Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) khai thác và sử dụng tư liệu các di tích lịch sử của huyện anh sơn vào dạy học lịch sử trong chương trình trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.2 MB, 62 trang )

SỞ GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO NGHỆ AN

TRƯỜNG THPT ANH SƠN 3
*

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TƯ LIỆU CÁC DI TÍCH

LỊCH SỬ CỦA HUYỆN ANH SƠN VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

Mơn: Lịch sử
Tác giả: Bùi Thị Lanh
Tổ: Xã hội


Số điện thoại: 036.336.0125
Anh Sơn, tháng 3 năm 2020

SỞ GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO NGHỆ AN

*

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TƯ LIỆU CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ CỦA HUYỆN ANH SƠN VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


Môn: Lịch Sử


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

3. Phạm vi nghiên cứu

2

4. Đối tượng nghiên cứu

2

PHẦN II. NỘI DUNG

3

Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


3

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

3

1.Khái niệm tư liệu lịch sử địa phương

3

1.1. Khái niệm tư liệu lịch sử địa phương

3

1.2. Vai trò sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch
sử

3

2.3. Các nguồn tư liệu

4

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

5

1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng các nguồn tư liệu


5

1.1. Ưu điểm

5

1.2. Hạn chế

5

1.3. Nguyên nhân của những hạn chế

5

Chương II. PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG

6

I. Vài nét huyện Anh Sơn

6

II. Phương pháp khai thác và sử dụng tư liệu

8


1. Tìm tịi và tập hợp tư liệu

8


2. Các loại hình di tích

8

3. Tổng quan di tích

8

4. Nội dung tư liệu các di tích tiêu biểu

13

4.1. Di tích thời kỳ nguyên thủy

13

4.2. Di tích lịch sử liên quan đến thời kỳ nhà Lý

16

4.3. Di tích lịch sử liên quan đến thời kỳ nhà Trần

17

4.4. Di tích lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

18

4.5. Di tích lịch sử liên quan đến thời kỳ chống Pháp


22

4.6. Di tích lịch sử liên quan đến thời kỳ chống Mỹ

25

5. Cách thức khai thác và sử dụng tư liệu các di tích

28

5.1. Hình thức sử dụng tư liệu các di tích

28

5.2. Sử dụng tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu của huyện Anh
Sơn

30

5.2.1. Sử dụng tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu của huyện
Anh Sơn vào dạy học một số bài

30

5.2.2. Sử dụng tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu của huyện
Anh Sơn vào dạy lịch sử đia phương với chủ đề: Lịch sử Nghệ
An qua các di tích

35


III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

37

1. Mục đích thực nghiệm

37

2. Nội dung thực nghiệm

37

3. Phương pháp thực nghiệm

37

4. Giáo án thực nghiệm

37

5. Kết quả thực nghiệm

37

PHẦN III. KẾT LUẬN

39

1. Những kết quả đạt được


39

2. Một số kinh nghiệm

39

3. Kết luận

40

4. Kiến nghị

41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

42


PHỤ LỤC

43


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta luôn tự hào về những trang sử
hào hùng, vẻ vang của những chiến công hiển hách, những truyền thống lao
động sản xuất cần cù chịu khó, sáng tạo, những giá trị văn hóa tốt đẹp, những

cơng trình kiến trúc, những di tích lịch sử lâu đời. Tất cả những yếu tố đó kết
thành những giá trị lịch sử mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta mới có được.
Trong dịng chảy lịch sử ấy có sự kết tinh giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân
tộc.
Vai trò và mối quan hệ của lịch sử địa phương đối với lịch sử dân tộc là
đặc biệt quan trọng, giữa lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương có mối quan hệ
khơng thể tách rời, lịch sử địa phương chính là một bộ phận kết thành lịch sử
dân tộc nên những vấn đề lịch sử địa phương là những sự kiện cụ thể sinh động
minh họa cho lịch sử dân tộc.
Dạy học lịch sử địa phương có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành
nhiệm vụ giáo dục và phát triển bộ mơn, giáo dục thế hệ trẻ lịng u nước, niềm
tự hào dân tộc, kính trọng và biết ơn sâu sắc những cơng lao của cha ơng và từ
đó biết gìn giữ phát huy những thành tựu của lịch sử địa phương cũng như lịch
sử dân tộc. Trong đó việc khai thác và sử dụng các di tích lịch sử địa phương
vào dạy học ở trường trung học phổ thông là rất cần thiết nhằm giúp học sinh có
điều kiện tìm hiểu, khám phá những cơng trình lịch sử - văn hóa ngay xung
quynh các em. Từ đó giúp các em biết quý trọng, gìn giữ và bảo tồn những giá
trị lịch sử - văn hóa mà cha ơng ta đã tạo dựng nên.
Tuy nhiên về thực trạng việc khai thác và sử dụng các di tích lịch sử địa
phương vào dạy học ở trường trung học phổ thông hiện nay cịn nhiều hạn chế.
Giáo viên có dạy chương trình lịch sử địa phương theo tài liệu nội bộ đã hiện
hành nhưng chủ yếu cịn sơ lược, bó hẹp, chưa chịu khó sưu tầm tài liệu, chưa
mở rộng và lồng ghép, liên hệ những tư liệu lịch sử tại địa phương gần nhất –
nơi các em đang sinh sống và học tập, chính vì thế nên học sinh rất lúng túng,
mơ hồ khi giáo viên hỏi đến những vấn đề liên quan đến lịch sử địa phương như
tên đất, tên người, các địa danh, các di tích lịch sử tiêu biểu của quê hương
Xuất phát từ những những trăn trở trong q trình giảng dạy và những lí
do trên, tơi quyết định chọn vấn đề “ Khai thác và sử dụng tư liệu các di tích
lịch sử của huyện Anh Sơn vào dạy học lịch sử trong chương trình trung
học phổ thông” để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.

- Tính mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Đây là đề tài hoàn toàn mới trong việc khai thác và sử dụng các di tích
lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc. Những tư liệu về các di tích đề
1


cập trong đề tài không chỉ bổ trợ cho các giờ học lịch sử đia phương thêm phong
phú sinh động giúp học sinh tiếp cân gần mà còn phục vụ cho các giờ học lịch
sử dân tộc đạt hiệu quả tốt, đồng thời góp phần vào sự đam mê nghiên cứu lịch
sử địa phương nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
Đề tài đem đến cho học sinh tại trường trung học phổ thơng Anh Sơn 3
nói riêng và học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Anh
Sơn nói chung thấy được những giá trị nổi bật của các di tích lịch sử của huyện
nhà. Từ đó giáo dục các em biết trân quý , bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp
mà cha ông ta đã để lại.
Qua áp dụng đề tài trên sẽ giúp học sinh tính tích cực, chủ đơng, sáng tạo,
đam mê tìm hiểu những kiến thức lịch sử bổ ích, tham gia trải nghiệm sáng tạo,
viết bài tìm hiểu, qua đó phát huy phẩm chất năng lực người học.
- Tính hiệu quả của sáng kiến:
+ Đối giáo viên: bộ mơn trong huyện có thể áp dụng vào dạy học lịch sử ở một
số bài trong chương trình lịch sử địa phương và lịch sử dân dân tộc. Từ đó khơi
dậy khả năng tìm hiểu những tư liệu lịch sử địa phương thuộc lĩnh vực này hoặc
lĩnh vực khác để phục vụ day học.
+ Đối với học sinh: Qua bài học có khai thác và sử dụng các di tích lịch sử địa
phương, học sinh được tiếp thu và mở rộng thêm kiến thức mới, có nhiều hiểu
biết về lịch sử địa phương nơi các em sinh sống và học tập, đồng thời phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng của học để hoàn thành tốt hơn về nhiệm vụ
học tập của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu của huyện Anh Sơn

