Tôi chủ niệm năm học 2013 - 2014, gặp
riêng Tôi và báo cho Tôi biết bạn A (bạn cùng lớp) hăm doạ sẽ đánh một bạn B
sau giờ học.. Trước tình huống đó Tơi xử lý như sau:
+ Gặp riêng 2 em đó để tìm hiểu sự việc
+ Phân tích điều đúng, sai về hành vi đó của 2 em
+ Nêu tác hại của hành vi, giáo dục , nhắc nhỡ khuyên răn 2 em.
Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học
tập.
Một vấn đề nóng bỏng cần bàn đến nữa đó là tình trạng học sinh bỏ học
hiện nay là một vấn đề rất đau đầu từ các cấp lãnh đạo đến Ban giám hiệu
nhà trường. Đặc biệt là đội ngũ những thầy cô giáo đảm nhận cơng tác chủ
nhiệm hiện nay.
Trước thực trạng đó, Tơi xin trình bày những kinh nghiệm của bản thân với
vai trị là một GVCN mong quý thầy cô chia sẻ.
Chúng ta đã biết trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học giữa

chừng ngày càng gia tăng. Đây là nổi bức xúc đối với ngành, chính quyền địa
phương và tồn xã hội. Tình trạng bỏ học có nhiều ngun nhân:
- Do nhận thức của một số PHHS chưa cao về ý nghĩa, tầm quan trọng và
cần thiết của việc học tập của con em (Thường có suy nghĩ học để biết viết, tính
tốn chút ít là được rồi, khơng cần học cao mới có việc làm ổn định,...).
Ví dụ: Một học sinh lớp Tôi chủ nhiệm năm học 2014- 2015 vừa bước sang
tuổi 16 đã bị bố mẹ bắt em nghỉ học để lấy chồng vì lý do gia đình bên đó rất giàu
có, sau này khỏi lo cái ăn, cái mặc. Đồng thời vì phong tục của địa phương là con
gái nên lấy chồng sớm. Nhưng em học sinh này rất muốn đi học, lại không muốn
trái lời gia đình. Trước tình huống đó Tơi xử lý như sau:
Động viên em giữ vững tinh thần. tiếp tục đi học tốt.

13


Tôi gặp trực tiếp phụ huynh học sinh này để tìm hiểu và nắm bắt hồn cảnh
để có biện pháp giúp đỡ. Đề xuất với nhà trường có biện pháp hỗ trợ, trao đổi với
các ban ngành, chính quyền địa phương.
Tuyên truyền cho phụ huynh biết việc bắt con gái lấy chồng khi chưa đủ
tuổi là vi phạm pháp luật. đồng thời đó là hủ tục đã lạc hậu.
Kết quả, mẹ em đổi ý và cho em này tiếp tục học tiếp và em học ngày càng
tiến bộ và khi học xong trung học phổ thông em trở thành một Bác sĩ .
- Do hồn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế nên cha mẹ phải đi làm ăn xa
hoặc bản thân học sinh phải đi tìm việc làm để có thu nhập giúp đỡ gia đình.
Ví dụ: Một học sinh lớp Tôi chủ nhiệm năm học 2013- 2014 , học lực khá
trong lớp vì hồn cảnh gia đình q khó khăn, nên em đến trình bày với Tơi, xin
cho em nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Trước tình huống đó, Tơi ứng xử như
sau:
Tơi đến gia đình em và tìm hiểu nguyên nhân, trình bày với gia đình em :
Em là một học sinh khá trong lớp đang có nhiều triển vọng, vì em cịn chưa đến