- Nghiên cứu chương trình lịch sử THPT
- Nghiên cứu những lài liệu phương pháp dạy học lịch sử liên quan đến đề tài
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung khai thac và sử dụng tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu
của huyện Anh Sơn vào dạy học lồng ghép vào một số bài trong chương trình và
sử dụng vào dạy chuyên đề lịch sử địa phương: Lịch sử Nghệ An qua các di tích.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được áp dụng cho học sinh trường THPT Anh Sơn 3 và học sinh
các trường THPT trên địa bàn huyện nhà.

2


PHẦN II. NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm lịch sử địa phương và vai trò của việc sử dụng di tích lịch sử
địa phương trong dạy học
1.1. Khái niệm tư liệu lịch sử địa phương
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc, có mối quan
hệ mật thiết với lịch sử dân tộc, bất cứ một sự kiện lich sử nào của dân tộc đều
mang tính địa phương,vì nó diễn ra ở một địa phương cụ thể với không gian và
thời gian nhất định. Đồng thời tri thức lịch sử địa phương là một bộ phận hợp
thành, là biểu hiện cụ thể, phong phú, sinh động của lịch sử dân tộc. Nó chứng
minh sự phát triển hợp quy luật của mỗi địa phương trong lịch sử của dân tộc.
Hiểu lịch sử địa phương chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh,
vùng, miền thể hiện qua nhiều lĩnh vực: Lao động sản xuất, sự nghiệp chiến đấu
bảo vệ quê hương, những di sản văn hóa vật chất, tinh thần…. Tuy nhiên tùy vào
tiến trình lịch sử của từng địa phương nó tạo dựng những giá trị, những tri thức
lịch sử ở những mức độ khác nhau của từng địa phương.

Lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể của lịch sử dân tộc, nghiên cứu và
học tập lịch sử địa phương là một trong những biện pháp tích cực nhằm cụ thể
hố những kiến thức chung của lịch sử dân tộc dễ dàng hơn. Mặt khác khi được
học tập và nghiên cứu những tri thức lịch sử địa phương các em sẽ hiểu sâu sắc
về những truyền thống tốt đẹp của cha ông đã hun đúc từ xa xưa tại chính nơi
mà bản thân các em đang hàng ngày sinh sống, lao động và học tập. Từ đó giáo
dục các em biết trân quý những gì cha ơng đã tạo dựng nên, bồi dưỡng thêm
lòng yêu quê hương, sự cố gắng trong lao động, học tập để góp phần xây dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp.
1.2. Vai trò của việc sử dụng tư liệu các di tích lịch sử địa phương trong dạy
học lịch sử
Tư liệu lịch sử địa phương có vai trị rất quan trọng góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục ở trường phổ thơng một cách tồn diện, giúp học sinh có sự
nhìn nhận từ vấn đề cụ thể đến khái quát, thấy được sự phát triển của lịch sử địa
phương cũng như lịch sử dân tộc vô cùng phong phú đa dạng. đồng thời các
nguồn tư liệu giúp học sinh hiểu sâu sắc những sự kiện lịch sử quan trọng . Bởi
tư liệu lịch sử địa phương là những sự kiện cụ thể nhằm minh họa cho lịch sử
dân tộc. Trong đó, việc sử dụng tư liệu về các di tích lịch sử địa phương giúp các
em lĩnh hội khơng chỉ những sự kiện lịch sử qua các di tích mà cịn được những
giá trị văn hóa tốt đẹp mà các em có thể tận mắt nhìn thấy.
3


Tư liệu lịch sử địa phương cũng góp phần quan trọng trong việc giáo dục
các em lòng biết ơn đối với những người đi trước đã góp cơng dựng nước và giữ
nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm của bản thân đối với quê hương
đất nước.
Từ đó chúng ta thấy rằng việc sử dụng tư liệu về các lịch sử địa phương
vào dạy học lịch sử dân tộc ở trường trung học phổ thông là rất cần thiết nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn, khơi dậy cho các em niềm đam mê

nghiên cứu, khám phá, học tập mơn lịch sử một cách tích cực và toàn diện.
1.3. Các nguồn tư liệu của lịch sử địa phương
Lịch sử là một trong những lĩnh vực khoa học có nguồn tư liệu rất phong
phú và đa dàng, tùy vào nội dung và tính chất mà nó thường được phân thành
các loại tư liệu sau:
* Tư liệu thành văn: Đây là nguồn tư liệu có vai trị đặc biệt quan trọng trong
các nguồn tư liệu lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói riêng. Nguồn tài
liệu này cung cấp cho chúng ta những sự kiện, những vấn đề lịch sử chính xác,
tồn diện các lĩnh vực ở địa phương đã từng diễn ra
* Tư liệu truyền miệng: Là tư liệu bao gồm những mẩu chuyện lịch sử, ca dao,
tục ngữ, truyện cổ tích, những câu chuyện do các nhân chứng kể lại….
* Tư liệu ngôn ngữ học: Bao gồm các loại:
- Địa danh học: Là tên gọi của một vùng đất nhất định, giúp chúng ta nguồn gốc
sự phát triển của làng, xóm, nghề nghiệp, văn hóa của nhân dân
- Phương ngơn học: Là tiếng nói của cư dân địa phương ở một vùng, miền, làng,
xã nào đó mang sắc thái riêng
* Tư liệu hiện vật: Bao gồm những di vật khảo cổ đã được khai quật, các cơng
trình kiến trúc: Đình, đền,chùa, miếu , tượng…, những hiện vật lịch sử: cơng cụ
lao đơng, vũ khí chiến đấu, những di tích tự nhiên liên quan đến sự kiên lịch sử.
* Tư liệu tranh ảnh lịch sử: Thường được chụp ngay lúc sự kiện diễn ra. Đối
với những sự kiện đã diễn ra khá xa với thời đại ngày nay thì những tranh ảnh
lịch sử ấy là vơ cùng q hiếm. Tranh ảnh lịch sử có vai trị rất quan trọng trong
quá trình dạy học nhằm minh họa cụ thể làm cho bài học thêm sinh động, tạo
được tính tích cực, hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.
* Tư liệu tranh ảnh lịch sử: Tư liệu này thường được chụp ngay lúc sự kiện
diễn ra. Trong dạy học lịch sử nguồn tư liệu này rất quan trọng nhằm minh họa
những sự kiện lịch sử làm cho bài học sinh động, giúp học sinh hiểu cụ thể các
sự liện liên quan, tạo sự chú ý, hứng thú cho học sinh trong từng bài học. Tuy
nhiên khi sử dụng tranh ảnh lịch sử phải xác minh đúng nguồn gốc, đảm bảo
tính chính xác phản đúng sự kiện liên quan bài học, giáo viên phải nghiên cứu

4


chọn lọc và sử dụng đúng mục đích của bài học, tránh ôm đồm, dàn trải về mặt
kiến thức.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng việc khai thác sử dụng tư liệu lịch sử địa phương nói chung
và các di tích tích lịch sử nói riêng trong dạy học lịch sử ở trường trung học
phổ thơng
Để nắm rõ tình hình thực trạng việc khai thác và sử dụng lịch sử địa
phương vào dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, tôi đã tiến hành khảo
sát, điều tra thực tế một số trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Anh
Sơn. Qua điều tra cho thấy:
1.1.Về ưu điểm:
- Giáo viên có đầy đủ tài liệu Lịch sử địa phương Nghệ An và đã sử vào giảng
dạy các chuyên đề theo đúng phân phối chương trinh lưu hành nội bộ
- Một số giáo viên có liên hệ những kiến thức lịch sử địa phương trong các bài
dạy nhưng chưa nhiều
- Học sinh về cơ bản đã có tài liệu lịch sử địa phương Nghệ An và được học
trong phân phối chương trình
1.2. Về hạn chế
- Hầu hết các giáo viên mới chỉ sử dụng tài liệu lịch sử địa phương Nghệ An vào
giảng dạy phần Lịch sử địa phương nhưng chưa sử dụng tư liệu lịch sử địa
phương của huyện nhà vào lồng ghép, liên hệ các bài dạy trong chương trình và
phần lịch sử địa phương, nếu có thì chỉ mới liên hệ qua loa một số mẫu chuyện
vụn vặt,chắp nối
- Học sinh biết đến lịch sử địa phương trên địa bàn huyện Anh Sơn cịn rất ít,
kiến thức cịn mập mờ thiếu tính chính xác.
1.3. Ngun nhân của những hạn chế trên:
- Tài liệu lịch sử địa phương được sưu tầm, lưu giữ trong các trường phổ thơng

trên địa bàn cịn rất nghèo nàn
- Giáo viên chưa chủ động, chịu khó tự tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu tư liệu
lịch sử địa phương, chưa thấy được tầm quan trọng của lịch sử địa phương trong
việc nâng cao giáo dục chất lương bộ mà chủ yếu tập trung đầu tư vào những bài
học gắn liền với các kỳ thi như thi học sinh giỏi, thi trung học phổ thơng quốc
gia nên cịn xem nhẹ, thiếu đầu tư đích đáng cho nội dung này.
- Từ đó dẫn đến ý thức học tập phần lịch sử địa phương của học sinh cũng mang
tính đối phó, hình thức, chưa đam mê và chưa có nhu cầu tìm hiểu những giá trị
lịch sử địa phương.
5


Từ những thực trạng trên đặt ra cho chúng ta những câu hỏi lớn: Làm thế
nào để học sinh có những hiểu biết sâu sắc đầy đủ về kiến thức lịch sử địa
phương trên địa bàn huyện nhà? Làm sao để khơi dậy tinh thần học tập lịch sử
địa phương một cách chủ động, tích cực và và khơng xem nhẹ, đồng thời giáo
viên cũng phải làm sao để chủ động thiết kế các bài dạy có liên quan kiến thức
lịch sử địa phương được nhuần nhuyễn, sáng tạo làm cho bài dạy sinh đơng,sâu
sắc và tồn diện.
Để khắc phục những hạn chế trên, giải quyết những vấn đề đặt ra và cũng
là những trăn trở của bản thân tôi trong những bài giảng trên lớp của nhiều năm
qua, tôi xác định việc khai thác và sử dụng các tư liệu lịch sử địa phương vào
dạy học ở trường trung học phổ thông là rất cần thiết, nhất là khai thác và sử
dụng tư liệu các di tích lịch sử tiêu biểu trên đia bàn huyện nhà.
Chương II. PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TƯ LIỆU
CÁC DI TÍCH TIÊU BIỂU CỦA HUYỆN ANH SƠN VÀO DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
I. VÀI NÉT VỀ HUYỆN ANH SƠN
Anh Sơn là vùng đất nước biếc, non xanh kỳ thú phía Tây xứ Nghệ, cách
thành phố Vinh hơn 100km về phía Tây. Đây là một huyện miền núi đất đai khá

rộng, trải dọc theo đôi bờ sông Lam và Quốc lộ 7, phía Đơng giáp với huyện
đồng bằng Đơ Lương, phía Bắc giáp với huyện miền núi Tân Kỳ, phía Tây giáp
với huyện vùng cao Con Cng và nước bạn Lào, phía Nam giáp với huyện
miền núi Thanh Chương.
Xa xưa trong thời kỳ Bắc thuộc Anh Sơn có tên là Đơ Giao. Thời Hán
thuộc huyện Hàm Hoan. Thời Đông Ngô thuộc huyện Đơ Giao. Thời thuộc
Đường có thể là huyện Hồi Hoan. Thời tự chủ, có tên là Hoan Đường và Thạch
Đường. Các sử gia nhận định Hoan Đường và Thịnh Đường là tiền thân của
danh xưng Nam Đường, cịn Đơ Giao là tiền thân của Anh Đô. Thời Nguyễn,
niên hiệu Gia Long năm đầu đổi lại là phủ Anh Đô, kiêm lý huyện Hưng
Nguyên, thống hạt huyện Nam Đàn. Niên hiệu Gia Long (năm thứ 12) thì lại
kiêm lý huyện Nam Đàn và thống hạt huyện Hưng Nguyên. Niên hiệu Minh
Mệnh thứ 21 (1840), nhà Nguyễn cắt 4 tổng của huyện Nam Đường là tổng
Lạng Điền, tổng Đô Lương, tổng Bạch Hà, tổng Thuần Trung và một tổng phía
Tây của huyện là tổng Đặng Sơn lập huyện Lương Sơn do phủ Anh Sơn kiêm lý.
Lúc này phủ Anh Sơn bao gồm 3 huyện: Thanh Chương, Hưng Nguyên, Chân
Lộc và kiêm lý 2 huyện Nam Đàn và Lương Sơn. Đến đời Thành Thái (1889)
huyện Lương Sơn được gọi là phủ Anh Sơn, tách các huyện khác ra. Đến niên
hiệu Tự Đức thứ 3, đổi kiêm lý hai huyện Lương Sơn và Nam Đàn. Niên hiệu
Thành Thái thứ 10, đổi huyện Nam Đàn làm thống hạt, tách huyện Hưng
Nguyên đặt làm phủ riêng và đưa Nghi Lộc thuộc vào phủ này.
6


Thời Pháp thuộc, theo thể chể lúc bấy giờ, phủ trở thành một đơn vị tương
đương với huyện. Đến năm 1946, phủ Anh Sơn lúc này bao gồm 2 huyện Anh
Sơn và Đơ Lương.