tuổi lao động nên nhà trường rất tiếc nếu em phải nghỉ học. Tơi cũng tìm hiếu
những khó khăn cụ thể để Tôi sẽ bàn bạc với tập thể lớp, Hội phụ huynh học sinh,
Hội khuyến học của địa phương có biện pháp giúp đỡ cụ thể.
Phân tích cho gia đình và em biết rõ , mình càng khó khăn thì phải cố gắng
học tập để sau này có việc làm ổn định.
Kết quả, em đổi ý và cho em này tiếp tục học tiếp và em học ngày càng tiến
bộ, khi học xong trung học phổ thông em trở thành một cô công an .
- Do nề nếp sinh hoạt gia đình cịn hạn chế, thiết sự quan tâm chặt chẽ đối
với con em.
Ví dụ: Một em học sinh trong lớp Tôi chủ nhiệm trước đây rất ngoan và
chăm học, nhưng thời gian gần đây có biểu hiện bỏ một số tiết học và kết quả học
tập đi xuống. Sau khi tìm hiểu Tơi biết bố mẹ em đó mới li hôn và em đã bỏ tiết đi
chơi game. Khi Tơi gọi riêng em đó để nhắc nhở thì em đó trả lời: “ Bố mẹ có
thương em đâu, khơng ai quan tâm cả thì em cố gắng học làm gì, khơng sớm thì
muộn em cũng phải bỏ học thơi. Trước tình huống trên Tơi xử lý như sau:
Có thể nhẹ nhàng khun em đó hãy bình tĩnh, vì tương lai của mình em hãy
xem lại những hành động của em. Ngồi tình cảm gia đình dành cho em cịn có
thầy cơ, các bạn ln quan tâm, đứng đằng sau giúp đỡ em, em không nên biểu
hiện như thế mà phụ lịng mọi người. đồng thời Tơi về nhà học sinh đó tìm hiểu,
gặp mặt người đại diện ni em để phối hợp khuyên răn em với thái độ ân cần,
quan tâm hơn đối với em đó, ln động viên nhắc nhở, trò chuyện sau các giờ học,
theo dõi biểu hiện của em trong các ngày tiếp theo để có thể phối kết hợp với
GVBM và BGH nếu em đó chưa tiến bộ.
Sau đó, các em nhận thấy thái độ sai trái của mình và tiến bộ hơn trong học
tập.
- Do bản thân học sinh yếu kém, mất căn bản dần dần chán nản từ đó bỏ học.
14


- Do một số học sinh ham chơi game, không ham học, thiếu ý thức tổ chức

kỷ luật, không chấp hành nội quy của nhà trường, yếu kém học tập, suy thoái về
đạo đức.
- Một số học sinh ham chơi đua đòi và thử nghiệm cuộc sống từ bạn bè
(Thấy một số bạn đi làm ăn xa một thời gian về có tiền rủ nhau đi làm)
- Cũng phải nói là một phần do công tác chủ nhiệm của chúng ta thật sự
chưa tốt, công tác liên hệ, tiếp xúc, giúp đỡ, động viên, khuyến kích chưa kịp thời,
đúng lúc.
- Do gắn kết giữa ba môi trường giáo dục (Nhà trường- gia đình- xã hội)
chưa chặt chẽ.
- Do địa phương chưa có biện pháp tối ưu để quản lí và buộc thanh niên
trong bộ tuổi đi học phải thực hiện nghĩa vụ học tập. Đó là một số nguyên nhân
dẫn đến học sinh bỏ học hiện nay.
*Trước tình trạng đó Tơi xin đưa ra một số giải pháp mang tính chủ
quan mong quý thầy cô chia sẻ.
- Một là: Đối với gia đình
Cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng việc học tập của con em.
Cần quan tâm sâu sát đến con em về nề nếp học tập và hành vi đạo đức để
uốn nắn kịp thời (Nhất là đối với học sinh cá biệt, thường xuyên bỏ học, bỏ tiết
được GVCN thơng báo đến Phụ huynh)
Gia đình thường xuyên liên hệ với GVCN để nắm thông tin về con em mình.
Khắc phục mọi khó khăn, tạo điều kiện tốt nhất để con em thực hiện tốt nhất
nghĩa vụ học tập.
- Hai là: Đối với nhà trường
Xây dựng: “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tổ chức nhiều hoạt
động tập thể, trò chơi dân gian, hội thao,...
Hoạt động nêu gương điển hình.
* Đối với đồn thể
Kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục.
Lên kế hoạch hỗ trợ, giúp học sinh khó khăn (Xét học bổng, tập sách và
tranh thủ vận động các mạnh thường quân ủng hộ học sinh,...)