Hình 01: Bản đồ Huyện Anh Sơn
Ngày 19/4/1963, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 52/QĐ-TTg chia

huyện Anh Sơn thành hai huyện Anh Sơn và Đô Lương. Lúc này Anh Sơn cắt
một phần về phía Đơng thành huyện Đơ Lương. Phần cịn lại từ Gay đến Tam
Sơn nằm 2 bên sông Lam là đất hai tổng Lãng Điền và Đặng Sơn làm huyện
Anh Sơn như ngày nay.
Trải qua nhiều lần chia tách, danh xưng có thể khác nhau nhưng con người
và dải đất Anh Sơn vẫn chất chứa trong mình sự hồn hậu, đằm thắm tư chất xứ
Nghệ. Đó là tinh thần cố kết cộng đồng để phòng chống thiên tai và chống trả lại
kẻ thù xâm lược; là nghĩa tình đằm thắm, tắt lửa tối đèn có nhau, “hạt muối cắn
đơi, cọng rau xẻ nửa”, “thương người như thể thương thân”; tinh thần hiếu học,
ham làm, biết vượt lên gian khổ, khó khăn, thương đau để xây dựng quê hương,
họ tộc, gia đình. Anh Sơn là vùng đất với phong tục trọng hậu, nếp sống giản dị,
trân trọng quá khứ để hướng tới tương lai. Và cũng vì thế lịch sử hành trình đi
qua giải đất này là lịch sử của những bài ca lao động chế ngự và làm chủ thiên
nhiên, là bài ca chiến đấu “lấy ít thắng nhiều”, “lấy yếu thắng mạnh”, lấy thiên
hiểm trời ban để kẻ thù bạt vía kinh hồn khi nhắc đến tên.

7


Truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng của vùng đất Anh Sơn đã
được tô thắm, rạng ngời hơn trong thời đại Hồ Chí Minh. Và cũng vì thế cái tên
Anh Sơn đã trở thành miền quê để nhớ để thương trong lòng bạn bè cả nước và
quốc tế. Từ đó đến nay huyện Anh Sơn đã trải qua quá trình lao động, chiến
đấu , xây dựng và phát triển mạnh mẽ. Trong q trình ấy, hịa chung với dịng
chảy lịch sử dân tộc, Huyện Anh Sơn có nhiều sự kiện lịch sử nổi bật đặc biệt có
nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với sự ra đời của các di tích lịch sử của huyện nhà
II. PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TƯ LIỆU CÁC DI TÍCH
TIÊU BIỂU CỦA HUYỆN ANH SƠN VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ THPT
1. Tìm tịi tập hợp tư liệu
Việc tìm tịi và tập hợp tư liệu là vấn đề quan trọng đầu tiên sau khi bản

thân đã có ý tưởng xây dựng đề tài. Vấn đề này phải trải qua quá trình tìm tòi và
tập hợp qua nhiều nguồn tư liệu và nhiều kênh thơng tin, bởi chưa có một tài
liệu nào trình bày đầy đủ và tồn diện về các di tích trên địa bàn huyện Anh Sơn.
Trong qua trình tìm tịi, tập hợp tư liệu về các di tích tiêu biểu trên địa bàn huyện
nhà, tôi tiến hành khai thác qua: Các nguồn tư liệu đã được thẩm định của Tỉnh,
của huyện, tìm hiểu thực tế tại địa phương có di tích, tìm hiểu qua những mẩu
chuyện lịch sử, những tài liệu thơng sử có liên quan đến đề tài.
Về cơ bản gồm có các nguồn tư liệu sau:
- Tư liệu thành văn
- Tư liệu truyền miệng
- Tư liệu hiện vật
- Tư liệu tranh ảnh lịch sử
Sau khi tập hợp các nguồn tư liệu về các di tích lịch sử têu biểu trên địa
bàn của Huyện, tôi đã tổng hợp và lồng ghép lại với nhau. Có những di tích có
đầy đủ các nguồn tư liệu nhưng cũng có những di tích chỉ có một số loại nguồn
tư liệu được nêu ở trên
2. Về loại hình di tích:
- Loại hình di tích khảo cổ học
- Loại hình di tích lịch sử
- Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật
- Loại hình di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật
- Loại hình di tích lịch sử - danh thắng
- Loại hình di tích danh thắng
3. Tổng quan di tích của tỉnh Nghệ An và huyện Anh Sơn
8


Theo số liệu thống kê năm 2018:
- Toàn Tỉnh Nghệ An có: 2.602 di tích, trong đó:
+ Loại hình di tích khảo cổ học: 27

+ Loại hình di tích lịch sử: 2.488
+ Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật: 18
+ Loại hình di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật: 08
+ Loại hình di tích lịch sử - danh thắng:
+ Loại hình di tích danh thắng: 57
- Riêng Huyện Anh Sơn có tổng số:123 di tích, được phân ra các danh mục sau:
+. Di tích danh thắng
T
T
1

2

3

Tên di tích

Địa điểm

Nội dung

Tường Sơn

Thắng cảnh Lèn Bút - Ao Sen là
biểu tương cho tinh thần hiếu học
của người dân nơi đây.

Lèn Kim Nhan

Hội Sơn


Núi Kim Nhan cao 1340 km, mạch
của nó chảy từ trong dãy núi lớn
lại, đến đó đột nhiên nổi lên một
ngọn, đầu nhọn đẹp,cao ngất trời
trông như một búp măng mà xung
quanh lại bao bọc bởi các núi nhỏ,
trơng giống như một đóa sen, trên
cùng là một hang đá, đến gần trơng
như miệng cá.

Đị Rồng Bến Ngự

Tương truyền: Sau khi hạ thành Trà
Lân, nghĩa quân Lam Sơn do Lê
Lợi dẫn đầu tiến công tiêu diệt
quân Minh ở Bồ Aỉ và Khả Lưu
Tường Sơn. Bằng cách vượt sông tại địa điểm
này (vùng nước xoáy vực sâu) để
quan sát địch, được gọi là Bến
Ngự, chiếc đò chở Lê Lợi qua sơng
được gọi là đị rồng.

Lèn Bút – Ao Sen

9


+ Di chỉ khảo cổ
T

T

1

Tên di tích

Hang Đồng Trương

Địa điểm

Hội Sơn

Nội dung
Nơi cư trú của loài người thời
nguyên thủy trên vùng đất Anh
Sơn,có rất nhiều hiện vật thuộc giai
đoạn cuối cuả nền văn hóa Hịa
Bình

+ Di tích cách mạng
T
T

Tên di tích

Địa điểm

Nội dung
Nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên tại
Anh Sơn


1

Hiệu Yên Xuân

Lĩnh Sơn

2

Đình Yên Xuân

Lĩnh Sơn

3

Đình Phú Lĩnh

Lĩnh Sơn

4

Đình Vĩnh Yên

Lĩnh Sơn

5

Đình Đà Thọ

Lĩnh Sơn


6

Đình Tào Điền

Tào Sơn

7

Đình Hữu Lệ

Tào Sơn

8

Đình Yên Phúc

Phúc Sơn

9

Đình Trung

Đức Sơn

10

Đình xã Cây Gạo

Vĩnh Sơn


11

Đình Cẩm Vọng

Lạng Sơn

12

Đình Thượng

13

Nghĩa trang Liệt sĩ Thị Trấn
Việt Lào

Nơi thờ thành hoàng Làng và là nơi
quần chúng nhân dân tập trung hội họp,
đặc biệt, đây là những địa điểm tập
trung lực lượng tham gia biểu tình
trong phong trào cách mạng 30 – 31

Thạch Sơn
Được xây dựng năm 1976, nơi yên
nghỉ của các liệt sỹ quân tình nguyện
Việt Nam chiến đấu tại chiến trường
Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Hiện tại nghĩa trang có
khoảng gàn 11.000 ngôi mộ, trở thành
nghĩa trang quốc tế Việt – Lào lớn nhất,

là bieeur tương cao đẹp cho tinh thần
10


đoàn kết Việt – Lào.
14

Hang Lèn Thung

Phúc Sơn

15

Hang Thung Ổi

Phúc Sơn

16

Hang Đồng Tu

Phúc Sơn

17

Hang Địa Cận

Phúc Sơn

18


Hang 247

Hội Sơn

19

Đường mòn Hồ
Khai Sơn
Chí Minh

20

Nhà thờ họ Đặng
Phúc Sơn


21

Sân bay Dừa

Những địa danh gắn liền với cuộc đấu
tranh chống Mỹ trên đất Anh Sơn

Tường Sơn

+ Di tích lịch sử văn hóa
T
T


Tên di tích

Địa điểm

Nội dung

Đền Thánh Mẫu

Đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh theo tín
ngưỡng thờ Mẫu của nhân dân Việt
Xóm 1, xã
Nam. Hiện nay di vật cịn lại chỉ có các
Lĩnh Sơn
sắc phong thời Nguyễn và 1 am thờ
nhỏ

Đền Chùa

Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn theo tín
ngưỡng thờ Mẫu của nhân dân Việt
Xóm 6, xã
Nam. Hiện nay di vật cịn lại chỉ có các
Đỉnh Sơn
sắc phong thời Nguyễn và 1 am thờ
nhỏ

Đền Rọng Tớm

Thờ Ơng Võ Nhuệ - người trong lúc đi
Xóm 2, xã làm ăn bị Hổ vồ, mối đùn lên thành

Lĩnh Sơn mộ, nhân dân coi là điềm thiêng lập
đền thờ

4

Tĩnh Trần bảng

Lĩnh Sơn

Là một am thờ nhỏ trong khuôn viên
Họ Trần, Tĩnh thờ thánh mẫu Liễu
Hạnh

5

Đền Cả

Tào Sơn

1

2

3

Nơi tập trung các sắc phong của các
đền (đã bị phá hủy) trên địa bà xã Tào
11



Sơn

Đền Sát hải đại
vương Hoàng Tá Tào Sơn
Thốn

Thờ Sát Hải Đại Vương Hồng Tá
Thốn. Người có tư chất thơng minh,
mưu trí và có tài bơi lội thao lược, có
cơng rất lớn trong việc đánh đuổi giặc
Nguyên ra khỏi bờ cõi. Nhà vua phong
cho ơng là « Sát Hải Đại Vương ».
Nhân dân nhớ cơng ơn ơng đã lập đền
thờ. Ơng là một vị thần thường hộ
mệnh cho ngư dân những khi sóng gió,
giặc giã, cứ giúp dân khi dân gặp hoạn
nạn, vất vả. Các làng ở ven biển, ở cửa
sông, lạch có đền thờ ngài Hồng Tá
Thốn

7

Đền Cửa Lũy

Hoa Sơn

Thờ Thánh mẫu Lũy Sơn – là vị nữ y
luôn chăm lo sức khỏe cho nghĩa quân
Lê Lợi


8

Đền Hồ Quý Ly

Xóm 11, Thờ 1 thầy giáo họ Hồ có cơng trừ
Đức Sơn
Thủy quái tại vùng trường học đóng

9

Đền Lý
Quang

Vĩnh Sơn

11

Đền Đạo Cao Đức
Ông

12

Đền Cố Hương

6

Nhật

Thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
Thờ thành hồng làng


Xóm
8,
Thờ Cố Hương – thành hồng làng
Bình Sơn

Thọ Sơn

Thờ Trương Công Hán – Một vị đầu
mục địa phương đã có cơng giúp Lê
Lợi trong cuộc chiến chống giặc ngoại
xâm

13

Đền Trương Hán

14

Đền Giáp Nhì

Thạch Sơn

15

Cửa Chùa

Thạch Sơn

16


Đền Nhà Bà

Cao Sơn

Thờ thành hoàng làng

17

Đền Rọng Mặt

Cao Sơn

Thờ thành hoàng làng

18

Đền Cam Lĩnh

Cao Sơn

Thờ thành hồng làng

Thích thạch lãm

12


19


Đền Đô Lượng

Thạch Sơn

Thờ bà chúa Nhâm – người liên lạc cho
vua Lê

+ Hệ thống nhà thờ họ
TT

Tên di tích

Địa điểm

Nội dung

1

Nhà thờ họ Lê Quốc

Tường Sơn

Nơi thờ tự của tổ tiên dịng họ

2

Nhà thờ họ Bùi Cơng

Tường Sơn


Nơi thờ tự của tổ tiên dịng họ

3

Nhà thờ họ Nguyễn
Vĩnh Sơn
Đình

Nơi thờ tự của tổ tiên dịng họ

4

Nhà thờ họ Tơ

Đức Sơn

Nơi thờ tự của tổ tiên dòng họ

5

Nhà thờ họ Nguyễn
Vĩnh Sơn
Hữu

Nơi thờ tự của tổ tiên dòng họ

6

Nhà thờ họ Phan


Nơi thờ tự của tổ tiên dòng họ

Lĩnh Sơn

4. Nội dung tư liệu về một số di tích tiêu biểu trên địa bàn huyện Anh Sơn
cần sử dụng vào các bài học lịch sử
Trong bảng danh mục trên, tôi đã tập trung nghiên cứu và chọn lọc một
số di tích tiêu biểu để khai thác và sử dụng vào dạy học lịch sử ở trường THPT
nhằm minh họa cụ thể những sự kiện nổi bật qua các thời kì từ nguyên thủy đến
hiện đại, phù hợp với thời lượng chương trình và phạm vi đề tài, tránh sự dàn
trải, ôm đồm về mặt kiến thức.
4.1. Di tích lịch sử thời nguyên thủy
* Di tích khảo cổ hang Đồng Trương
Hang Đồng Trương nằm dưới chân một núi đá vôi của hệ thống dãy lèn
Kim Nhan thuộc xã Hội Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, cách thành phố
Vinh 100km về phía Tây Nam, cách huyện lỵ Anh Sơn 4km về phía Tây.
Hang là nơi cư trú của người tiền sử thuộc văn hóa Hịa Bình (cách ngày
nay 1,5 vạn năm đến 2 vạn năm) và văn hóa Đơng Sơn (cách ngày nay 2,500
năm)1.
Căn cứ Thông tư 09/2011/TT – BVHTTDL ngày 14/7/2011 quy định về
nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng
cảnh.
Căn cứ kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích hang Đồng Trương, cho
thấy di tích hang Đồng Trương thuộc loại hình: Di tích Khảo cổ.
1 Theo “Hang Đồng Trương - Nghệ An: Kết quả khai quật và giá trị lịch sử” của PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, Bùi
Vinh - Viện Khảo Cổ Học Hà Nội - năm 2009 - trang 33.