* Đối với GVCN
Chúng ta phải thường xun làm cơng tác tư tưởng đối với gia đình học sinh
về tầm quan trọng của việc học
Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để nắm rõ hồn cảnh, tâm tư
nguyện vọng nhằm đề ra biện pháp giúp đỡ kịp thời tạo điều kiện tốt nhất cho học
sinh học tập.
Kết hợp với GVBM để theo dõi học sinh về nề nếp học tập, đạo đức để có
biện pháp giáo dục, uốn nắn, bồi dưỡng kịp thời, có kế hoạch bồi dưỡng học sinh
yếu kém.
Động viên khuyến kích học sinh cố gắng vươn lên trong học tập, khắc phục
khó khăn.
15


Xây dựng tập thể và cá nhân học sinh có ý thức tự giác, ý thức tổ chức kỷ
luật nhằm hoàn thiện dần phẩm chất đạo đức học sinh.
Kết hợp chặt chẽ kịp thời, đúng lúc giữa ba môi trường giáo dục.
- Ba là : Đối với chính quyền địa phương
Tùy theo điều kiện địa phương tạo môi trường giáo dục học sinh vui chơi
giải trí lành mạnh.
Có biện pháp tối ưu để quản lí và buộc thanh niên trong bộ tuổi đi học phải
thực hiện nghĩa vụ học tập.
3. Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ
nhiệm của bản thân.
Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm địi hỏi trước tiên là người GVCN phải có
một nhân cách tốt để phát huy tính ảnh hưởng của mình đến học sinh. Bởi vì, mọi
thầy cơ đều có ảnh hưởng không nhỏ trong môi trường giáo dục. Nhưng GVCN
mới là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới học sinh lớp chủ nhiệm vì GVCN với
học sinh một lớp được thiết lập trên mối quan hệ thường xuyên, quan hệ tình cảm
đặc biệt thân thiết trong mọi hoạt động. GVCN được học sinh coi như người dắt lối

chỉ đường, đồng thời vừa coi là người thân thiết như cha mẹ, anh chị và như người
ban luôn động viên chia sẻ mỗi khi các em gặp chuyện buồn hay bối rối, Có những
điều các em khơng thể nói với cha mẹ được thì thầy cơ chính là người duy nhất
giúp các em tâm sự nói lên những suy nghĩ và lo lắng của bản thân mình.
Chỉ có thể làm tốt công tác chủ nhiệm khi thật sự là một người mẫu mực
trong cuộc sống, không chỉ tốt với học sinh lớp chủ nhiệm mà cịn đối với gia đình,
đồng nghiệp, công dân gương mẫu.
Nếu muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì bản thân phải lựa chọn phương
hướng và giải pháp phù hợp để giáo dục học sinh.
Ví dụ: Một học sinh học yếu không thể yêu cầu học khá, giỏi ngay phải nắm
rõ nguyên nhân yếu do sức khỏe, do hồn cảnh thì khơng thể áp dụng giải pháp
như đối với những em học yếu do lười, không chăm chỉ.
Cũng như một hiện tượng không thuộc bài hoặc khơng làm bài tập thì cũng
khơng thể dùng phương pháp giống nhau mà phải xem đối tượng học sinh đó và
tìm hiểu nguyên nhân.
Mỗi một đối tượng học sinh cá biệt, học yếu, lười học, thường xuyên vi
phạm nề nếp,...phải áp dụng một phương pháp gần như khác nhau. Phương pháp
giáo dục của người GVCN vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, vừa nghiêm khắc vừa
khoan dung thì mới có hiệu quả.
Ngồi giải pháp giáo dục trực tiếp GVCN cịn phải lựa chọ giải pháp gián
tiếp thông qua Ban cán sự lớp để các em động viên, giúp đỡ nhau.
Tổ chức thi đua trong nhóm, tổ kịp thời biểu dương, khen thưởng không chỉ
ở những học sinh khá, giỏi ngay cả những học sinh yếu nếu có biểu hiện tốt thì
phải biểu dương, khen thưởng ngay để các em có niềm tin và ý chí vươn lên đẩy
lùi mặc cảm.
16


Luôn luôn lấy phương châm khen đặt lên hàng đầu, nhất là tìm mọi cơ hội
để khen những học sinh yếu, kém. Điều cấm kị nhất của GVCN là sự đối xử thiên

vị, là áp dụng kiểu giáo dục quyền uy, thích dùng những biện pháp mạnh quá
nghiêm khắc, lúc nào cũng phê bình, kiểm điểm, la lối, mời phụ huynh, đòi kỷ luật
học sinh, biến giờ sinh hoạt thành giờ xử án làm cho những học sinh có khuyết
điểm không hứng thú, sợ giờ này. Phải luôn luôn vừa dạy vừa dỗ, nghiêm túc
nhưng hết sức khoan dung, độ lượng đối với học sinh. Không nên trừng phạt thân
thể học sinh, phải giáo dục bằng tình thương và trách nhiệm.
Cũng không thể dùng phương pháp áp đặt mà yêu cầu giáo dục cũng phải
được thảo luận để mọi thành viên nhận thức, tự giác biến thành nhu cầu rèn luyện
của bản thân học sinh.
Tạo mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường- gia đình và xã hội
Xây dựng: “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tạo khơng khí thoải
mái để các em tự tin, phấn khởi, hăng say trong học tập cũng như sinh hoạt vui
chơi, “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”.
Thái độ, cử chỉ, gần gũi, lắng nghe ý kiến học sinh, chia sẽ mọi tâm tư
nguyện vọng với học sinh cũng là một giải pháp hữu hiệu trong q trình giáo dục
tồn diện học sinh của người GVCN, đúng nghĩa“ Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”.
Nhưng dù thế nào, cơng tác chủ nhiệm vẫn là niềm vui, là niềm tự hào của
giáo viên khi mỗi năm một lớp học sinh trưởng thành. Ngày bế giảng những ánh
mắt tin yêu, lưu luyến của học sinh, những lời cảm ơn chân tình của phụ huynh là
nguồn động viên rất lớn để người GVCN tiếp tục là người đưa đị cần mẫn.
Tóm lại, phương pháp sư phạm sâu sắc và rộng lớn vơ cùng. Có lẽ, khơng có
cơng thức nào chung nhất cho nội dung, phương pháp và kĩ năng cho người
GVCN. Hoạt động của người GVCN về bản chất là một trong những hoạt động
sáng tạo nhất trong quá trình giáo dục, là người xây dựng kế hoạch riêng để giáo
dục tập thể học sinh lớp mình. Nhưng cái chung nhất trước tiên cần phải có cái
tâm, là lịng nhiệt tình và phương pháp hợp lí, ln ln lắng nghe, ln ln thấu
hiểu học sinh thì nhất định sẽ đem lại thành cơng.
Mỗi ngày, Tôi thường dành một chút thời gian nhất định để tĩnh tâm suy
nghĩ về học sinh mắc lỗi. Làm thế nào để giải quyết vấn đề sao cho vừa xây dựng

được lịng tin, sự tơn trọng và ý thức kỉ luật của học sinh một cách thân thiện. Bằng
sự tâm quyết với nghề, bằng tình yêu thương học sinh, ý thức trách nhiệm cao và
sự nỗ lực phấn đấu, chúng ta hãy làm hết khả năng để trong tâm trí của những học
trị thân u ghi lại một hình ảnh đẹp về người giáo viên chủ nhiệm và Tôi mong
được giúp đỡ, dạy dỗ, giáo dục cho các em học sinh trở thành những con người
hữu ích cho xã hội để xứng đáng được xã hội ban tặng như cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nói:”Nghề dạy học là nghề cao q nhất trong các nghề cao q
vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
17


V. Hiệu quả áp dụng
Đề tài đã được nghiên cứu từ năm học 2013- đến nay và đã được dạy ở các
lớp ban khoa học tự nhiên và ban cơ bản. Qua các tiết dạy ở lớp, tôi nhận thấy các
em đã có nhiều tiến bộ, hiểu rõ hơn về bài tập đột biến gen.So với các năm học
trước, năm nay học sinh nắm phần này vững hơn, và tiết học sôi nổi hơn.
Kết quả cụ thể ở bài kiểm tra như sau :
- Chưa áp dụng đề tài:
Năm
học