13



Hang Lèn Đồng Trương là một địa điểm nằm cách quốc lộ 7 khoảng 70m,
phân bố dưới chân một núi đá vôi thuộc hệ thống dãy lèn Kim Nhan, nơi có
thung lũng Trà Lân – một địa danh lịch sử nổi tiếng gắn liền với chiến thắng
quân Minh thời Lê Lợi.
Vào tháng 4 năm 1998, người dân xã Hội Sơn phát hiện và nhặt được rìu
đá tại hang Đồng Trương và đã báo cáo với chính quyền các cấp. Bảo tàng tổng
hợp tỉnh Nghệ An cử cán bộ về thực địa, tiến hành khảo sát, thu lượm được 33
mảnh gốm thô, cứng, xương gốm pha cát trong lớp đất mặt. Từ đó, họ nhận định
rằng: “đây là một di chỉ cư trú của con người cuối thời đại đá mới”.
Để có cái nhìn chính xác hơn, Bảo tàng tổng hợp Nghệ An đề nghị Viện
Khảo cổ học giúp xác minh tính chất, niên đại và giá trị của di chỉ hang Đồng
Trương
Tháng 6 năm 2000, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng tổng hợp
Nghệ An tiến hành thám sát.

Hình 02: Hang Đồng Trương
Kết quả đào thám sát 7m2 ở hang Đồng Trương, di chỉ này có tầng văn
hóa dày 1.0 - 1,2m, cấu tạo chủ yếu là đất sét, vôi, vỏ ốc, than tro bếp, xương
răng động vật. Trong độ sâu từ lớp mặt đến 0,4m tầng văn hóa bị xáo trộn, thu
được cơng cụ đá ghè đẽo, đồ đất nung, di vật đồng và gốm sứ hiện đại. Từ độ
sâu 0,5m trở xuống tầng văn hóa cịn ngun vẹn. Trong lớp này khơng có gốm,
đồ đồng, chủ yếu tìm thấy cơng cụ cuội ghè đẽo mang đặc điểm nền văn hóa
Hịa Bình.

14


Cuộc khai quật được tiến hành từ ngày 10 tháng 02 đến ngày 12 tháng 3
năm 2004. Trong đợt khai quật này do Viện Khảo cổ học Việt Nam chủ trì đã thu
được các loại di vật gồm có: đồ đá: 1.176 di vật đá ; đồ gốm: 4.457 mảnh gốm;

đồ đất nung: 16 dọi xe chỉ; đồ đồng: 24 tiêu bản (trong đó 16 di vật đồng mang
đặc trưng đồ đồng văn hóa Đơng Sơn .Ngồi các di vật trên, trong hố khai quật
di chỉ hang Đồng Trương còn phát hiện được 05 bếp lửa, 10 mộ táng và một số
tàn tích xương răng động vật và vỏ nhuyễn thể thuộc lớp văn hóa Hịa Bình.
Tháng 6 năm 2006, PGS.TS Nguyễn Lân Cường - Hội Khảo cổ học Việt Nam
và Ban quản lý Di tích - Danh thắng tỉnh Nghệ An về di chỉ hang Đồng Trương
đào phúc tra để thu thập những di cốt người khai quật trước đó. Trong đợt phúc
tra này cịn phát hiện thêm 02 ngơi mộ táng nữa.

Hình 03: Mộ táng được khai quật tại hang Đồng Trương

15


Hình 04: Di cốt người tại hang Đồng Trương
Như vậy, trong ba lần thám sát, khai quật và phúc tra di chỉ khảo cổ hang
Đồng Trương cho thấy: Đây là một địa điểm khảo cổ khá đặc biệt, bởi nó không
những là di chỉ khảo cổ thứ hai được phát hiện trên đất Nghệ An sau di chỉ khảo
cổ học Làng Vạc (nay là phường Nghĩa Hòa, thị xã Thái Hịa, tỉnh Nghệ An), có
chứa hai giai đoạn thuộc thời Đá cũ và thời Kim khí, mà cịn là di chỉ đầu tiên
phát hiện được vết tích các mộ táng thời Đá cũ. Những kết quả đó cho phép
chúng ta nghiên cứu chủ nhân của nền văn hóa xưa cũng như lịch sử hình thành,
phát triển và vai trị của vùng đất Nghệ An trong quá trình hình thành và phát
triển xã hội lồi người.
4.2. Di tích liên quan đến thời kỳ nhà Lý
* Đền Lý Nhật Quang
Đền thờ Lý Nhật Quang xã Vĩnh Sơn được phục dựng năm 2010 và khánh
thành ngày 01/6/2013.
Những dấu tích của Lý Nhật Quang (con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ) khi
ông vào làm Tri châu Nghệ An, khai khẩn vùng đất phương Nam Tổ quốc cho

thấy thời điểm lịch sử này là một cột mốc chói sáng trên hành trình xây dựng và
phát triển của Anh Sơn. Từ việc chọn Bạch Đường (nay là xã Bồi Sơn, huyện
Đô Lương) làm đường, khởi xướng hai con đường thượng đạo lên Kỳ Sơn và
con đường ra Thanh Hóa, từ việc chiêu dân, lập ấp của Lý Nhật Quang, từ việc
phát triển sản xuất nơng nghiệp,… đã cho thấy một tầm nhìn xa, rất xa của Lý
Nhật Quang với miền Tây xứ Nghệ và cũng khẳng định sự đóng góp và lợi thế
của địa bàn Anh Sơn với việc mở mang biên thùy phía Tây Tổ quốc. Trong
phịng thủ quốc gia ở phía Tây xứ Nghệ của quốc gia, Lý Nhật Quang đã chọn
Anh Sơn làm vùng đất “tiến có thế cơng, lùi có thế thủ”. Sự linh ứng của vùng
đất còn lưu dấu trong câu chuyện truyền ngôn: Một lần giặc Ai Lao sang quấy
nhiễu miền Tây, Lý Nhật Quang đem quân từ Bạch Dương (Đô Lương) lên diệt
giặc. Qua xã Lạng Điền thì đã tối, ngài lệnh cho quân sĩ dừng lại hạ trại. Quá
nửa đêm một vị thần hiện lên báo mộng: Uy Minh vương đi lần này chưa đánh
giặc đã tan. Quả vậy, Lý Nhật Quang chưa động binh giặc đã tháo chạy. Khi trở
về Lý Nhật Quang tìm lại nơi mình đã nghỉ chân, hỏi thăm các già làng, Người
được biết vùng đất này có đền thờ Hồ Quý - một thanh niên trí dũng hơn người,
giàu lịng nhân ái đã qn mình xơng vào hang ổ của con “Giải hịm” đã thành
tinh ở vùng cửa sơng để cứu học trò trong làng. Giết chết được quái vật nhưng
Hồ Quý đã bị thương nặng và trút hơi thở cuối cùng nơi cửa sơng. Dân làng nhớ
ơn Hồ Q vì sự học của con em mà quên mình nên đã lập đền thờ. Hồ Quý linh
thiêng thường báo mộng khi có đại sự. Lý Nhật Quang vơ cùng cảm động đã
16