Lớp
CN

Học sinh
Đầu
năm

2013
2014


11CB1

Cuố
i
năm
25

30

Xếp loại học lực
Tỉ lệ

G

K

T
b

Y

Xếp loại hạnh
kiểm
G K Tb Y

83,3
%

1


5

19

5

10

1
4

5

TNTHPT
S
L

TL

1

- Áp dụng đề tài:
Năm
học

Lớp
CN

Học sinh

Đầu
năm

2014
2015
2015
2016

10CB
1
12B2

31

Cuố
i
năm
31

29

29

Xếp loại học lực
Tỉ lệ

G

K


T
b

Y

Xếp loại hạnh
kiểm
G K Tb Y

100
%
100
%

7

20

4

0

28

3

0

0


7

18

4

0

28

1

0

0

TNTHPT
S
L

TL

29

100
%

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của sáng kiến đối với công tác giảng dạy, học tập.
Công tác chủ nhiệm lớp là công tác chiến lược trong nhà trường, có ảnh

hưởng trực tiếp đến q trình giáo dục và kết quả đào tạo ở nhà trường.
Công tác chủ nhiệm gây nên những ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học
sinh, ảnh hưởng về mọi mặt chứ không chỉ là về học tập hay đạo đức.
Công tác chủ nhiệm lớp rất cần thiết cho lứa tuổi thanh niên THPT với
những đặc điểm sinh lý, trình độ hiểu biết và vốn sống cịn hạn chế. Cơng tác chủ
nhiệm lớp sẽ đáp ứng cho nhu cầu có một chỗ dựa tinh thần của HS để các em có
thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ hoặc sự hướng dẫn, chỉ dạy, uốn nắn cần thiết kịp
thời.
II. Khả năng áp dụng
- Áp dụng học sinh trường THPT Dương Háo Học ở tất cả các hệ.
- Là tài liệu trao đổi phương pháp giáo dục học sinh với đồng nghiệp, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường.
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển.
18


Cơng tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, địi hỏi người GVCN phải bỏ
nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trị của mình GVCN cần biết đặt tình
thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề
nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba mơi trường: gia đình,
nhà trường và xã hội
Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm
rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Độ tuổi, mức độ trưởng thành của HS.
- Hoạt động của ban cán sự lớp.
- Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình HS, và các tổ chức xã hội có liên
quan.
Do vậy, khơng thể có một khn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN.
công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, đòi hỏi GVCN
phải hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm

vụ này có hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục học sinh trong cơng tác chủ nhiệm mà
tơi đã vận dụng và có hiệu quả trong công tác chủ nhiệm 3 năm qua ở các lớp của
khối 10, 11, 12. Tôi mạnh dạn viết lên ý kiến về đề tài của mình để đồng nghiệp
cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp BGH nhà trường, q
đồng nghiệp, để tơi có dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh
nghiệm hay. Trong phạm vi đề tài cịn mang nhiều tính chủ quan và khơng tránh
khỏi những thiếu sót, vì vậy tơi rất mong sự đóng góp chân thành của BGH nhà
trường và quý ng nghip.
Xin chân thành cảm ơn!
IV. xut , kiến nghị
Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của GVCN, nhà trường cần quan
tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm lớp.
Sở GD – ĐT nên mở lớp bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ công tác giáo viên
chủ nhiệm lớp.
Tổ chức cuộc thi GVCN giỏi cấp cơ sở và cấp sở.
Tân An, ngày 04 tháng 11 năm 2016
Người thực hiện
Bùi Thị Kiều Nhi

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiệm vụ GVCN trong điều lệ trường THPT theo quyết định số
07/2007/QĐ- Bộ GD - ĐT ngày 02/04/2007 của bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo.
2. Một số bài viết tham luận trên internet về công tác chủ nhiệm.
3. Sổ chủ nhiệm các năm học 2013 - 2014; 2014 - 2015; 2015 - 2016.
4. Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp trong trường THPT số 2

Nghĩa Hành và trường bạn.

20


MỤC LỤC
TT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10

Nội dung
Lý do chọn đề tài
Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài
Giới hạn đề tài
Kế hoạch thực hiện
Cơ sở lí luận
Cơ sở thực tiển
Thực trạng và những mâu thuẫn
Biện pháp giải quyết thực trạng vấn đề
Hiệu quả áp dụng
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm


Trang
4
4
5
5
6
6
7
7
18
19

11

Khả năng áp dụng

19

12

Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển

19
21


13

Đề xuất , kiến nghị


19

08
09

Tài liệu tham khảo
Mục lục

21
22

22



×