vào đền thắp hương, thấy đền còn sơ sài đã xuất thêm tiền để dân làng xây cất
đàng hoàng hơn. Ngồi đền có 2 con voi mẹp bằng đá to phủ phục nên dân làng
quen gọi đền này là đền Voi Mẹp.
Bi hùng, hào sảng là huyền thoại về cái chết của người anh hùng dân tộc,
người có cơng đầu mở mang bờ cõi Anh sơn. Huyền thoại rằng: Lý Nhật Quang
trong trận cuối cùng đánh giặc Lão Qua đã bị trọng thương. Tuy giặc đã chém

đầu Ngài nhưng Ngài vẫn tiếp tục đặt đầu mình lên cổ và ngồi vững vàng trên
lưng ngựa chạy về. Trung quân phải dừng lại Mộ Điền, Mạc Điền để ngài chữa
thương. Về đến Bạch Dương thì ngài qua đời. Thương nhớ người anh hùng dân
tộc đã có cơng khai sơn phá thạch, kiến ấp vùng đất này, nhân dân xã Mộ Điền
đã lập đền thờ ông và hàng năm ngày 6 tháng giêng làng khai hạ, ba giáp tổ
chức rước kiệu về đình làng, tổ chức cúng tế đến ngày 7 mới đưa về đền. Ngày
nay xã Vĩnh Sơn đã lập lại đền thờ Lý Nhật Quang to đẹp, đàng hoàng.
Hàng năm, nhân dân làng Thượng Thọ, xã Vĩnh Sơn tổ chức lễ hội tại đền
ngày 15 tháng 2 và rằm tháng 7 âm lịch.

Hình 05: Đền Lý Nhật Quang
4.3. Di tích liên quan đến Thời kỳ nhà Trần
* Đền thờ Sát Thái Đại Vương Hoàng Tá Thốn
Đền Sát Hải Đại Vương ở xã Tào Sơn là một ngơi đền có từ xưa nay
thuộc thụn 2, với kiến trúc trang nghiêm có chạm trổ, có ngựa, kiệu long đình,
súng thần cơ, chuỳ, văn bia…
Sát Hải Đại Vương là phong sắc của thực tên là Hoàng Tá Thốn, tên chữ
là Hoàng Minh, mỹ hiệu là Tô Đại Chiêu, sinh quán làng Vạn Phần, huyện Đông
17


Thành (nay Diễn Châu). Trú quán thôn Vạn Tràng (nay xã Long Thành, huyện
Yên Thành). Mẹ người họ Trương ở làng Lý Trai (nay là xã Diễn Kỷ Diễn
Châu). Cha không rõ là ai.
Chuyện kể rằng bà mẹ ra sông ghánh nước. Bà bống thấy hai con trâu bạc,
từ dưới sông hùng hổ đi lên và lao vào húc nhau. Chúng đuổi nhau tới gần chỗ
bà. Bà dùng đòn ghánh đuổi hai con trâu, tự nhiên hai con trâu biến mất. Bà nhìn
thấy trên đầu địn ghánh có dính một chiếc lông trâu. Về nhà bà thấy trong người
khác lạ và bà mang thai. Đủ tháng, đủ ngày bà sinh nở một cậu bé khôi ngô.
Cậu bé được đặt tên là Hoàng Tá Thốn. Cậu lớn nhanh, sức khoẻ lạ

thường, khơng ai vật nổi. Đặc biệt cậu có tài bơi lội, tỏ ra có tri xảo hơn người.
Lúc Hồng Tá Thốn vừa đến tuổi trưởng thành, cũng là lúc nhà Nguyên
xâm lược nước ta. Hoàng Tá Thốn lên đường nhập ngũ. Được Trần Hưng Đạo
tin dùng, cho làm Nội thư gia, giúp việc binh thư và luyện tập quân đội, được
giao chỉ huy chiến thuyền trong trận đánh lớn ở trên sông Bạch Đằng (1228),
ông đã dùng kế dục thuyền giặc và thắng lớn.
Khi xét công khen thưởng nhà vua phong là “Sát hải đại Tướng quân”.Sau
khi ông mất, nhà vua phong tặng “ Trung dũng dực bảo trung hưng, hộ quốc tỷ
dân, Sát hải đại tướng quan thiên Bồng ngun sối chi thần”.Nhân dân nhiều
nơi lập đền thờ ơng, Riềng đền thờ tại xã Tào Sơn được lập nhằm rước linh khí
Hồng Tá Thốn để nhân dân thờ phụng và ghi nhớ công ơn ông, đến sau này đền
thờ chủ yếu là do nhân dân thuộc làng vạn dọc sông lam quản lý và thờ phụng.
Hiện nay ngôi đền nằm trong khn viên diện tích = 500 m 2, cửa và cổng
chính của ngơi đền hướng về phía tây nam, nhìn thẳng xuống sơng Lam, hiện
nay vẫn cũn di tích hai cột cổng cao khoảng 3m, trên đỉnh có cặp ngưu chầu về
nhau, theo lỗi từ ngoài cổng vào hết bậc cấp ngay bên trái cửa đền là một cái bàn
thờ thổ cơng xây bằng gạch, diện tích khoảng 1m 2 và bên trái là một bức văn bia
bằng chữ Hán được khắc trên bia đá cao khoảng 1m, rộng khoảng 40cm.
Hàng năm vào ngày 24/12 nhân dân làng vạn ở hai xã Tào Sơn và Lạng
Sơn làm lễ trải áo có lễ vật thờ cúng.
4.4. Di tích gắn liền với sự kiện cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cuả Lê Lợi
a. Di tích lịch sử đền Cửa Lũy
Nằm dưới dãy núi Kim Nhan, di tích đền Cửa Lũy được xây dựng
trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc xóm 1, xã Hoa Sơn, huyện
Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
Đền được lập đầu tiên là để thờ Thánh Mẫu Lũy Sơn. Theo lời kể của
các cụ cao niên ở địa phương và một số tài liệu cịn lưu truyền, thì đền Cửa Luỹ
được lập nên để thờ Thánh Mẫu Lũy Sơn – người đã có cơng chăm sóc cho nghĩa
18



quân Lam Sơn trong những năm kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi
tại miền núi Nghệ An.
Tương truyền: Sau khi san phẳng đồn Đa Căng (Thanh Hóa), thắng lớn
ở Bồ Đằng (Quỳ Châu), nghĩa quân Lam Sơn tiến hành bao vây thành Trà
Lân. Để bảo vệ an toàn cho nghĩa quân, không cho giặc Minh từ đồng
bằng tấn công lên giải vây cho thành Trà Lân, tại Cửa Gió (Cửa lũy) – nơi
gặp nhau giữa dãy núi đá hiểm trở Trốc Đồng và Thung Rất, chi có một
con đường độc đạo đi qua, nghĩa quân đã đắp đất lũy, lập đồn (doanh trại)
chốt lũy rất kiên cố. Lúc bấy giờ do không hợp với thủy thổ, đường hành
quân gian nan, cuộc sống rừng núi hết sức khó khăn, gian khổ, ... nên
nghĩa quân thường xuyên bị ốm đau, dịch bệnh.
Trước tình cảnh đó, dưới trướng của một tướng qn có một Nữ y tình
nguyện đi chăm lo sức khỏe cho nghĩa qn. Cơ là một nữ y có đức tính
cần cù, đầy lịng nhân hậu, ln tận tâm, tận lực chăm lo, cứu chữa sức
khỏe cho binh sỹ. Nhờ sự tận tụy đó, sức khỏe của nghĩa quân được bảo
đảm, góp phần vào chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại miền tây Nghệ
An, được mọi người tin yêu, quý trọng, tôn vinh như một ân nhân.
Một hôm, doanh trại bị dịch sốt rét hoành hành, thuốc thang thiếu thốn
nghiêm trọng. Để có đủ thuốc cứu chữa cho mọi người, cơ khơng quản ngại
khó khăn, gian khổ, một mình vượt núi băng rừng đi tìm các phương thuốc
quý. Trên đường đi, do đã kiệt sức, cô dựa vào một gốc cây cổ thụ ven đường
ngồi nghỉ và rồi không gượng dậy được. Không thấy cô về, quân sỹ tản đi các
hướng để tìm kiếm và đưa cơ về doanh trại trong trạng thái mê man, bất tỉnh,
nhưng tay vẫn nắm chặt bó lá thuốc vừa hái được.
Ngày hơm sau, cô qua đời. Vô cùng thương tiếc người nữ y tận tụy đã quên
mình vì sự nghiệp chăm lo sức khỏe cho binh sỹ với mong muốn góp sức cùng
non sông xã tắc, chống giặc giặc Minh, giành độc lập chủ quyền cho đất nước.
Vị tướng quân đã cho binh sỹ an táng cô tại trên một vùng đất gần vọng gác Cửa
Lũy, về sau, vùng đất có mộ cơ này được nhân dân gọi là cánh Đồng Cô.

Một lần, tướng quân cùng binh sỹ ra viếng mộ cô. Sau khi viếng xong, trên
đường tuần hành trận tuyến, bỗng thấy một con thỏ trắng từ gốc cây cổ thụ (nơi
cô ngồi nghỉ lần cuối) chạy ra giữa đường ngăn bước tiến của tướng qn, lượn
ba vịng quanh đồn tướng qn rồi biến mất. Thấy đây có thể là điềm dữ, vị
tướng quân ra lệnh quân sỹ quay về và tuần tra, canh gác doanh trại cẩn mật.
Sáng hôm sau, bắt được một toán thám báo của quân Minh, chúng khai rằng:
nhận lệnh đi ám sát vị tướng trấn giữ vùng đất này. Lại có truyền thuyết (theo
ơng Ninh Viết Giao, trong sách Tục thờ thần và thần tích Nghệ An) kể rằng:
Trong một trận giao chiến với quân Minh, Lê Lợi và các tướng sỹ phải chạy vào
một khu rừng để lẫn tránh, nhưng quân Minh vẫn bám riết sau lưng. Gấp quá, Lê
Lợi phải chạy vào bụi kín. Quân Minh bu xung quanh đưa giáo xỉa vào mình
19


Vương, Vương phải lấy đất chùi vết máu. Chúng cho chó săn vào lùng sục, đánh
hơi. Bỗng từ gốc cây, một con Chồn trắng chạy ra, chó đuổi theo con Chồn. Thế
là Lê Lợi được thoát. Lê Lợi cho rằng Thỏ trắng hay Chồn trắng đều chính là Nữ
y hiện hình cứu mạng, liền cho quân sỹ dựng đền thờ ngay dưới gốc cây cổ thụ
mà thỏ trắng xuất hiện và lấy tên là đền Lũy Sơn ( hay đền Cửa Lũy). Đền nổi
tiếng linh nghiệm, nên Nữ y được vua Minh Mạng phong là “Bạch y thánh
mẫu Lũy Sơn”, đến đời vua Khải Định phong là “Dực bảo Trung hưng
Thượng đẳng thần”. Rất tiếc, do chiến tranh, đền bị bom đạn tàn phá, những
sắc phong đó cũng khơng cịn. Sau này, được sự cho phép về chủ trương của
các cấp và sự đóng góp cơng đức của gia đình ông bà Tráng (phường Lê Lợi,
Thành phố Vinh), đền được khơi phục lại. Và cũng chính lần tu bổ, phục hồi
này, từ tín ngưỡng thờ vị thần chính là Nữ y(Thánh Mẫu Lũy Sơn) nhân dân
nơi đây đã tôn vinh và phát triển thành tín ngưỡng thờ Lê Lợi và các tướng
sĩ của ơng, Tam Tịa Thánh Mẫu, tứ phủ công đồng (Hưng Đạo Đại Vương),
Phật, ... Đây cũng là biểu hiện của tam giáo đồng nguyên thường gặp ở các
đền chùa nông thôn Việt Nam.

Về sau, để tưởng nhớ những công lao to lớn của những anh hùng kiệt xuất
trong chống giặc ngoại xâm giành và bảo về nền đọc lập tự chủ của dân tộc thời
phong kiến, nhân dân nơi đây còn lập bài vị thờ Lê Lợi – người lãnh đạo nhân ta
giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; thờ Hưng đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn – vị chỉ huy tài giỏi với ba lần đánh thắng giặc Mông – Nguyên đướ
thời trần.
Trong đời sống tâm linh, đền của Lũy cịn thờ:Tam Tồ Thánh Mẫu: Mẫu
Đệ nhất (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu đệ nhị (Mẫu Thượng Ngàn), Mẫu đệ tam (Mẫu
Thoải), Phật, tượng Cửu Long, tượng Tuyết Sơ:., tượng Thuyết Pháp, tượng Niết
bàn, tam Thế, Quan Âm
Đền Cửa Luỹ là nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân, ngồi những
ngày sóc, vọng, nhân dân thường đến đây thắp hương cầu mong sự bình yên, no
ấm. Cịn có những ngày như:
- Ngày 3 tháng 3: Giỗ Mậu
- Ngày 8 tháng 4: Khánh đản Phật Thích Ca.
- Ngày 15 tháng 7: Ngày cúng Chúng sinh
- Ngày 20 tháng 8: giỗ Cha (Đức Thánh Trần)
- Ngày 22 tháng 8: Giỗ Lê Lợi
Nhân dân khắp nơi lại tề tựu về đây tổ chức tế lễ, nhằm tri ân những vị
thần, thánh đã có cơng với dân với nước, giúp làng trong cuộc sống.

20


×